Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Ths CTH nhận diện những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị trong lực lượng công an thành phố cần thơ và giải pháp phòng chống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.12 KB, 94 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 10
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SUY THỐI 10
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ 10
1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ 10
1.2. SUY THỐI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - NHỮNG BIỂU HIỆN VÀ HỆ
QUẢ CỦA SUY THỐI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ 15
1.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SUY THỐI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
29
Chương 2 38
NHẬN DIỆN SUY THỐI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ TRONG 38
LỰC LƯỢNG CÔNG AN THÀNH PHỐ CẦN THƠ 38
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KINH TẾ XÃ HỘI THÀNH PHỐ CẦN THƠ VÀ
ĐẶC ĐIỂM, VAI TRỊ CỦA CƠNG AN THÀNH PHỐ CẦN THƠ 38
2.2. NHỮNG BIỂU HIỆN SUY THOÁI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MỘT
SỐ CÁN BỘ CHIẾN SĨ TRONG LỰC LƯỢNG CÔNG AN THÀNH PHỐ
CẦN THƠ HIỆN NAY 46
2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG TRÊN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA 55
Chương 3 64
QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, 64
CHỐNG SUY THỐI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ TRONG LỰC LƯỢNG 64
CÔNG AN THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY 64
3.1. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG PHỊNG, CHỐNG SUY THỐI TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ TRONG LỰC LƯỢNG CÔNG AN THÀNH PHỐ CẦN
THƠ HIỆN NAY 64
3.2. GIẢI PHÁP 67


KẾT LUẬN 82


TÀI LIỆU THAM KHẢO 85


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ANCT

:

An ninh chính trị

ANQG

:

An ninh quốc gia

CAND

:

Công an nhân dân

CATP

:

Công an thành phố

CBCS


:

Cán bộ chiến sĩ

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

ĐBSCL

:

Đồng bằng Sơng Cửu long

LLCT

:

Lý luận chính trị

TTATXH :

Trật tự an toàn xã hội

XHCN

:


Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng an nhân dân (CAND) Việt Nam là Công an của nhân dân, từ nhân dân
mà ra, vì nhân dân mà phục vụ. Trong các giai đoạn cách mạng, dưới sự lãnh đạo
của Đảng ta và Bác Hồ kính yêu, được nhân dân đùm bọc, giúp đỡ, lực lượng
CAND ngày càng trưởng thành về mọi mặt, vượt qua mọi khó khăn, thử thách;
dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong
cuộc đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù
địch, phản động và các loại tội phạm, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự, an tồn xã hội, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân.
Trải qua hơn 72 năm xây dựng và trưởng thành, cùng với lực lượng Công an
cả nước, CATP Cần Thơ quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về xây dựng lực
lượng vũ trang cách mạng, luôn đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây
dựng lực lượng CAND, đặc biệt là xây dựng lực lực lượng CATP Cần Thơ vững
mạnh về chính trị tư tưởng, ln quan tâm giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục
truyền thống, bồi dưỡng lịng u nước, ý chí chiến đấu, nâng cao tinh thần cảnh
giác cách mạng, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân; chú trọng
bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, trao dồi lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, lấy giữ vững bản chất giai cấp công nhân, xây dựng bản lĩnh chính trị,
lịng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý
nghĩa quyết định hàng đầu đối với việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, xứng đáng là lực lượng vũ trang tin cậy, sắc bén của
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Những cống hiến, đóng góp to lớn của lực lượng
CATP Cần Thơ đã vinh dự được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận, biểu
dương, đánh giá cao và tặng nhiều danh hiệu, phần thưởng cao quý.

Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, dưới tác động của
kinh tế thị trường và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với nước
ta, thực tế cho thấy bên cạnh đại đa số cán bộ chiến sĩ (CBCS) giữ vững được bản


2
chất của người cộng sản; tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn thì cũng cịn có một số CBCS, do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan có biểu hiện suy thối tư tưởng chính trị.
Đáng chú ý là một bộ phận CBCS giảm sút lòng tin vào chủ nghĩa Mác - Lê nin;
lười học tập chính trị, thiếu tin tưởng vào vai trị lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị; thiếu ý chí chiến đấu, ngại va
chạm; chưa thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng; chưa đấu tranh
mạnh mẽ trước những luận điệu sai trái, lệch lạc của những phần tử cơ hội và các
thế lực thù địch; vi phạm kỷ luật phát ngôn và nhất là vi phạm trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ được giao ngày càng có xu hướng gia tăng, gây bức xúc dư luận xã
hội và nhân dân.
Những biểu hiện của sự suy thoái tư tưởng chính trị nói trên diễn ra trong
những thời điểm khác nhau, ở nhiều cấp độ khác nhau, có khi phức tạp, gây mất
đoàn kết nội bộ ở một số cơ quan, đơn vị, là cơ hội để các phần tử xấu lợi dụng
xuyên tạc, chống phá. Vì vậy, cần phải có sự nhìn nhận khách quan, bình tĩnh, đề ra
giải pháp phịng, chống có hiệu quả, nhằm khơng ngừng nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu và xây dựng lực lượng CATP Cần Thơ ngày càng chính quy, tinh
nhuệ và từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn
mới. Nhận thức được vấn đề trên, học viên chọn đề tài: “Nhận diện những biểu
hiện suy thối tư tưởng chính trị trong lực lượng Cơng an thành phố Cần Thơ và
giải pháp phịng chống” làm đề tài luận văn Thạc sĩ ngành Chính trị học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề đặt ra của luận văn, đã có nhiều bài viết, cơng trình
khoa học nghiên cứu tình hình tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên ở phạm vi

khác nhau. Những vấn đề này chủ yếu được đề cập nhiều trong các văn kiện của
Đảng, các giáo trình đạo đức công dân dùng trong hệ thống giáo dục quốc dân và
nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí, Cụ thể như:
- Trần Ngọc Tuệ “Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong Quân đội
nhân dân Việt Nam” [77].
- Trương Minh Tuấn “Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng ở Tây Nguyên
trong giai đoạn hiện nay” [76].


3
- Đỗ Thị An “Vai trị cơng tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
trong thời kỳ đổi mới” [1].
- Nguyễn Thế Hịa “Cơng tác tư tưởng trong xử lý điểm nóng chính trị- xã
hội ở các tỉnh Duyên hải Miền Trung hiện nay” [47].
* Một số bài viết của cán bộ lãnh đạo, quản lý và nhà nghiên cứu đánh
giá kết quả và đề xuất nhiệm vụ, giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác tư tưởng
phịng chống suy thối về tư tưởng chính trị như:
- Cao Văn Định “Tăng cường vai trị cơng tác tư tưởngcủa các tổ chức cơ sở
đảng” [43].
- Đào Duy Quát “Về công tác tư tưởngcủa Đảng Cộng sản Việt Nam” [79].
- Nguyễn Khoa Điềm “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương
5 về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới” [42].
- Hồ Văn Chiểu “Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý luận hiện nay” [13].
- Trần Đức Anh “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, đấu
tranh chống diễn biến hồ bình, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” [2].
* Trong những năm qua ở Ban Tư tưởng- Văn hóa Trung ương (nay là
Ban Tuyên giáo Trung ương) đã có một số đề tài, đề án cấp Bộ như:
- Nguyễn Viết Thông “Khảo sát thực trạng tình hình tư tưởng và cơng tác
giáo dục chính trị tư tưởng trong sinh viên hiện nay” [74].
- Nguyễn Hữu Chính “Nhận diện đúng tính chất, mức độ của sự suy thoái để

kết hợp tốt giữa “xây” và “chống” [14 ], nêu lên một trong những nguy cơ lớn nhất
của đảng cầm quyền là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ có chức, có quyền. Đặc biệt, tác giả đã có những nhận diện
về các biểu hiện suy thối tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên, chỉ ra nguyên nhân
và hậu quả của nó. Từ đó, tác giả đã nêu lên biện pháp cơ bản để khắc phục là kết hợp
chặt chẽ giữa “xây” và “chống”.
- Nguyễn Văn Hào “Nhận diện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” [45], đã chỉ ra một số biểu hiện
suy thối về tư tưởng chính trị và biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống; mối quan
hệ giữa suy thối tư tưởng chính trị và suy thối đạo đức, lối sống. Từ đó gợi mở


4
một số vấn đề tham khảo trong việc nhận diện để khắc phục suy thối tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay.
- Đoàn Thế Hanh “Tìm hiểu ngun nhân tình trạng suy thối tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay” [44]. Trên cơ
sở những nguyên nhân cơ bản mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khoá XI) chỉ ra, tác giả bàn thêm về nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên. Trong hai nhóm nguyên nhân nói trên, nhóm nguyên nhân chủ quan là vấn
đề hàng đầu cần có giải pháp khắc phục hiệu quả.
- Lê Hữu Nghĩa “Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị hiện nay Thực trạng và quan điểm của Đảng ta” [62] đã chỉ ra một số nguyên nhân chủ yếu
tác động tiêu cực đến tình hình tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên như âm
mưu và hoạt động “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch; tình hình thế giới
biến đổi nhanh chóng, chủ nghĩa tư bản còn nhiều tiềm năng để phát triển, chủ
nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào; mặt trái của kinh tế thị trường. Từ đó, tác
giả nêu những quan điểm của Đảng ta trong việc đấu tranh phê phán những quan
điểm sai trái, thù địch nhằm bảo vệ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa và chỉ ra một
số hạn chế, yếu kém cần khắc phục trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng

chính trị hiện nay.
- Vũ Văn Phúc và Ngô Văn Thạo (đồng chủ biên) “Những giải pháp và điều
kiện thực hiện phòng chống suy thoái tư tưởng đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng
viên” [65]. Cơng trình đã tập trung phân tích cơ sở lý luận của việc chống suy thối
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; nêu kinh nghiệm của
Liên Xô (trước đây), Trung Quốc, Hàn Quốc, Sinhgapo và Cu Ba trong đấu tranh
phòng chống tham nhũng, suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đánh giá
thực trạng suy thối và phịng chống suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
trong cán bộ, đảng viên hiện nay; nêu mục tiêu, quan điểm, giải pháp, điều kiện
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phịng chống suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong cán bộ, đảng viên hiện nay.
- Bùi Thanh Sơn “Đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức


5
và lối sống” [67] cho rằng đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống là một việc làm rất khó khăn. Vì vậy cần phải nâng cao
nhận thức cho cán bộ, đảng viên về những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng, lựa chọn phương pháp thực hiện, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện,
kết hợp xây và chống, dựa vào quần chúng nhân dân, cấp trên gương mẫu để cấp
dưới noi theo, đồng thời phải thường xuyên nâng cao cảnh giác với những âm mưu
chống phá của các thế lực thù địch nhằm kích động, chia rẽ đoàn kết nội bộ.
- Nguyễn Xuân Thành “Nâng cao hiệu quả đấu tranh chống “diễn biến hồ
bình” và phịng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hố”” [72] phân tích âm mưu và
hoạt động của chiến lược “diễn biến hồ bình”; chỉ ra thủ đoạn của các thế lực thù
địch là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ hệ thống chính trị Việt
Nam, đặc biệt là tập trung làm biến chất lực lượng vũ trang. Cuối cùng, tác giả nêu
giải pháp đẩy mạnh cơng tác chính trị, tư tưởng và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp để
đấu tranh chống “diễn biến hồ bình” và phịng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển

hố” trong lực lượng vũ trang.
* Bàn về cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng của Cơng an các đơn vị địa
phương có:
- Nguyễn Khánh Tồn “Nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác chính trị, tư
tưởng, góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ ANTT và xây dựng lực lượng
CAND trong tình hình mới” [75].
- Lê Ngọc Nam “Một số vấn đề trọng tâm trong công tác tư tưởng của lực
lượng Công an nhân dân hiện nay” [61].
- Nguyễn Văn Kiểm “Tổng cục an ninh đa dạng hóa hình thức giáo dục
chính trị, tư tưởng cho cán bộ chiến sỹ” [49].
- Nguyễn Tiến Luật “Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh
tế và chức vụ chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng phục vụ nhiệm vụ
cơng tác chun mơn” [52].
- Hồng Văn Lĩnh “Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ chiến
sỹ Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội” [51].


6
- Phạm Văn Minh “Công an tỉnh Bắc Giang nâng cao chất lượng cơng tác
giáo dục chính trị, tư tưởng” [60].
- Nguyễn Phúc Thảo “Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ
chiến sỹ Công an là người dân tộc Khmer của Cơng an tỉnh Sóc Trăng” [73].
* Bàn về các giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả cơng tác chính trị,
tư tưởng của lực lượng Cơng an nhân dân có:
- Phạm Đức Chấn “Những vấn đề trọng tâm trong cơng tác chính trị, tư
tưởng của lực lượng Cảnh sát trại giam trong thời gian tới” [12].
- Nguyễn Đức Nhanh “Đẩy mạnh cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng - giải
pháp quan trọng để xây dựng lực lượng Công an Thủ đô trong sạch, vững mạnh” [64].
- Nguyễn Thế Báu “Thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo góp phần làm tốt
cơng tác tư tưởng trong lực lượng Công an nhân dân hiện nay” [10].

- Nguyễn Quang Vy “Giáo dục chính trị, tư tưởng - nhân tố quyết định trong
công tác chiến đấu của lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp” [80].
- Vũ Hồng Sơn “Báo chí Cơng an nhân dân góp phần nâng cao chất lượng
cơng tác chính trị, tư tưởng” [68].
- Hoàng Minh Dũng “Những vấn đề trọng tâm của cơng tác chính trị, tư
tưởng của Cơng an tỉnh Lạng Sơn” [19].
- Trần Anh Dũng “Đối thoại trực tiếp - một số biện pháp nâng cao hiệu quả
cơng tác chính trị, tư tưởng ở Công an tỉnh Vĩnh Phúc” [20].
- Phạm Hồng Cử “Nội dung cơ bản của công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng cho học viên các trường Công an nhân dân” [17].
- Vũ Văn Hiến “Công tác chính trị, tư tưởng và tiêu chí đánh giá hiệu quả
cơng tác chính trị, tư tưởng trong lực lượng Cơng an nhân dân” [46].
Nhìn chung, đã có nhiều tác giả tiếp cận nghiên cứu vấn đề đấu tranh, ngăn
chặn suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở những
phạm vi khác nhau. Các cơng trình khoa học đã chỉ ra được một số ngun nhân
dẫn đến tình hình suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
cán bộ, đảng viên nhưng chưa phân tích làm rõ từng nguyên nhân, đặc biệt là những
nguyên nhân trực tiếp, cơ bản nhất. Các cơng trình chưa đi sâu phân tích làm rõ


7
biểu hiện suy thối tư tưởng chính trị trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay; chưa chỉ ra mối liên hệ
giữa âm mưu và hoạt động “diễn biến hồ bình” với q trình “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” trong nội bộ và suy thoái tư tưởng chính trị của một bộ phận khơng
nhỏ cán bộ, đảng viên, nhiều cơng trình đã đề xuất được một số giải pháp nhằm
khắc phục biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên. Tuy vậy, các giải pháp cịn mang tính khái qt, thiếu cụ thể và chưa đồng bộ
nên chưa chỉ ra được cơ sở khoa học nhằm thực hiện có hiệu quả hiệu quả các giải
pháp đề ra.

Mặt khác, không gian và đối tượng nghiên cứu của các cơng trình khoa học
rất rộng, bao gồm phạm vi cả nước và nhiều đối tượng. Việc nghiên cứu và nhận
diện những biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, chiến
sĩ Công an thành phố Cần Thơ và đề ra giải pháp khắc phục biểu hiện suy thối đó ở
thành phố Cần Thơ đến nay chưa có cơng trình khoa học nào thực hiện.
Chính vì vậy, với luận văn này tác giả sẽ kế thừa, tiếp thu có chọn lọc các
cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học và các tác giả để tập trung nghiên cứu
sâu vấn đề trên góp phần phát huy vai trị, nâng cao hiệu quả hoạt động cơng tác tư
tưởng chính trị trong lực lượng Công an thành phố Cần Thơ theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 khoá XII của Đảng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Trên cơ sở lý luận chung về suy thoái tư tưởng chính trị, phân tích thực
trạng sự suy thối về tư tưởng chính trị của một số cán bộ chiến sĩ CATP Cần Thơ,
luận văn đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp giải pháp phịng chống
suy thối tư tưởng chính trị trong lực lượng CATP Cần Thơ hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất: Cơ sở lý luận về suy thối tư tưởng chính trị và biểu hiện suy thối
về tư tưởng chính trị.
Thứ hai: Nhận diện thực trạng suy thối về tư tưởng chính trị của một bộ
phận cán bộ, chiến sĩ CATP Cần Thơ hiện nay.


8
Thứ ba: Đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp giải pháp cơ bản
để khắc phục biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ,
chiến sĩ CATP Cần Thơ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị

trong một bộ phận cán bộ, chiến sĩ CATP Cần Thơ hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị
của một bộ phận cán bộ chiến sĩ Công an thành phố Cần Thơ hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tưtưởngHồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng, chủ trương, biện pháp của Bộ Công an về khắc
phục biểu hiện suy thối tư tưởng chính trị trong lực lượng CAND.
5.2. Phương pháp luận:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp luận của
việc nghiên cứu, thực hiện đề tài luận văn.
5.3. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương pháp lơgíc; phương pháp phân
tích và phương pháp tổng hợp; phương pháp lý luận gắn liền với khảo sát thực tiễn;
phương pháp hệ thống, phương pháp khái quát hóa.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Đóng góp của luận văn
- Chỉ ra những biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán
bộ, chiến sĩ CATP Cần Thơ hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp phòng, chống những biểu hiện suy thối về tư tưởng
chính trị của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ CATP Cần Thơ hiện nay, nhằm nâng cao
hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của CATP Cần Thơ, góp phần thực hiện


9
thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới.
6.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho
việc phịng, chống suy thối tư tưởng chính trị cho lực lượng CATP Cần Thơ nói

riêng và lực lượng CAND nói chung, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn
Đảng trong tình hình hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI)
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy trong các trường, các trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ của CAND và triển
khai thực hiện rộng rãi ở Công an các tỉnh, thành phố trong lực lượng CAND.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.


10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SUY THOÁI
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ

1.1.1. Tư tưởng
Theo nghĩa phổ thông nhất, tư tưởng là quan điểm và ý nghĩ chung của con
người đối với hiện thực khách quan và đối với xã hội. Trong thuật ngữ "Tư tưởng
Hồ Chí Minh", khái niệm tư tưởng có ý nghĩa ở tầm khái quát triết học. Khái niệm
tư tưởng sử dụng với nghĩa là một hệ thống những quan điểm được xây dựng trên
một nền tảng triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp,
một dân tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, cải tạo hiện thực [13, tr. 146].
Tư tưởng còn được hiểu “là sự suy nghĩ, hoạt động của trí tuệ nhằm một đối
tượng cần thiết, cần nghiên cứu. Là tồn bộ những sản phẩm của trí tuệ hợp thành
một học thuyết” [13, tr. 182].
Tư tưởng là một phạm trù thuộc lĩnh vực ý thức xã hội, tư tưởng có thể có sự
lạc hậu cũng như khả năng vượt trước so với những thay đổi của tồn tại xã hội, thực

tại khách quan. Ngoài ra, tư tưởng có thể hiểu theo nghĩa là một hình thức tồn tại
của ý thức xã hội, là kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, trở
thành kinh nghiệm và sự hiểu biết của con người.
Như vậy, tư tưởng là khái niệm gắn với con người và xã hội lồi người. Chỉ
có con người mới có ý thức, tư tưởng. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng là
quá trình phát triển lâu dài của con người và xã hội lồi người, thơng qua q trình
lao động sản xuất và sự hình thành ngơn ngữ - cơng cụ vật chất của tư duy.
1.1.2. Chính trị
Chính trị là một hiện tượng xã hội ra đời gắn liền với sự ra đời của giai cấp
và Nhà nước [13, tr. 37]. Từ khi xuất hiện, chính trị đã có ảnh hưởng to lớn tới quá
trình tồn tại và phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân
loại. Bởi vậy, nghiên cứu và định hình về chính trị cũng được các học giả Đông -


11
Tây - kim - cổ bàn luận khơng ít giấy mực. Trước khi chính trị học ra đời với tư
cách là một khoa học (political science) nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể, có
đối tượng, phương pháp, khái niệm, phạm trù..., đã có rất nhiều các quan niệm,
quan điểm, thậm chí là tư tưởng, học thuyết của các học giả khác nhau bàn về các
khía cạnh của chính trị. Dưới đây, tác giả xin trình bày một số quan niệm về chính
trị, trong đó có các quan niệm của các học giả trước Mác và quan niệm của chủ
nghĩa Mác.
1.1.2.1. Các quan niệm trước Mác về chính trị.
- Ở phương Tây thời kỳ cổ đại, nổi lên các triết gia, chính trị gia lỗi lạc về
chính trị.
+ Hê-rơ-đốt: Được mệnh danh là người "cha của chính trị học". Từ chỗ
nghiên cứu và phân tích sự khác biệt giữa các hình thức chính thể: Qn chủ, Qúy
tộc và Dân chủ, ông khẳng định chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp của các chính
thể này [49, tr. 05]
+ Platon: Chính trị là “nghệ thuật cung đình” liên kết trực tiếp của người anh

hùng và sự thông minh. Sự liên kết đó được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng
và tinh thần hữu ái. Chính trị là nghệ thuật cai trị. Cai trị bằng sức mạnh là độc tài,
cai trị bằng nghệ thuật mới là đích thực. [49, tr. 05]
+ Aristotle: Chính trị là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên- là hình thức
giao tiếp cao nhất của con người; con người là động vật chính trị; quyền lực chính
trị có thể được phân chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp.[49, tr 05]
- Ở phương Đông cổ đại, nhất là ở Trung Quốc thời kỳ "bách gia chư tử"
cũng xuất hiện những tư tưởng chính trị kiệt xuất. Nổi bật nhất là các quan niệm của
Khổng tử, Hàn Phi tử, Lão tử...
+ Khổng tử: Chính trị là công việc của người quân tử, là làm cho chính đạo,
chính danh. Ơng xây học thuyết về Nho gia với các quan điểm Tam cương, Ngũ
thường - là cơ sở nền tảng cho các xã hội phong kiến phương Đông lúc bấy giờ và
cả sau này [49, tr 05].
+ Hàn Phi tử: Ông quan niệm để thực hiện hoạt động chính trị cần thiết phải
xây dựng và ban hành pháp luật. Với luận thuyết nổi tiếng về thế, thuật và pháp ông là đại diện tiêu biểu của phái Pháp gia [49, tr. 05].


12
+ Lão tử: Với quan điểm "vô vi nhi trị" - khơng làm gì mà mọi người tự
thuần phục, tự tìm đến với con đường chính đạo thì đó là cái gốc của nghệ thuật trị
nước [49, tr 05].
- Thời kỳ đêm trường trung cổ: Chính trị được các nhà Thần học và chủ
nghĩa duy tâm như Tômat Đa-Canh...cho rằng "chính trị có nguồn gốc từ quyền lực
tối cao của Thượng đế" [49, tr 06].
- Thời kỳ các học thuyết và tư tưởng tư sản về chính trị: Nổi tiếng với các
thuyết "tam quyền phân lập, khế ước xã hội". Chính trị được quan niệm là cơng việc
của những "cơng dân" có tài sản [49, tr. 06].
Các tư tưởng và học thuyết nêu trên ít nhiều đã đề cập được những vấn đề cơ
bản của chính trị như vấn đề tổ chức Nhà nước, các hình thức Nhà nước và các chính
thể, vấn đề quyền lực Nhà nước, thủ lĩnh chính trị....Tuy nhiên do những hạn chế về

lập trường, quan điểm, điều kiện lịch sử- xã hội mà các học thuyết đó ít nhiều cịn bộc
lộ những quan điểm thơ sơ, chất phác, thậm chí là sai lầm về chính trị.
1.1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Chính trị
Nghiên cứu các quan điểm đi trước về chính trị, đồng thời vận dụng một
cách khoa học các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã đề xuất một
số nhận định về chính trị như sau:
Một là, Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết
vì lợi ích giai cấp: Chính trị xuất hiện cùng với sự ra đời của giai cấp và Nhà nước.
Sự xuất hiện đó một mặt là cơng cụ để một giai cấp giữ vị trí thống trị nền sản xuất
xã hội, mặt khác nhằm điều hoà và giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa giai cấp đó
với các giai tầng xã hội khác.Hoạt động chính trị chính là hoạt động thực tiễn của
các giai cấp- vì lợi ích giai cấp.
Hai là, Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà nước, là
sự tham gia vào công việc Nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác định hình
thức, nội dung, nhiệm vụ của Nhà nước. Quyền lực là vấn đề trung tâm của chính
trị.Từ chỗ nắm quyền lực chính trị, người ta tổ chức ra bộ máy thực thi quyền lực
đó- là Nhà nước. Nhà nước cần phải tổ chức theo hình thức nào, vận động theo


13
những mục tiêu, nội dung hoạt động của Nhà nước là gì. Cơng dân tham gia vào
cơng việc của Nhà nước ra sao. Tất cả những điều đó là nội dung nịng cốt của
chính trị.
Ba là, Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.Đồng thời, chính trị khơng
thể khơng chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Tính tập trung về kinh tế của chính
trị biểu hiện ở chỗ: Thứ nhất, tất cả mọi hoạt động của nền kinh tế đều đặt dưới sự
quản lý- điều tiết của một thể chế chính trị. Hoạt động chính trị chính là hoạt động
vì lợi ích của một quốc gia, cộng đồng và trên hết là lợi ích giai cấp.Thứ hai, các
thành phần kinh tế của một cộng đồng, quốc gia thì chính trị khơng thể khơng nắm

phần quan trọng, phần chủ yếu nhất của nền kinh tế đó.
Chính trị khơng thể khơng chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế biểu hiện ở
chỗ: Thứ nhất, chính trị ln là hoạt động đi trước, hoạt động tạo hành lang, tạo mơi
trường cho kinh tế phát triển. Thứ hai, Chính trị có ổn định thì kinh tế mới có bước
phát triển. Chính trị mất ổn định nền sản xuất xã hội sẽ bị đình trệ, ảnh hưởng
nghiêm trọng tới an ninh quốc gia.
Bốn là, Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới vận mệnh
hàng triệu người.Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ
thuật. Chính trị khơng chỉ dừng lại ở việc làm thế nào để điều tiết một Nhà nước
hoạt động, quản lý tất cả các mặt của đời sống xã hội, ban hành pháp luật...tức là
hoạt động đối nội, mà cịn liên quan đến quan hệ mang tính đa quốc gia, mang tầm
vóc quốc tế, có ảnh hưởng lớn đến sự tồn vong của một quốc gia - tức là hoạt động
đối ngoại. Do vậy vấn đề chính trị là hết sức phức tạp và nhạy cảm. Để giải quyết
vấn đề chính trị địi hỏi có cả kiến thức khoa học cùng sự uyển chuyển, khéo léo của
nghệ thuật.
Từ đây, chúng ta có thể rút ra khái niệm khái quát về chính trị như sau:
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân
tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước;
là sự tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạt động
chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm
kiếm những khả năng thực hiện đương lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa
mãn lợi ích.


14
1.1.3. Tư tưởng chính trị
Tư tưởng chính trị là hình thái ý thức xã hội, là yếu tố của kiến trúc thượng
tầng, là hệ thống các quan điểm, quan niệm phản ánh tồn tại xã hội trên khía cạnh
quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc trong việc giành, giữ
và thực thi quyền lực nhà nước. [21, tr. 37]

Tư tưởng chính trị phản ánh tồn tại xã hội, nhưng không phải phản ánh một
cách thụ động, một chiều. Nếu tư tưởng chính trị tiến bộ, phù hợp với quy luật vận
động khách quan của xã hội thì thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược lại, nếu tư tưởng
chính trị phản tiến bộ, thì sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Tư tưởng chính trị là hình thái ý thức xã hội, do đó có quan hệ chặt chẽ với các
hình thái ý thức xã hội khác. Ý thức chính trị bao giờ cũng là của giai cấp thống trị,
do đó các hình thái ý thức khác chịu ảnh hưởng rất lớn của ý thức chính trị. Chẳng
hạn, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật, ý thức nghệ thuật của một chế độ xã hội bao
giờ cũng bị ảnh hưởng bởi sắc màu chính trị của giai cấp cầm quyền. Đồng thời các
hình thái ý thức xã hội khác cũng có sự tác động trở lại đối với ý thức chính trị.
Như vậy, có thể định nghĩa tư tưởng chính trị như sau: Tư tưởng Chính trị là
một hình thái ý thức xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội.
Nó xuất hiện trong lịch sử cùng với sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước. Tư
tưởng Chính trị là hệ thống quan điểm tư tưởng thể hiện lợi ích và cách thức mà
một giai cấp, một lực lượng xã hội hiện thực hóa lợi ích của mình thong qua hệ
thống chính trị mà trung tâm là nhà nước.
1.1.4. Vai trị của tư tưởng chính trị trong lực lượng CAND
Cơng tác tư tưởng chính trị trong CAND là hoạt động nhằm bảo vệ, phát
triển, truyền bá và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực
tiễn cơng tác, chiến đấu và xây dựng lực lượng CAND. Công tác tư tưởng chính trị
giữ vị trí quan trọng hàng đầu đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng
CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Là nhân tố quyết định
bảo đảm cho lực lượng CAND luôn trung thành tuyệt đối với Đảng Cộng sản Việt
Nam, với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với nhân dân lao động
Việt Nam, luôn có ý chí cách mạng kiên cường, quyết tâm sắt đá, có phẩm chất đạo


15
đức trong sáng, có trình độ chun mơn vững vàng, sẵn sàng nhận và hoàn thành

xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó [56, tr. 15].
Có thể khẳng định, trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng
thành, lực lượng CAND không quản ngại khó khăn, gian khổ, ln nêu cao tinh
thần tận tụy, quên mình, sẵn sàng xả thân vì nước, vì dân, lấy lợi ích của Tổ quốc và
nhân dân làm mục tiêu, lý tưởng cao nhất để phấn đấu; chiến công nối tiếp chiến
công của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Công an đã bồi đắp nên truyền thống vẻ vang
của CAND Việt Nam. Có được điều đó là nhờ Đảng ủy Công an Trung ương và Bộ
Công an luôn nhận thức được tầm quan trọng của công tác tư tưởng chính trị trong
xây dựng lực lượng CAND nói chung và cơng tác giáo dục tư tưởng, chính trị trong
cán bộ, chiến sĩ CAND nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng, quyết định nâng cao
chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng CAND. Trong những năm
qua, Đảng ủy Công an Trung ương và Bộ Cơng an đã có nhiều chủ trương, biện
pháp lãnh đạo, chỉ đạo và tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, nhất là
tập trung thực hiện có hiệu quả các mặt công tác trọng tâm, đột phá, qua đó tạo
những chuyển biến tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng lực
lượng CAND. Trật tự, kỷ cương ngày càng được siết chặt, tinh thần trách nhiệm và
hiệu quả các mặt công tác được nâng lên. Trước hết là chuyển biến trong nhận thức
cũng như việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, chỉ thị, mệnh
lệnh, kỷ luật, kỷ cương, thực hiện quy chế, quy trình cơng tác, tư thế, lễ tiết tác
phong, nếp sống văn hóa của cán bộ, chiến sĩ CAND thực hiện mục tiêu xây dựng
lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện có
hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội, tạo mơi
trường hịa bình, ổn định góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.2. SUY THỐI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - NHỮNG BIỂU HIỆN VÀ HỆ
QUẢ CỦA SUY THỐI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ

1.2.1. Suy thối tư tưởng chính trị và những biểu hiện
Hiểu theo cách chung nhất, suy thoái là sự trở nên yếu kém so với trước và ở
trạng thái kéo dài [21, tr.727].
Trong quá trình vận động và phát triển, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các

sự vật, hiện tượng có thể dẫn đến tình trạng suy giảm, suy thối, khủng hoảng và có
thể ảnh hưởng đến sự tồn tại của nó. Đó là trạng thái thụt lùi, suy giảm, ngược lại


16
với sự phát triển, tiến triển theo chiều hướng tiến bộ, tích cực.
Trong cuốn “Những giải pháp và điều kiện thực hiện phịng, chống suy thối
tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên” của PGS.TS Vũ Văn Phúc và
PGS.TS Ngô Văn Thạo (đồng chủ biên) xác định “Suy thối tư tưởng chính trị nói
chung được hiểu là sự biến đổi về phẩm chất chính trị của mỗi người, mỗi tổ chức
xã hội theo chiều hướng xấu, dẫn đến sự xa rời những nguyên tắc, quan điểm của
đảng chính trị, có thể dẫn tới sự thay đổi hẳn bản chất của chúng” [59, tr.18].
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến cơng tác giáo dục
cán bộ, ngăn ngừa cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống. Theo Người, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công
hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Vì vậy, Đảng phải ni dạy cán bộ, như
người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ.
Sau khi Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, ngày 17-91945, trong Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà (Nghệ An), Bác căn dặn: “Cán bộ ta
nhiều người cúc cung tận tụy, hết lòng trung thành với nhiệm vụ, với chính phủ, với
quốc dân. Nhưng cũng có nhiều người hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là
độc hành, độc đốn, hoặc là dĩ cơng dinh tư. Thậm chí dùng phép cơng để báo thù
tư, làm cho dân ốn đến Chính phủ và Đồn thể. Những khuyết điểm trên, nhỏ thì
làm cho dân chúng hoang mang, lớn thì làm cho nền đoàn kết lay động. Chúng ta
phải lập tức sửa đổi ngay...” [53, tr.20].
Phê phán những thói hư tật xấu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, giáo dục
cách làm người, làm cán bộ là những việc làm thường xun, thắm tình đồng chí,
địi hỏi phải tiến hành bền bỉ, liên tục. Ngày 17-10-1945, trong Thư gửi ủy ban
nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Bác đã nêu 6 căn bệnh của cán bộ, công chức
thời bấy giờ. Đó là “trái phép’” - do tư thù tư ốn mà bắt bớ trái phép, tịch thu bừa
bãi; “cậy thế” - cho mình là người của ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng,

muốn sao được vậy; “hủ hóa”- muốn ăn ngon mặc đẹp, chi tiêu ngày càng xa xỉ,
lấy của công dùng vào việc tư; “tư túng” - kéo bè kéo cánh, khơng tài năng gì cũng
đưa vào chức này chức nọ; “chia rẽ”, bênh vực lớp này chống lại lớp kia; “kiêu
ngạo” - lúc nào cũng lên mặt “quan cách mạng”, coi khinh quần chúng. Người phê


17
phán gay gắt những “lầm lỗi rất nặng nề nói trên”, đồng thời chỉ rõ: “chúng ta
không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa”. Sự nghiệp
cách mạng phát triển, công việc ngày càng nhiều, cán bộ đảng viên tăng thêm; do ý
thức tư tưởng, rèn luyện kém, khơng ít người đã vi phạm khuyết điểm và những
khuyết điểm đó mang nặng dấu ấn của “quan cai trị”, “người cầm quyền” dưới thời
kỳ thống trị của thực dân, phong kiến.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp tháng 12-1946, để tiến
hành công cuộc chiến đấu thần thánh của nhân dân ta chống kẻ xâm lược và bè lũ
tay sai, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, ngày 1-3-1947, trong Thư gửi các đồng chí
Bắc Bộ, Bác đã nêu tám khuyết điểm “phải kiên quyết tẩy sạch”. Đó là: “Địa
phương chủ nghĩa”, chỉ biết đến lợi ích của địa phương mình, bộ phận mình; “Ĩc bè
phái”, nghe người, dùng người hẩu với mình; “óc qn phiệt quan liêu ”, hống hách,
như một “ơng vua con” ở nơi mình phụ trách; “óc hẹp hịi ”, không biết dùng chỗ
hay của người khác và giúp họ chữa chỗ dở; “ham chuộng hình thức”., thích hình
thức bề ngồi, phơ trương cho oai; “làm việc lối bàn giấy”, thích làm việc kiểu giấy
tờ, chỉ tay năm ngón, ít đi vào quần chúng, bám sát thực tiễn; “vồ kỷ luật, kỷ luật
khơng nghiêm”, việc dễ thì làm, khó thì bỏ, bỏ địa phương khi chiến tranh lan đến;
“ích kỷ, hủ hóa”, thích ăn ngon mặc đẹp, xa hoa, chỉ lo danh lợi của bản thân mình...
Trong cuộc đời cách mạng, Hồ Chí Minh đã dành nhiều thời gian cho việc
xây dựng, rèn luyện, uốn nắn những lầm lỗi, lệch lạc của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đúc kết kinh nghiệm hoạt động của bộ máy chính quyền từ sau ngày giành được
độc lập, nhất là trong gần một năm điều hành công cuộc kháng chiến, kiến quốc,
tháng 10-1947, Bác cho ra đời tập sách “Sửa đổi lối làm việc”, một cẩm nang gối

đầu giường của đông đảo cán bộ, đảng viên. Bác nghiêm khắc đòi hỏi từng tổ chức,
từng người: “Ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người
mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết
điểm phải kiên quyết tự sửa và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế Đảng
mới nhanh chóng phát triển, cơng việc mới chóng thành cơng”. Bác Hồ đã nêu lên
khá nhiều khuyết điểm của khơng ít cán bộ, đảng viên và chỉ dẫn cách thức chữa
từng căn bệnh cụ thể. Những khuyết điểm đó, theo Người, có thể xếp vào ba loại:


18
“Khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan. Khuyết điểm về sự quan hệ trong
Đảng và ngoài Đảng, tức là bệnh hẹp hịi. Khuyết điểm về cách nói và cách viết, tức
là ba hoa. Ba “chứng bệnh nguy hiểm” này nếu khơng chữa ngay để nó lây ra thì có
hại vơ cùng.
Trong q trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc đấu
tranh phịng, chống suy thối về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên. Kể từ
Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) đến nay, thuật ngữ suy thối tư tưởng
chính trị được Đảng ta đề cập nhiều trong các văn kiện. Trong đó, biểu hiện của suy
thối về tư tưởng chính trị được chỉ ra ở những khía cạnh như: mơ hồ, mất cảnh
giác trước âm mưu của các thế lực thù địch; phai nhạt lý tưởng; lười học tập, lười
suy nghĩ, không thường xun tiếp nhận thơng tin mới; tha hóa đạo đức, lối sống;
hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về sự lãnh đạo của Đảng và trong
Văn kiện Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), thuật ngữ suy thối tư tưởng chính trị được
Đảng ta chính thức sử dụng lần đầu tiên và được nêu rõ trong văn kiện các kỳ đại
hội tiếp theo. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ ra một cách hệ thống gồm 9 biểu
hiện thuy thoái tư tưởng chính trị gồm những nội dung sau:
Một là, phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa

Marx - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, xa rời tơn chỉ, mục đích của Đảng; khơng kiên định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội; phụ hoạ theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
Ba là, nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý
luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Bốn là, không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý
chí phấn đấu, khơng gương mẫu trong cơng tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách
nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; khơng cịn ý
thức hết lịng vì nước, vì dân, khơng làm trịn chức trách, nhiệm vụ được giao.


19
Năm là, trong tự phê bình cịn giấu giếm, khơng dám nhận khuyết điểm; khi
có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, khơng tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì
nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng khơng bảo vệ, thấy sai khơng đấu tranh;
lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lịng nhau hoặc vu khống, bơi nhọ, chỉ trích, phê
phán người khác với động cơ cá nhân khơng trong sáng.
Sáu là, nói và viết khơng đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.Nói khơng đi đơi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một
đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngồi hội nghị khác; nói và làm
khơng nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu.
Bảy là, duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; khơng chịu học tập,
lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.
Tám là, tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức;
kén chọn chức danh, vị trí cơng tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc
khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí cịn tìm
mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân
một cách khơng lành mạnh.
Chín là, vướng vào "tư duy nhiệm kỳ", chỉ tập trung giải quyết những vấn đề

ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen,
người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố
trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích.
Từ chỉ dẫn của Hồ Chủ tịch và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, có
thể nhóm một số biểu hiện suy thối tư tưởng chính trị thể hiện ở các nội dung sau:
- Thứ nhất, lười học tập lý luận chính trị: Lý luận chính trị có vai trị rất
quan trọng đối với cách mạng. Q trình đấu tranh của dân tộc đã chứng minh:
“Khơng có lý luận cách mạng thì cũng khơng thể có phong trào cách mạng”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà
đi” [38, tr.46]. Có thể thấy, trong mọi giai đoạn cách mạng, việc học tập lý luận
chính trị đều có vai trị rất quan trọng. Qua đó, giúp cán bộ, đảng viên trang bị đầy
đủ, tồn diện hơn, có sự hiểu biết sâu sắc hơn tri thức lý luận chính trị; giữ vững
bản lĩnh chính trị; củng cố, tăng cường niềm tin vào tương lai của dân tộc, của cách


20
mạng, lý tưởng cộng sản; làm cho cán bộ, đảng viên tự tin hơn trong công tác; là cơ
sở để cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Tuy vậy, thời gian qua, khơng ít cán bộ, đảng viên chưa tích cực học tập lý
luận chính trị, thậm chí khơng ít người cịn có biểu hiện xem thường và lười học tập
lý luận chính trị. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá XII đã chỉ rõ, cán bộ, đảng viên có biểu hiện: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa,
tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước”. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc áp dụng lý
luận vào công tác, cuộc sống. Một người dù giỏi chuyên môn, nhưng không nắm
chắc lý luận chính trị, “mù về chính trị” thì họ không rõ làm theo chủ nghĩa nào,
đường lối nào, phục vụ ai, dễ dẫn đến mất phương hướng, kết quả thường thất
bại.Từ ý nghĩa tích cực của việc học tập lý luận chính trị, mỗi cán bộ, đảng viên
phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của lý luận đối với công tác, với sự nghiệp
cách mạng. Luôn ý thức rõ rằng, khinh lý luận, lười học tập lý luận chính trị là sự

suy thối về tư tưởng chính trị, có lỗi với Đảng, với Nhân dân, vì nó là lực cản của
sự nghiệp cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học
tập lý luận. Vì khơng học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, khơng trơng xa thấy
rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị, thậm chí
hủ hóa, xa rời cách mạng” [53, tr. 54]. Người kiên quyết chống những nhận thức sai
lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập
chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Người nói: “Trong Đảng ta hiện nay cịn có nhiều người chỉ biết vùi đầu suốt
ngày vào công tác sự vụ, không nhận thấy sự quan trọng của lý luận, cho nên cịn có
hiện tượng xem thường học tập hoặc là không kiên quyết tìm biện pháp để điều hịa
cơng tác và học tập”. “Có một số đồng chí khơng chịu nghiên cứu kinh nghiệm thực
tế của cách mạng Việt Nam. Họ không hiểu rằng: Chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ
nam cho hành động, chứ khơng phải là kinh thánh. Vì vậy, họ chỉ học thuộc ít câu


21
của Mác - Lênin, để lịe người ta. Lại có một số đồng chí khác chỉ bo bo giữ lấy
những kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực
hành cách mạng.Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc
của cách mạng” [53, tr.87].
Như vậy, việc lười học tập nghị quyết của Đảng nói riêng, LLCT nói chung là
một trong những biểu hiện suy thoái rất nguy hiểm, nó làm cho cán bộ, đảng viên
khơng nắm được đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, biện pháp lãnh đạo của
cấp ủy, tổ chức đảng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng, nghị
quyết của Đảng dù rất đúng đắn, nhưng chậm được triển khai, cụ thể hóa và trở thành
hiện thực. Thậm chí có những trường hợp, cán bộ, đảng viên hiểu sai, làm trái với
đường lối, nghị quyết của Đảng, gây ra sự bất bình, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Cũng do lười học tập LLCT, không nắm chắc, hiểu sâu chủ trương, đường

lối, nghị quyết của Đảng, nên cán bộ, đảng viên không thể tuyên truyền, vận động
quần chúng nhân dân thực hiện. Do không nắm được nghị quyết của Đảng, nên khi
tiếp xúc với quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ
nhận đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng, thì khơng ít cán bộ, đảng viên tỏ ra
lúng túng, thiếu lý lẽ để “giải thốt” cho chính mình và đấu tranh bác bỏ quan điểm
sai trái, phản động, nhằm bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng.
- Thứ hai, vi phạm trong sinh hoạt chính trị: Biểu hiện rõ nhất là không thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; một số cấp ủy lãnh đạo thiếu gương mẫu không
chấp hành quy chế làm việc của cấp uỷ, đơn vị, trong phê bình thì nể nang, né
tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh.
Trong xây dựng Đảng, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản, nguyên tắc
phù hợp để duy trì dân chủ, nhưng vẫn đảm bảo sự thống nhất cao trong Đảng, khắc
phục tình trạng tập trung quan liêu và tự do vơ chính phủ, vơ tổ chức, vơ kỷ luật làm
suy yếu Đảng. Việc nhận thức và thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ
trong xây dựng Đảng có ý nghĩa quan trọng, phát huy dân chủ, thống nhất ý chí và
hành động, làm cho Đảng ngày càng lớn mạnh, đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo của
Đảng đối với quá trình chiến đấu, xây dựng, phát triển của Đảng từ năm 1930, khi
thành lập Đảng cho đến nay, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội,
được nhân dân đồng tình, ủng hộ.


22
Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta vượt
qua những khó khăn, thách thức, đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa
lịch sử, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của nước ta
trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm, sai lầm cần được khắc phục
trong việc nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng

Đảng. Nhiều đảng viên nặng về thừa nhận nội dung của nguyên tắc tập trung dân
chủ đã ghi trong Điều lệ Đảng, chưa tìm hiểu thấu đáo bản chất của nguyên tắc tập
trung dân chủ, làm cho việc thực hiện nguyên tắc này còn thiếu chủ động, mắc phải
những khuyết điểm, sai lầm. Trong xây dựng Đảng, vẫn cịn tồn tại tình trạng đảng
viên và tổ chức đảng vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm ảnh
hưởng tới việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và phê bình
nhiều nơi mang tính hình thức, ngại va chạm, chưa thực sự sâu sát thực tế. Vẫn còn
biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực hiện đúng đắn ngun tắc tập trung dân
chủ.Thậm chí cịn lợi dụng nguyên tắc tập trung dân chủ ở quy định thiểu số phục
tùng đa số, nên chạy chọt, lừa dối, mua chuộc để chiếm đa số, nhằm có chức, có
quyền, phục vụ cho lợi ích cá nhân, phe nhóm, làm ảnh hưởng đến năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu, vai trị, uy tín của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, đe dọa sự phát triển, đe dọa sự tồn vong của Đảng đối với vai trò lãnh
đạo nhà nước và xã hội của Đảng cầm quyền.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng
chỉ khẳng định “dân chủ là của cải quý báu nhất”, thực hành dân chủ “là cái chìa
khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” [56, tr. 235] mà còn là Người thực
hiện và đặc biệt yêu cầu việc thực hành dân chủ nghĩa với nhân dân phải gắn liền
với giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật để bảo đảm cho Đảng ln đồn kết thống nhất,
tăng cường sức mạnh. Người cảnh báo việc đảng viên không chấp hành kỷ luật,
xem thường kỷ luật, không thực hành dân chủ trong Đảng là:“Không nghiên cứu
nghiêm chỉnh và chấp hành đúng đắn đường lối, chính sách của Đảng, không tôn


×