Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Lịch sử các học thuyết kinh tế: Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của trường phái chính hiện đại. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý thuyết này đối với Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.7 KB, 14 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần: Lịch sử các học thuyết kinh tế

ĐỀ TÀI:
Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của trường phái chính hiện đại.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý thuyết này đối với Việt Nam.

Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Thị Giang
Sinh viên thực hiện : Lê Thị Thanh Thúy
Lớp
: K21KTDNH
Mã sinh viên
: 21A4020556

Hà nội, ngày 13 tháng 01 năm 2022


I. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Khoa học kinh tế đã có lịch sử từ lâu đời bao gồm những trường phái
khác nhau cùng tồn tại và phát triển. Mỗi trường phái có những ưu và nhược
điểm riêng, đến khi xuất hiện trường phái chính hiện đại là sự kết hợp chung
lại của các trường phái, đó là sự kết hợp lý thuyết của trường phái Keynes,
trường phái cổ điển và một số trường phái khác để đưa ra lý luận chung gọi là
nền kinh tế hỗn hợp. Và cho tới hiện tại thì nền kinh tế hỗn hợp vẫn được áp
dụng ở nước ta.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp.
- Thực trạng việc áp dụng nền kinh tế hỗn hợp ở nước ta.


- Các giải pháp hoàn thiện thực trạng trên.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng. Phép biện chứng duy vật - học
thuyết về những mối quan hệ, những quy luật chung nhất của sự phát triển
của tồn tại và tư duy, là cơ sở của việc nghiên cứu khoa học.
II. Nội dung bài tiểu luận
1. Khái quát lý luận
1.1. Khái niệm nền kinh tế hỗn hợp là gì?
Nền kinh tế hỗn hợp là nên kinh tế pha trộn những đặc điểm của các hệ
thống kinh tế khác nhau. Điều này thường được hiểu là một nền kinh tế bao
gồm cả doanh nghiệp tư nhân lẫn quốc doanh, hoặc kết hợp các yêu tố tư bản
chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, hoặc kết hợp giữa kinh tế thị trường và kinh tế
kế hoạch.
1.2. Nội dung lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp của trường phái chính hiện
đại


a. Cơ chế thị trường
Theo P.A. Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh
tế. Trong đó, cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn
nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là:
sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? Cơ chế thị trường
không phải là sự hỗn độn mà là trật tự kinh tế. "Một nền kinh tế thị trường là
một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân và doanh
nghiệp thơng qua hệ thống giá cả thị trường. Nó là một phương tiện giáo tiếp
để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác mà máy tính lớn
nhất ngày nay khơng thể giải nổi. Khơng ai thiết kế ra nó. Nó tự nhiên và
cũng như xã hội lồi người nó thay đổi"
Thị trường là một q trình mà trong đó, người mua và người bán một
thứ hàng hoá tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng

hoá. Như vậy, nói đến thị trường và cơ chế thị trường là phải nói tới hàng hố,
người bán và người mua, giá cả hàng hoá. Hàng hoá bao gồm hàng tiêu dùng,
dịch vụ và yếu tố sản xuất như lao động, đất đai, tư bản. Từ đó, hình thành
nên thị trường hàng tiêu dùng và thị trường các yếu tố sản xuất. Trong hệ
thống thị trường, mỗi hàng hoá, mỗi loại dịch vụ đều có giá cả của nó. Giá cả
mang lại thu nhập cho hàng hoá mang đi bán. Và mỗi người lại dùng thu nhập
mua cái mình cần. Nếu một loại hàng hố nào đó có nhiều người mua, thì
người bán sẽ tăng giá lên để phân phối một lượng cung hạn chế. Giá lên cao
sẽ thúc đẩy người sản xuất làm ra nhiều hàng hố hơn. Khi có nhiều hàng hoá,
người bán muốn bán nhanh để giải quyết hàng của mình nên hạ giá xuống.
Khi giá hạ, số người mua hàng đó tăng lên. Do đó, người bán lại tăng giá lên.
Như vậy, trong cơ chế thị trường có một hệ thống tự tạo ra sự cân đối giữa giá
cả và sản xuất. "Giá cả là phương tiện tín hiệu của xã hội". Nó chỉ cho người
ta biết sản xuất cái gì và sản xuất thế nào và cũng thơng qua đó nó thực hiện
phân phối cho ai.


Nói đến cơ chế thị trường là phải nói tới cung - cầu hàng hố, đó là
khái qt của hai lực lượng người bán và người mua trên thị trường. Sự biến
động của giá cả đã làm cho trạng thái cân bằng cung - cầu thường xuyên biến
đổi và đó cũng chính là nội dung quy luật cung cầu hàng hoá.
Nền kinh tế thị trường chịu điều khiển của: người tiêu dùng và kỹ thuật.
Người tiêu dùng thống trị thị trường, vì họ là người bỏ tiền ra để mua hàng
hoá do các doanh nghiệp sản xuất ra. Hay như ông nói: người tiêu dùng bỏ
phiếu bằng đô la, họ chọn điểm nằm trên ranh giới khả năng sản xuất. Song
kỹ thuật hạn chế người tiêu dùng vì nền sản xuất không thể vượt giới hạn khả
năng sản xuất. Do vậy, lá phiếu bằng đô la của người tiêu dùng mua, không
thể quyết định vấn đề phải sản xuất hàng gì. Như vậy, nhu cầu phải chịu theo
cung ứng của người kinh doanh. Vì người sản xuất phải định giá hàng của
mình theo chi phí sản xuất nên họ sẵn sàng chuyển sang lĩnh vực nhiều lợi

nhuận hơn. Thị trường chịu sự chi phối của cả chi phí kinh doanh, lẫn các
quyết định cung và cầu của người tiêu dùng quy định, ở đây, thị trường đóng
vai trị mơi giới trung gian hố giải giữa sở thích người tiêu dùng với hạn chế
về kỹ thuật.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động
của người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến với khu vực sản
xuất hàng hoá mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ các khu vực có ít người
tiêu dùng. Lợi nhuận cần đưa các nhà doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật
sản xuất hiệu quả nhất. Hệ thống thị trường luôn phải dùng lãi và lỗ để quyết
định ba vấn đề: cái gì, thế nào và cho ai.
Kinh tế thị trường phải được hoạt động trong môi trường cạnh tranh do
các quy luật kinh tế khách quan chi phối. Trong kinh tế học, Samuelson vận
dụng nguyên lý “bàn tay vơ hình” của A. Smith và ngun lý "cân bằng tổng
qt" của Leon Walras để phân tích mơi trường hoạt động của kinh tế thị
trường. Để phân tích cạnh tranh thị trường, ông đã vận dụng lý thuyết chi phí
bất biến của John Maurice Clark, lý thuyết ba nhân tố sản xuất của J.B. Say,


J.S. Mill, lý thuyết hiệu quả của Pareto nhằm đề ra các chiến lược thị trường,
bảo đảm cho các tổ chức độc quyền thu được nhiều lợi nhuận nhất.
Nghiên cứu sự hoạt động của cơ chế thị trường, Samuelson cũng chỉ rõ:
bàn tay vơ hình đơi khi cũng đưa nền kinh tế tới những sai lầm. Đó chính là
những khuyết tật của hệ thống kinh tế thị trường. Và cuối cùng là sự phân
phối thu nhập bất bình đẳng do hệ thống thị trường mang lại. Những khuyết
tật này có thể là do tác động bên ngoài gây nên, như ô nhiễm môi trường mà
doanh nghiệp không phải trả giá cho sự huỷ hoại đó; hoặc là những thất bại
thị trường do tình trạng độc quyền phá hoại cơ chế tự do cạnh tranh; hoặc là
các tệ nạn như khủng hoảng, thất nghiệp. Và cuối cùng là sự phân phối thu
nhập bất bình đẳng do hệ thống thị trường mang lại. Để đối phó với những
khuyết tật của cơ chế thị trường, các nền kinh tế hiện đại phối hợp giữa "bàn

tay vơ hình" với "bàn tay hữu hình" như thuế khố, chi tiêu và luật lệ của
chính phủ.
b. Vai trị của chính phủ trong nền kinh tế thị trường
Chính phủ có 4 chức năng chính trong nền kinh tế thị trường.
Chức năng thứ nhất là thiết lập khuôn khổ pháp luật. Chức năng này
thực tế vượt ra ngồi khn khổ của lĩnh vực kinh tế học. Ở đây, chính phủ đề
ra các quy tắc trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả
bản thân chính phủ cũng phải tuân thủ. Điều này bao gồm quy định về tài sản
(tài sản tư nhân là như thế nào?), các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh
doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và
nhiều luật lệ để xác định môi trường kinh tế.
Chức năng thứ hai là sửa chữa những thất bại của thị trường để thị
trường hoạt động có hiệu quả.
- Trước hết, những thất bại mà thị trường gặp phải làm cho hoạt động
của nó khơng hiệu quả là ảnh hưởng của độc quyền. Cần phải nói rằng, lợi
dụng ưu thế của mình, các tổ chức độc quyền có thể quy định giá cả để thu lợi
nhuận và do vậy, phá vỡ ưu thế của cạnh tranh hồn hảo. Vì vậy, cần thiết


phải có sự can thiệp của chính phủ để hạn chế độc quyền, đảm bảo tính hiệu
quả của cạnh tranh thị trường.
- Thứ hai, là những tác động bên ngoài cũng dẫn đến tính khơng hiệu
quả của hoạt động thị trường và đòi hỏi nhà nước phải can thiệp. Tác động
bên ngoài xảy ra khi doanh nghiệp hoặc con người tạo ra chi phí - lợi ích cho
doanh nghiệp khác, hoặc người khác mà các doanh nghiệp hoặc con người đó
khơng được nhận đúng những lợi ích mà họ cần phải trả.
- Thứ ba, chính phủ phải đảm nhiệm việc sản xuất hàng hố cơng cộng.
Theo các nhà kinh tế, hàng hoá tư nhân là một loại hàng hoá mà nếu như một
người đã dùng thì người khác khơng thể dùng được nữa. Cịn hàng cơng cộng
là một loại hàng hố mà khi một người đã dùng thì người khác vẫn có thể

dùng được. Ích lợi giới hạn của hàng hố cơng cộng đối với xã hội và tư nhân
là khác nhau. Nhìn chung, ích lợi giới hạn mà tư nhân thu được từ hàng hố
cơng cộng là rất nhỏ nhưng có ý nghĩa quan trọng với quốc gia. Vì vậy, tư
nhân thường khơng muốn sản xuất hàng hố cơng cộng. Mặt khác, có nhiều
hàng hố cơng cộng có ý nghĩa quan trọng cho quốc gia như hàng hố quốc
phịng, luật pháp, trật tự trong nước nên không thể giao cho tư nhân được.Vì
vậy, chính phủ phải nhảy vào sản xuất hàng hố cơng cộng.
- Thứ tư là thuế. Trên thực tế, phần chi phí của chính phủ phải được trả
bằng tiền thuế thu được. Tất cả mọi người đều phải chịu theo luật thuế. Sự
thực là tồn bộ cơng dân tự mình lại gánh nặng thuế lên vai mình và mỗi cơng
dân cũng được hưởng phần hàng hố cơng cộng do chính phủ cung cấp.
Chức năng thứ ba là đảm bảo sự cơng bằng. Trong điều kiện hoạt động
hồn hảo nhất, lý tưởng nhất của cơ chế thị trường, thì vẫn phải thấy rằng sự
phân hố, bất bình đẳng sinh ra từ kinh tế thị trường là tất yếu. Một hệ thống
thị trường có hiệu quả vẫn có thể gây ra sự bất bình đẳng lớn. Vì vậy, chính
phủ cần thiết phải thơng qua những chính sách để phân phối thu nhập. Cơng
cụ quan trọng nhất của chính phủ là thuế luỹ tiến, đánh thuế người giàu theo
tỷ lệ thu nhập lớn hơn người nghèo. Thông thường, thuế lũy tiến áp dụng cho


thuế thu nhập và thuế thừa kế. Bên cạnh thuế, phải có hệ thống hỗ trợ thu
nhập để giúp cho người già, người mù, người tàn tật, người phải nuôi con và
bảo hiểm thất nghiệp cho người khơng có cơng ăn việc làm. Hệ thống thanh
toán chuyển nhượng này tạo ra mạng lưới an tồn bảo vệ những người khơng
may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế. Cuối cùng, chính phủ đơi khi phải trợ cấp
tiêu dùng cho những nhóm dân cư có thu nhập thấp bằng cách phát tem phiếu
thực phẩm, trợ cấp y tế, cho thuê nhà rẻ...
Chức năng thứ tư là ổn định kinh tế vĩ mô. Từ khi ra đời, chủ nghĩa tư
bản đã từng gặp những thăng trầm chu kỳ của lạm phát (giá cả tăng) và suy
thối (nạn thất nghiệp rất cao). Đơi khi những hiện tượng này rất dữ dội, như

thời kỳ siêu lạm phát ở Đức trong những năm 20, thời kỳ đại suy thoái ở Mỹ
trong những năm 30 của thế kỷ XX.
Chính phủ thực hiện các chức năng trên đây thông qua ba công cụ là
các loại thuế; các khoản chi tiêu, lãi suất thanh toán chuyển nhượng, khối
lượng tiền tệ và những quy định hay kiểm sốt. Thơng qua thuế, chính phủ
điều tiết tiêu dùng, đầu tư của tư nhân khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động
kinh doanh của doanh nhân. Các khoản chi tiêu của chính phủ sẽ thúc đẩy các
doanh nghiệp hay công nhân sản xuất ra một số hàng hoá hay dịch vụ và cả
những việc chuyển tiền nhằm trợ cấp thu nhập (như bảo hiểm, trợ cấp thất
nghiệp...). Những quy định hay kiểm soát của chính phủ cũng là nhằm hướng
nhân dân đi vào hoặc từ bỏ những hoạt động kinh doanh.
Khi thực hiện các chức năng kinh tế, chính phủ phải đưa ra quyết định
về phương án lựa chọn. Từ đó, hình thành nên lý thuyết lựa chọn công cộng.
Sự lựa chọn công cộng là một sự tập hợp các ý thích cá nhân thành một sự lựa
chọn tập thể. Theo quy tắc nhất trí, tất cả các quyết định đều phải nhất trí
thơng qua. Cơng cụ để phân tích sự lựa chọn cơng cộng là đường giới hạn khả
năng - giá trị sử dụng: ở đây, các nhà kinh tế học sử dụng lý thuyết giới hạn
và hiệu quả Pareto.


Cũng như "bàn tay vơ hình", bàn tay hữu hình cũng có khuyết tật, có
nhiều vấn đề nhà nước lựa chọn khơng đúng. Những khuyết tật đó gây ra tính
khơng hiệu quả của sự can thiệp của chính phủ. Họ đưa ra những quyết định
sai, không phản ánh sự vận động của thị trường. Do vậy, phải kết hợp cả cơ
chế thị trường và vai trị chính phủ trong điều hành nền kinh tế hiện đại, hình
thành nên một "nền kinh tế hỗn hợp". Trong "nền kinh tế hỗn hợp" có cả cơ
chế thị trường và chính phủ. Cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng
trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó, chính phủ điều tiết thị trường bằng các
chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và chính phủ đều
có tính chất thiết yếu.

2. Thực trạng việc áp dụng nền kinh tế hỗn hợp ở nước ta.
Tình hình nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới là mơ hình kế hoạch hóa
tập trung, bao cấp, có những đặc trưng chủ yếu sau đây:
- Quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó
thể hiện ở việc chi tiết hóa quá đáng các nhiệm vụ do Trung ương giao cho
bằng một hệ thống các pháp lệnh từ trên xuống dưới.
- Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại khơng chịu trách
nhiệm gì với các quyết định của mình.
- Coi thường quan hệ hàng hóa - tiền tệ và hiệu quả quản lý kinh tế,
quản lý nền kinh tế và kế hoạch hóa bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản
phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch tốn chỉ là hình thức. Chế độ
bao cấp được thể hiện dưới các hình thức, bao cấp qua giá, chế độ cung cấp
và cấp phát vốn của ngân sách mà không ràng buộc vật chất đối với người
được cấp phát vốn làm cho tiêu dùng bị kìm hãm, cơng nghệ lạc hậu, hiệu quả
kinh tế thấp.
Từ các đặc điểm trên có thể thấy mơ hình này dần đã khơng cịn phù
hợp với nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ.


Đến cuối năm 1985 nền kinh tế nước ta đã rơi vào khủng hoảng trầm
trọng: kinh tế không phát triển, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng tối thiểu, lạm phát hoành hành gây giảm sút nghiêm trọng về mức sống.
Nguyên nhân của sự thất bại của cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu,
bao cấp là ở chỗ cơ chế quản lý kinh tế được xác lập dựa trên sự phủ nhận
quy luật khách quan: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất của Việt Nam trước đây cũng như bây giờ thì quan hệ sản xuất
phù hợp với nó chưa thể là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa – quan hệ sản
xuất được xác lập trong cơ chế cũ.

Trước tình hình đó , nhà nước ta đã ra quyết định chuyển đổi mơ hình
phát triển kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang mơ hình kinh tế hỗn hợp có
sự điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN.
Thực tế của quá trình chuyển đổi kéo dài gần hai mươi năm qua đã
chứng minh tính đúng đắn của việc thiết lập nền kinh tế hỗn hợp ở nước ta.
Quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã phát
huy được những mặt tích cực sau:
+ Khuyến khích mọi tiềm năng của các chủ thể trong nền kinh tế, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Nhờ đó mà động viên được
các nguồn lực của xã hội và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực đó, thúc đẩy sự
ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất và phát triển nền kinh tế hàng hóa.
+ Nhờ thị trường có thể thỏa mãn nhu cầu về hàng ngàn vạn loại sản
phẩm khác nhau cho tiêu dùng cá nhân và cho sản xuất. Những nhiệm vụ này
nếu Nhà nước thực hiện phải cần một khối lượng lớn.
+ Thị trường luôn linh hoạt, có khả năng thích nghi cao hơn khi những
điều kiện kinh tế thay đổi làm thích ứng kịp thời khối lượng và cơ cấu của sản
xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu.
Những kết quả trên có thể được gói gọn qua các chỉ tiêu kinh tế xã hội.
- Tăng trưởng GDP qua các thời kỳ


Giao đoạn

1986-1990

1991-1995

1996-2000

2001-2010


2011-2013

GDP (%)

3,9

8,2

7,5

7,26

5,6

- Xuất khẩu của Việt Nam tăng bình quân 20%/năm trong những năm
gần đây.
- Dòng vốn FDI vào Việt Nam tăng nhanh. Từ mức gần như con số
không vào năm 1986, vốn đăng ký FDI đã tăng lên 64 tỷ USD năm 2008.
Trong những năm qua, các thành tựu kinh tế của Việt Nam đã được sử
dụng hiệu quả vào các mục tiêu phát triển xã hội:
- Nâng chỉ số phát triển con người HDI (tăng 41% trong hai thập kỷ
qua).
- Gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống, phát
triển y tế, giáo dục.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo từ trên 70% đầu những năm 1980 xuống còn
9,6% năm 2012.
- Tăng tuổi thọ trung bình của người dân từ 50 tuổi trong những năm
1960 lên đến 73 tuổi năm 2012.
Những chỉ tiêu trên tuy chưa thực chi tiết những cũng phần nào nói lên

những tiến bộ vượt bậc trong nền kinh tế hỗn hợp ở Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, nền kinh tế hỗn hợp ở Việt
Nam cũng khơng tránh khỏi những mặt hạn chế:
+ Mục đích của doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, do đó họ có thể lạm
dụng tài ngun của xã hội, vì vậy xã hội sẽ phải chịu một khoản phụ phí do
khai thác khó khăn hơn. Có thể gây ơ nhiễm khơng khí và nguồn nước mà xã
hội phải gánh chịu.


+ Cơ chế thị trường gây ra sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, sự bất
bình đẳng lớn.
+ Một nền kinh tế do thị trường điều tiết, khó tránh khỏi những thăng
trầm, sự khủng hoảng kinh tế.
Để khắc phục các hạn chế trên Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế tuy
nhiên mức độ khác nhau.
3. Các giải pháp hồn thiện thực trạng trên.
Chế nền kinh tế có những mặt hạn chế của nó mà Nhà nước phải can
thiệp vào kinh tế tuy nhiên mức độ khác nhau. Sự can thiệp vào kinh tế đó
nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định đạt được hiệu quả kinh tế xã hội và giải quyết những vấn đề xã hội mà cơ chế thị trường không làm
được. Một số giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay:
3.1. Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.
Tiếp tục đổi mới tư duy và nhận thức về thể chế kinh tế thị trường và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đồng thời tiếp tục nghiên
cứu để làm rõ nội dung mơ hình kinh tế tổng qt về phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Nhà nước đóng vai trò phục vụ, tạo khung khổ
pháp lý, hỗ trợ và quản lý phát triển nền kinh tế, tôn trọng các nguyên tắc và
các quy luật của kinh tế thị trường. Các nguồn lực của Nhà nước được phân
bổ theo chiến lược, kế hoạch, quy hoạch và theo cơ chế thị trường.

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Khuyến khích phát triển các loại hình doanh
nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là
các doanh nghiệp cổ phần. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp.
3.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế,
các loại hình doanh nghiệp.


Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền sở hữu, nhất là các thiết chế
giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước trên cơ sở đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn mà Nhà nước không cần nắm
giữ theo nguyên tắc thị trường.
Áp dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp cho các đơn vị sự nghiệp
cơng có nhu cầu và điều kiện.
3.3. Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; đẩy mạnh
cơ cấu lại thị trường tài chính,nhất là tái cơ cấu thị trường chứng khốn, thị
trường bảo hiểm, hệ thống ngân hàng thương mại và xử lý nợ xấu của nền
kinh tế (bao gồm nợ xấu của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính,
các doanh nghiệp...).
3.4. Mở rộng phân cơng và phân công lao động xã hội
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hố, cần phải mở rộng phân cơng
lao động xã hội, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm cả nước cũng như
từng địa phương, từng vùng theo hướng chun mơn hố, hợp tác hố nhằm
khai thác mọi quyền lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả, cơ
sở vật chất - kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao động. Cùng với
mở rộng phân công lao động xã hội trong nước, phải tiếp tục mở rộng quan hệ
kinh tế với nước ngồi nhằm gắn phân cơng lao động trong nước với phân
công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới.

3.5. Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã
hội trong từng chương trình, dự án; trong từng bước, từng chính sách phát
triển và bảo vệ mơi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chú trọng nghiên
cứu, ban hành đồng bộ các chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội. Phát
triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất, tăng tính chia sẻ
giữa Nhà nước, xã hội và người dân.
3.6. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ


Tạo thị trường cho khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính
nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dựng khoa học và công nghệ với sản
xuất kinh doanh, quản lý, dịch vụ.
Tăng đầu tư ngân sách và có chính sách và có chính sách khuyến khích,
huy động các nguồn lực khác để đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng
công nghệ hiện đại, công nghệ cao.
3.7. Hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng, quy hoạch và
phân công, phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương.
Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế, Tạo lập thể chế kinh tế đặc thù,
đẩy mạnh cho các địa phương, Hoàn thiện thể chế phân công, phân cấp giữa
Trung ương và địa phương. Đổi mới hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế xã
hội của quốc gia và địa phương.
3.8. Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, hiệu quả đối
ngoại.
Chủ động hội nhập quốc tế, tham gia và khai thác có hiệu quả lợi ích
kinh tế các hiệp định tự do hóa kinh tế song phương và đa phương, gắn với
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tránh lệ thuộc vào một thị trường, một
đối tác cụ thể. Hồn thiện thể chế phịng ngừa và giảm thiểu tranh chấp quốc
tế; sớm hoàn thiện tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế. Mở rộng,
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị,
hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, các nước

ASEAN, tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền
thông. thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và tổ chức quốc tế.
Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề tồn cầu, bồi dưỡng, rèn luyện bản
lĩnh chính trị, năng lực, đạo đức, phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm cơng tác
đối ngoại, hồn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo
thành sức mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu quả của công tác đối ngoại.


3.9. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước về kinh tế xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân
dân trong phát triển kinh tế xã hội.
3.10. Kiên quyết cải cách hành chính để có các cơ quan quản lý nhà nước
trong sạch, thủ tục quản lý đơn giản, dễ tiếp cận, công khai, đề cao trách
nhiệm phục vụ và giải trình của cơng chức.
Nguồn
Tài liệu tham khảo: Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế - PGS.TS Trần Bình Trọng
/> /> />Số liệu tham khảo: />m/



×