Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA xã hội KHOA học đề tài sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam ý nghĩa và sự vận dụng đối với bản thân sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.78 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH

TIỂU LUẬN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ý nghĩa và sự vận dụng đối với bản thân sinh viên.

Họ và tên: Lê Ngọc Bằng
Mã sinh viên: 11190702
Lớp: Chủ nghĩa xã hội khoa học _ 28
Hướng dẫn khoa học: TS. Lê Ngọc Thông

Hà Nội, 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH

TIỂU LUẬN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ý nghĩa và sự vận dụng đối với bản thân sinh viên.

Hà Nội, 2021



MỤC LỤC

GIỚI THIỆU VÀ LỜI CẢM ƠN ............................................................................ 2
A. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ...................................................... 3
I.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu ................................................................. 3

II. Ý nghĩa của việc nghiên cứu ............................................................................ 4
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU................................................................................ 5
I. Cơ sở khoa học ...................................................................................................... 5
1.

Một số khái niệm ........................................................................................ 5

2.

Cơ sở lý luận ............................................................................................... 8

3.

Cơ sở thực tiễn............................................................................................ 9

II. Thực trạng ........................................................................................................... 9
1. Thực trạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế
giới 9
2. Thực trạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân tại Việt
Nam .................................................................................................................. 16
III. Ý nghĩa và sự vận dụng đối với sinh viên ................................................... 19
1.


Ý nghĩa thời đại của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ................. 19

2.

Sự vận dụng của sinh viên ........................................................................ 20

IV. Khuyến nghị .................................................................................................. 22
C. KẾT LUẬN ........................................................................................................ 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 25

1


GIỚI THIỆU VÀ LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học do
Tiến sĩ Lê Ngọc Thông trực tiếp giảng dạy tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, em đã nhận
được sự quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn rất tận tình, tâm huyết của thầy. Thầy đã giúp em tích
lũy thêm nhiều kiến thức để có cái nhìn sâu sắc và hoàn thiện hơn trong cuộc sống. Từ những
kiến thức mà thầy truyền tải, em đã dần trả lời được những câu hỏi trong cuộc sống thông
qua những tư tưởng thấm nhuần. Em xin chân thành cảm ơn thầy. Em tin chắc rằng đây sẽ là
những kiến thức quý báu, là hành trang để em vững bước sau này.

Với sự gợi ý đề tài “Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam; ý nghĩa và sự vận dụng đối với bản thân sinh viên”, em đã nhanh chóng hệ thống
lại kiến thức mà thầy đã dạy, tìm kiếm thêm các tài liệu từ những nguồn đáng tin cậy trên
Internet. Sau đó bằng lời văn và kiến thức của mình em đã hoàn thành được bài tiểu luận đầy
tâm huyết này.


Bài tiểu luận này có thể sẽ khơng phản ánh được hết tất cả những kiến thức mà em đã
lĩnh hội được từ thầy vì chắc chắn vẫn cịn nhiều thiếu sót vậy nên bản thân em rất mong
nhận được những góp ý đến từ thầy để bài tiểu luận của em thêm phần hồn thiện. Em xin
cảm ơn thầy ạ!

Em kính chúc thầy sức khỏe, niềm vui và là sẽ mãi ln là “người lái đị” đầy tâm
huyết của chúng em ạ.

2


A. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
I.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Trong thời đại xã hội nào, những người lao động sản xuất trong các ngành sản xuất

công nghiệp, dich vụ công nghiệp hay nhũng người công nhân đều có vai trị chân chính sáng
tạo ra lịch sử và là những người giữ vai trò quyết định sáng tạo cơng cụ sản xuất, giá trị trặng
dư và chính trị xã hội .Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận của chủ nghĩa
Mác-Lênin đã nghiên cứu một cách tồn diện về các quy luật chính trị xã hội của quá trình
phát sinh, hình thành và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong
đó, chủ nghĩa xã hội khoa học tâp trung nghiên cứu những nguyên tắc cơ bản, những điều
kiện, con đường, hình thức phương pháp đấu tranh của giai cấp công nhân để chuyển biến từ
chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội.
Từ vai trò to lớn của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
cơng nhân có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn. Trước sự khủng hoảng và sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, nhiều người đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi
về sứ mệnh lịch sử của giai câp công nhân. Bọn cơ hội xét lại và các thế lực chống Cộng có
cơ sở mới để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân, vai trị lãnh đạo của Đảng

cộng sản và chủ nghĩa xã hội .
Trong giai đoạn mới hiện nay, cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đang diễn ra
trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang trong thời kỳ thoái trào, thời đại ngày nay vẫn đang
là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới cịn
đang có nhiều biến động tiêu cực… thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân được đặt ra trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đối với nước ta, vấn đề này đươc Đảng rất
chú trọng. Vì thế, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ thể hiện rõ trong các văn
kiên Đại hội đại biểu toàn quốc, mà đây còn là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học
của nhiều nhà lý luận, nhà nghiên cứu lịch sử, và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên.
Sự tác động của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ ảnh hưởng tới sự
chuyển biến của lịch sử thế giới làm thay đổi từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái
kinh tế xã hội khác, thay đổi từ chế độ kinh tế này sang chế độ kinh tế khác… mà cịn làm
thay đổi tình hình kinh tế chính trị xã hội trên tồn thế giới, nó tác động tới q trình sản xuất
cụ thể, tới bộ mặt phát triển của thế giới. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù
cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là một trong những cống hiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác-Lênin
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ ý nghĩa, nội
dung căn bản, thể hiện cụ thể của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam trong giai

3


đoạn mới là: "Lợi ích giai cấp cơng nhân thống nhất với lợi ích của tồn dân tộc trong mục
tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là
thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố theo định hướng xã hội chủ
nghĩa..."

II.


Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Tiểu luận góp phần làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, bao gồm định nghĩa, nội dung, đặc điểm, điều kiện phát triển, việc thực hiện sứ
mệnh lịch sử của bản thân giai cấp cơng nhân,… Từ đó, cung cấp cơ sở lý luận cho việc hoàn
thiện sứ mệnh này.
Tiểu luận có thể được sử dụng để làm tài liệu phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy những
chuyên đề: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thế giới; sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam; thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân;…

4


B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. Cơ sở khoa học
1.

Một số khái niệm

Trước hết cần làm rõ được khái niệm của “giai cấp công nhân”. Để chỉ giai cấp công
nhân, các nhà kinh điển dùng nhiều khái niệm như: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội, giai cấp
công nhân ... hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình và lao động làm thuê ở
thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công
nghiệp như những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm.
Trong các thuật ngữ này, tuỳ từng điều kiện mà ta sử dụng. Tuy nhiên, các thuật ngữ
đó đều nói lên: Giai cấp công nhân- con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai
cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại. Ngồi các
thuật ngữ trên, C.Mác và Ph.Ăngghen cịn dùng những thuật ngữ có nội dung hẹp hơn để chỉ
các loại công nhân trong các ngành khác nhau, trong các giai đoạn khác nhau của công
nghiệp như: công nhân cơ khí là cơng nhân làm trong ngành cơ khí; công nhân dệt là công

nhân làm trong ngành dệt; công nhân công trường thủ công là công nhân làm trong các công
trường; công nhân nông nghiệp là công nhân làm trong ngành nơng nghiệp có sử dụng các
trang thiết bị của cơng nghiệp ...
Mặc dù các thuật ngữ trên có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì theo
C.Mác và Ph.Ăngghen chúng vẫn chỉ mang hai thuộc tính căn bản. Thứ nhất, về phương thức
lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp công nhân là lao động trực tiếp hay gián tiếp vận
hành các công cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hố cao.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó là những người lao động khơng
có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị
thặng dư.
Trong hai tiêu trí này, C.Mác và Ph.Ăngghen tới tiêu chí một đó là cơng nhân cơng xưởng, được coi là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại. Hai ông cho rằng: “Các
giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai
cấp vơ sản lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp”; “công nhân cũng là một phát minh của
thời đại mới, giống như máy móc cũng vậy ... cơng nhân Anh là đứa con đầu lịng của nền đại
cơng nghiệp hiện đại”.
Với tiêu chí thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn mạnh vì chính điều
này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản: “giai cấp tư
sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại- tức là giai cấp

5


chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động
của họ làm tăng thêm tư bản- cũng phát triển theo. Những cơng nhân ấy, buộc phải tự bán
mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ
một món hàng nào khác, vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống
của thị trường”. Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc trưng cơ bản nhất của giai cấp
công nhân dưới chế độ tư bản, do đó C.Mác và Ph.Ăngghen cịn gọi giai cấp công nhân là
giai cấp vô sản.
Tại sao C.Mác và Ph.Ăngghen lại đặc biệt nhấn mạnh hai tiêu chí trên? Sở dĩ như vậy

vì đây chính là hai vị trí phân biệt giai cấp cơng nhân với các giai cấp khác trong xã hội. Họ
phải kiếm được việc làm và họ phải kiếm được việc làm khi họ bán được sức lao động. Giữa
giai cấp công nhân và giai cấp nơng nhân có sự khác nhau. Hai khái niệm về hai giai cấp này
khác nhau ở chỗ: Nông dân sử dụng tất cả các công cụ sản xuất để tạo ra một sản phẩm hoàn
chỉnh; sản phẩm của nơng dân mang tính chất cá nhân và cơng cụ sản xuất của họ cịn thơ sơ.
Cịn giai cấp cơng nhân có khác: cơng cụ sản xuất hiện đại; mỗi công nhân là một mắt khâu
của công việc sản xuất; sản phẩm của họ mang tính chất xã hội. Giai cấp cơng nhân cũng
khác với vơ sản lưu manh. Đó là giai cấp cơng nhân khơng có tư liệu sản xuất, họ tồn tại được là nhờ bị bóc lột giá trị thặng dư. Còn giai cấp tư sản, họ có nhiều tư liệu sản xuất nhưng
lại khơng có sức lao động, họ phải thuê giai cấp công nhân và bóc lột sức lao động của giai
cấp cơng nhân để tồn tại. Đây chính là hai mặt của một vấn đề.
Dưới chế độ chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân lại là những người lao động tự do,
những người bán sức lao động để sống, họ là những người làm công ăn lương (hay làm thuê),
là lao động trong lĩnh vực công nghiệp. Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
trong nửa sau của thế kỷ XX, bộ mặt của giai cấp công nhân hiện đại có nhiều thay đổi khác
trước. Từ dự kiến của C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân xét về diện mạo có nhiều
biến đổi. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội hiện nay đã vượt xa trình độ văn
minh cơng nghiệp trước đây, sự xã hội hố và phân công lao động xã hội mới, cơ cấu của giai
cấp cơng nhân hiện đại; các hình thức bóc lột giá trị thặng dư ... đã làm cho diện mạo của
giai cấp cơng nhân hiện đại khơng cịn giống với những mô tả của C.Mác trong thế kỷ XIX.
Tuy thế nhưng giai cấp công nhân hiện đại vẫn tồn tại, vẫn có sứ mệnh lịch sử của mình trong
xã hội tư bản hiện đại; những thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân mà C.Mác đã phát
hiện ra vẫn còn nguyên giá trị.
Hiện nay, cơ cấu ngành nghề của giai cấp cơng nhân đã có nhiều thay đổi to lớn. Bên
cạnh lực lượng công nhân truyền thống, xuất hiện cơng nhân trình độ tự động hố với việc áp
dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất. Bên cạnh những ngành công nghiệp truyền

6


thống, xuất hiện công nhân hoạt động ở lĩnh vực dịch vụ. Thực tế, ở các nước tư bản, công

nhân trong các ngành dịch vụ này chiếm 50% đến 70% lao động.Tuy nhiên, điều này khơng
hề làm giảm vai trị của giai cấp công nhân trong nền kinh tế và ngay cả tỷ trọng của giai cấp
công nhân trong dân cư. Bởi vì những người làm thuê trong các ngành dịch vụ gắn liền với
công nghiệp và hoạt động theo lối công nghiệp vẫn là công nhân xét cả trên hai thuộc tính về
giai cấp cơng nhân. Mặt khác, bên cạnh trình độ thấp của giai cấp cơng nhân truyền thống đã
xuất cơng nhân có trình độ cao, có xu hướng “tri thức hoá” và cũng ngày càng tiếp thu thêm
đơng đảo những người thuộc tầng lớp trí thức vào hàng ngũ của mình. Mặc dù vậy, bản chất
về giai cấp công nhân cũng không hề thay đổi. Nếu trước kia, công nhân bán sức lao động
chân tay là chủ yếu thì nay, họ bán cả sức lao động chân tay và lao động trí óc, giá trị ngày
càng lớn và do đó càng bị bóc lột giá trị thặng dư theo chiều sâu. Giai cấp cơng nhân bắt đầu
có sự thay đổi về tài sản. Phần lớn, họ không cịn là những người vơ sản trần trụi với hai bàn
tay trắng, mà họ đã có một số tư liệu sản xuất phụ có thể cùng gia đình làm thêm; một số
cơng nhân đã có cổ phần, cổ phiếu ở xí nghiệp. Tuy vậy nhưng nó cũng khơng làm thay đổi
toàn bộ lực lượng sản xuất cơ bản nhất, quyết định nhất đối với nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, họ vẫn bị bóc lột dưới những hình thức khác nhau.
Giai cấp công nhân hiện nay không những trong lĩnh vực cơng nghiệp mà trong mọi
ngành nghề khác nhau, có trình độ sản xuất khác nhau của nền cơng nghiệp hiện đại. Họ là
những người trực tiếp đứng máy, không nằm trong dây truyền sản xuất tự động, không kiểm
tra hoạt động máy móc ... mà đó là những chuyên gia trực tiếp chăm lo nghiên cứu, sáng chế
để không ngừng cải tiến máy móc nhằm nâng cao chất lợng sản phẩm, năng suất lao động.
Họ là những người hoạt động ở các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ cho sản xuất như bưu
điện, viễn thông, giao thông vận tải,... Họ còn là những người lao động làm thuê trong các
ngành dịch vụ đang trở thành những ngành công nghiệp thực sự như du lịch, ngân hàng,
thông tin ... Đó cịn là những nhân viên thừa hành làm cơng ăn lương phục vụ cho hệ thống
quản lý của các công ty. Đối với giai cấp công nhân ở thời kỳ đế quốc ta còn thấy bộ phận
làm thuê trong các doanh nghiệp tư nhân. Xét về tư cách giai cấp, họ còn là những người làm
chủ, nhưng xét về góc độ cá nhân, những người này vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư, do đó họ
vẫn mang hai thuộc tính cơ bản của giai cấp cơng nhân. Do vậy họ vẫn nằm trong giai cấp
cơng nhân.
Tóm lại, căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản của giai cấp cơng nhân, ta có thể nói: những

người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp là cơng nhân, cịn
những người làm cơng ăn lương phục vụ trong các ngành khác như y tế, giáo giục, văn hố,
dịch vụ (khơng liên quan đến sản xuất cơng nghiệp) ... là những người lao động nói chung, họ
đang được thu hút vào các tổ chức cơng đồn nghề nghiệp nhưng họ không phải là công

7


nhân. Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân trở thành giai cấp nắm chính quyền, thành
giai cấp thống trị nhưng khơng thành giai cấp bóc lột, họ có nhiệm vụ lãnh đạo cuộc đấu
tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động làm chủ
những tư liệu sản xuất cơ bản đã được cơng hữu hố. Sau khi xố bỏ được mọi giai cấp, giai
cấp cơng nhân sẽ khơng cịn nữa. Lúc đó, cơng nhân sẽ như mọi lao động được giải phóng,
đều có điều kiện phát triển tự do và tồn diện.
Có thể nói, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai tiêu chí cơ bản của
giai cấp cơng nhân cho đến nay vẫn cịn ngun giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để
chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Từ hai tiêu chí trên ta có thể định nghĩa:
“Giai cấp cơng nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá
trình hình thành và phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hố ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến,
trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các
quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội”.
2.

Cơ sở lý luận

Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền
công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho
xu hướng phát triển của phương thức sản xuất tương lai; do vậy, về mặt khách quan nó là giai

cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xóa bỏ mọi chế độ tư hữu, áp bức bóc lột và xây dựng thành cơng xã hội mới - chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, khi nói về vai trị lịch sử của giai
cấp công nhân, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “...phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một
lực lượng bị buộc phải hoàn thành cuộc cách mạng ấy, nếu khơng thì sẽ bị diệt vong” và
“Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện
đại”. C.Mác và Ph.Ăngghen đã tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, chỉ ra con đường và những biện pháp cần thiết để giai cấp công nhân hồn thành
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân Việt nam hiện nay 124 được sứ mệnh lịch sử của
mình. V.I.Lênin cho rằng: “Điểm chủ yếu trong học thuyết Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai
trị lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Theo quan điểm
của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là một q
trình lâu dài, khó khăn, phức tạp và cần phải trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất: giai
cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, chiếm lấy chính quyền nhà nước. Giai đoạn thứ hai:

8


giai cấp vơ sản dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai
cấp tư sản, để tiến hành cách mạng xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Để hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân phải tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân lao động,
tiếp thu lý luận khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin để thành lập nên chính đảng
tiên phong của mình và sẵn sàng đấu tranh khi có thời cơ cách mạng.
3.

Cơ sở thực tiễn

Để có một cái nhìn khách quan và khoa học, để có một sự nhận thức thống nhất về
khái niệm giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó, tất yếu phải trở về với thế giới quan,
phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Muốn nhận biết giai cấp

cần phải dựa vào phương thức lao động của tập đoàn người trong một hệ thống sản xuất nhất
định. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân (cũng như giai
cấp tư sản trước kia) phụ thuộc vào tập đồn người đó có đại diện cho một lực lượng tiến bộ
nhất của thời đại hay khơng. Đây cũng là tiêu chí, là cơ sở để phân biệt giai cấp công nhân
với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, C. Mác
và Ph. Ăngghen đã khẳng định giai cấp tư sản đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp địa chủ quý tộc. Thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản được thể
hiện bằng sự xóa bỏ phương thức sản xuất phong kiến và xác lập phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, sở dĩ giai cấp tư sản có được sứ mệnh lịch sử
nói trên vì giai cấp tư sản đã đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ hơn phương thức sản
xuất phong kiến, đại diện cho một lực lượng sản xuất tiêu biểu hơn so với lực lượng sản xuất
của xã hội phong kiến. Hai ơng cịn khẳng định: khi đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa phát
triển cùng với sự lớn lên của giai cấp tư sản là một đội quân lớn mạnh của những người vô
sản (tức giai cấp vô sản). Giai cấp vô sản sinh ra trong nền đại công nghiệp, lớn lên cùng nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa và là lực lượng trực tiếp sử dụng công cụ sản xuất hiện đại,
vận dụng các tri thức khoa học công nghệ của xã hội hiện đại. Q trình xã hội hóa lực lượng
sản xuất nhanh chóng mâu thuẫn với tính trì trệ bảo thủ của quan hệ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa.
II. Thực trạng
1. Thực trạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới
Lịch sử phát triển của thế giới chính là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế xã
hội từ thấp đến cao. Trong xã hội có giai cấp, để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất phát triển đến trình độ xã hội hoá cao với quan hệ sản xuất cũ, giữa giai cấp thống trị với
giai cấp lao động phải phát triển từ hình thái kinh tế xã hội thấp đến cao. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân lao động: là người sáng tạo chân

9


chính ra lịch sử; là người có vai trị quyết định sáng tạo công cụ sản xuất, giá trị thặng dư,

chính trị xã hội. Khi trong xã hội cịn tồn tại giai cấp bóc lột trong một phương thức sản xuất
với điều kiện phương thức sản xuất đó cịn giữ vị trí tiên tiến, do đó phải đảm bảo quy luật
lịch sử. Trong sự chuyển biến của hình thái kinh tế trong xã hội, là giai cấp trung tâm, có
nhiệm vụ phải thoả mãn các điều kiện như: là giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất
tiên tiến; là giai cấp có hệ tư tưởng độc lập; giai cấp này phải tiến hành thuyết phục tập hợp
và tổ chức quần chúng làm cách mạng. Và hai nhiệm vụ quan trọng là: tiến hành xoá bỏ chế
độ xã hội cũ; xây dựng hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn.
Khi nghiên cứu về các giai cấp, tầng lớp trong hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã rút ra các kết luận: Một là: giai cấp tư sản trong chưa đầy một thế
kỷ đã tạo ra một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn, với lực lượng sản xuất bằng tất
cả các xã hội trước để lại, tạo ra năng xuất lao động cao hơn nhiều. Do đó giai cấp tư sản đã
từng đóng vai trị tích cực trong lịch sử là tạo năng suất lao động cao. Hai là: khi lực lượng
sản xuất đạt tới trình độ xã hội hố cao, xuất hiện mâu thuẫn về quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa mà tập trung là sở hữu tư bản chủ nghĩa, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất như cũ thì xuất hiện giai cấp mới để giải
phóng quan hệ sản xuất cũ, đó chính là giai cấp công nhân. Ba là: việc giai cấp cơng nhân
đứng lên đấu tranh để giải phóng giai cấp, điều đó khơng có nghĩa chỉ giải phóng giai cấp mà
tập trung giải phóng xã hội và giải phóng con người vì giai cấp cơng nhân có lợi ích phù hợp
với nhân dân lao động, với dân tộc và với nhân loại.
Từ những kết luận của C.Mác và Ph.Ăngghen và những khẳng định về giai cấp công
nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, có khả năng tổ chức và lãnh đạo
toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cải biến cách mạng, từ hình thái kinh tế xã hội tư
bản sang hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức,
bất cơng và mọi hình thức bóc lột. Hay nói cách khác, nội dung tổng quát sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân là: xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người,
giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức bóc
lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản văn minh.
Ph.Ăngghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy- đó là sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vơ sản hiện đại”. Cịn Lênin đã chỉ rõ: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của
C.Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trị lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng

xã hội chủ nghĩa”. Sứ mệnh lịch sử tồn thế giới của giai cấp cơng nhân do C. Mác (1818 1883) phát hiện và luận chứng từ cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên, đến nay đã trải qua
ba lần tiến hóa. Những nội hàm cơ bản của lý luận này đã thể hiện và tiếp tục được bổ sung

10


từ thực tiễn các cuộc công nghiệp và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng công nghiệp
4.0, về đại thể, sẽ vẫn tiếp tục lơ-gíc của C. Mác, tiếp nối nội dung sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân trong thời đại hiện nay.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gần đây mới được nhận thức rõ dấu hiệu và những
đặc điểm của nó. Giáo sư K. Sơ-áp (K. Schwab), Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF),
là người đưa ra thuật ngữ này. Cách mạng công nghiệp 4.0, theo ông, là một thuật ngữ phản
ánh những đổi mới các cơng nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu, năng lượng, vật liệu
và chế tạo trong sản xuất và dịch vụ. Đó là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái
niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, intơ-nét của vạn vật và in-tơ-nét của các dịch vụ. Nó “là sự thay đổi cơ bản trong cách thức
chúng ta tạo ra, tiêu thụ sản phẩm và liên đới lẫn nhau, được dẫn dắt bởi sự hội tụ của thế giới
vật chất, thế giới số và con người chúng ta”.
Cách mạng công nghiệp 4.0 có đặc điểm là “Tốc độ vận động ngày càng nhanh chứ
không đều đặn”, với quy mô là “thúc đẩy những chuyển đổi mơ hình chưa từng có trên các
khía cạnh kinh tế, kinh doanh, xã hội và cá nhân”, có những tác động “dẫn đến sự chuyển đổi
của toàn bộ các hệ thống giữa các (và trong mỗi) quốc gia, doanh nghiệp ngành cơng nghiệp
và tồn xã hội”. Theo đó, chúng ta có thể phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân từ lơ-gíc chung của các cuộc cách mạng cơng nghiệp đã diễn ra và từ những nhận
thức ban đầu về Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, cũng như những dự báo. Thực hiện nội
dung kinh tế - kỹ thuật của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. C. Mác
khẳng định, giai cấp công nhân là chủ thể của phương thức sản xuất công nghiệp với các đặc
tính: cơng cụ lao động là máy móc, năng suất lao động cao, lao động có tính chất xã hội hóa
cao và gợi mở nhiều giải pháp tích cực cho q trình phát triển xã hội. Chính từ q trình sản
xuất vật chất bằng phương thức cơng nghiệp, giai cấp công nhân được xác định là giai cấp
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại và thơng qua đó, chuẩn bị những tiền đề

vật chất cho xã hội tương lai. Về lơ-gíc, có hai nội dung lý luận cơ bản cần được chú ý ở
phương diện này:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội hiện
đại bằng phương thức cơng nghiệp mang tính xã hội hóa cao. Xã hội nào cũng tồn tại và phát
triển thơng qua q trình sản xuất và tiêu thụ của cải vật chất. Với tư cách là lực lượng sản
xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp và tham gia quá trình sản xuất, tái sản xuất của cải vật chất,
giai cấp cơng nhân góp phần quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Thêm vào đó, tính
chất xã hội hóa ngày càng tăng của sản xuất cũng làm nảy sinh những nhân tố mang tính chất
xã hội trong q trình phát triển. Theo C. Mác, đây chính là yếu tố duy vật cho chủ nghĩa xã

11


hội hiện đại, cái tính chất mà trước cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất chưa xuất hiện
trên thực tế. Cơng nghiệp càng phát triển thì tính chất xã hội hóa này ngày càng cao. Nội
dung kinh tế này là yếu tố sâu xa nhất khẳng định sự cần thiết của sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân đối với quá trình phát triển của văn minh nhân loại. Thực hiện đầy đủ và thành
công nội dung kinh tế này cũng là điều kiện vật chất để bảo đảm thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội.
Thứ hai, cũng từ q trình sản xuất cơng nghiệp này, những nhân tố vật chất kỹ thuật
cho sự hình thành một xã hội mới được tích lũy ngày một nhiều hơn. Cũng vì vậy, C. Mác coi
cách mạng công nghiệp cùng những yếu tố cấu thành của nó, như máy móc, cách thức tổ
chức quản lý sản xuất, trình độ cao của lao động và hợp tác lao động công nghiệp... là “những
nhà cách mạng” khiến xã hội hiện tại không thể duy trì trạng thái cũ.
Hai lơ-gíc căn bản đó đang tiếp diễn với mức độ sâu sắc và rộng lớn hơn trong cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0. Những nghiên cứu về cuộc cách mạng này đang xác nhận điều
đó. Về đại thể, như dự báo của Giáo sư K. Sô-áp: “Những sáng tạo lớn về công nghệ sắp thổi
bùng những thay đổi lớn lao trên khắp thế giới - như một tất yếu khách quan”. Tốc độ của
những sáng kiến lan tỏa nhanh, năng suất lao động tăng mạnh. Chẳng hạn cách đây hơn 1
thập niên, dự án đầu tiên về giải mã bộ gen người mất 13 năm để hoàn thành với chi phí là

2,7 tỷ USD. Cịn hiện nay, một bộ gen người có thể được giải trình tự trong vài giờ với chi
phí vài nghìn USD. Các máy giải trình tự gen “để bàn” giá thành tương đối thấp có thể được
sử dụng trong chẩn đốn thường ngày, có khả năng cải thiện đáng kể việc điều trị từ việc ứng
dụng công nghệ ADN để đưa ra các phương pháp điều trị phù hợp cho bệnh nhân. Tiếp theo
là sinh học tổng hợp cho khả năng tùy chỉnh chính xác các sinh vật bằng việc chỉnh sửa ADN
được thiết kế có chủ đích.
Nhìn chung, “sự hài hịa và tích hợp ngày càng tăng của nhiều ngành và nhiều phát
kiến khác nhau” vừa tạo ra những đột phá mới trong sản xuất và dịch vụ, vừa tạo ra những cơ
sở mới cho tăng năng suất lao động xã hội. Cần chú ý tới những biểu hiện mới của tính chất
xã hội hóa, bộc lộ từ cuộc Cách mạng cơng nghiệp 3.0 và nay đang tiếp diễn. Cơ hội học tập
đang mở rộng hơn với mọi người. Hiện nay, người ta nói nhiều đến vấn đề giảm dần nhu cầu
về lao động giản đơn, tăng lao động trình độ cao nhưng chưa chú ý đến khả năng tiếp cận
giáo dục - dạy nghề cũng tăng lên và dễ dàng hơn với đa số. Người lao động hiện đại dễ dàng
hơn trong việc học tập để nâng cao tay nghề và mở rộng khả năng chuyển đổi nghề nghiệp
trước những thách thức về việc làm do Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra. Kiến thức, kỹ năng
lao động hiện đại đang có xu hướng xã hội hóa. Máy tính, điện thoại thơng minh, các kho dữ
liệu khổng lồ có thể dễ dàng tiếp cận với chi phí thấp, các trường đại học, cao đẳng với nhiều

12


chương trình đào tạo từ xa… là những điều kiện thuận lợi để người lao động bình thường có
thể học tập và tự học để nâng cao trình độ chuyên môn thông qua cơ sở của truyền thông số.
“Dễ tiếp cận, chi phí thấp, trung tính về địa lý của truyền thông là những nhân tố cho phép
tương tác rộng rãi hơn, vượt qua các ranh giới xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị, tơn giáo và ý
thức hệ”. Nhu cầu của thị trường sức lao động hiện đại vừa đặt ra yêu cầu cao về chất lượng
của nguồn nhân lực, vừa nâng cao vị thế của người lao động. Khi đã có một trình độ tương
đương với nhu cầu của thị trường, vị thế của người công nhân cũng khác trước khi thương
lượng với người sử dụng lao động về giá cả của hàng hóa sức lao động. Trong điều kiện mới,
khả năng tự bảo vệ của người lao động đã được tăng lên.

Sự biến đổi cấu tạo hữu cơ tư bản thay đổi cũng đang làm rõ xu thế xã hội hóa lực
lượng sản xuất. Tri thức khoa học và cơng nghệ có vai trị lớn trong sản xuất đang tạo ra một
thay đổi quan trọng: tư bản khả biến (v) tăng nhanh, tư bản bất biến (c) giảm tương đối trong
tỷ lệ cấu thành giá trị của hàng hóa. Vai trị to lớn của tri thức, tay nghề, văn hóa, kinh
nghiệm của người cơng nhân trong sản xuất công nghiệp đang từng bước phá vỡ cơ chế
chiếm hữu của giai cấp tư sản, vốn bắt nguồn từ độc quyền sở hữu tư liệu sản xuất, độc quyền
chiếm đoạt giá trị thặng dư. Máy móc, cơng nghệ sẽ vẫn tiếp tục đóng vai trị là “những nhà
cách mạng” thầm lặng. Chính xu hướng “tích hợp, hội tụ của thế giới vật chất, thế giới số và
con người” quy định và thúc đẩy xã hội phải phát triển khác đi. Nó buộc con người trong q
trình sản xuất hiện đại không chỉ chú ý đến lợi nhuận, hiệu quả kinh tế mà cịn phải quan tâm
đến nhiều khía cạnh khác của phát triển bền vững. Xã hội hóa là xu thế khách quan đang
được Cách mạng công nghiệp 4.0 thúc đẩy khá mạnh mẽ. Nó thể hiện ở xu hướng tiếp hợp,
liên ngành, liên kết chuỗi trong sản xuất hiện đại. Xã hội hóa cịn thể hiện ở sự gắn kết các
khâu sản xuất - dịch vụ - tiêu dùng. Trước đây, trong Cách mạng công nghiệp 3.0 vốn đã có
bước tiến dài với lý thuyết ma-két-tinh, cịn ngày nay đang tiếp diễn với việc kết hợp đa
chiều: kỹ thuật số, vật chất và sinh học trong sản xuất và dịch vụ.
Thực hiện nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Theo quan niệm của C. Mác, sở dĩ giai cấp cơng nhân có sứ mệnh lịch sử
là vì họ là giai cấp đại diện cho xu thế xã hội hóa của lực lượng sản xuất hiện đại. Trong sản
xuất công nghiệp, họ vừa là “sản phẩm của nền đại công nghiệp”, vừa là chủ thể của quá trình
này. Do gắn liền với phương thức lao động này, giai cấp cơng nhân có được những phẩm
chất, như tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác, tâm lý lao động cơng nghiệp... Đó
là những phẩm chất cần thiết cho một giai cấp cách mạng và có năng lực lãnh đạo cách mạng
xã hội chủ nghĩa.

13


C. Mác là người đầu tiên chỉ ra quan hệ lợi ích phức tạp giữa cơng nhân và tư bản. Hai
bên vừa đối lập nhau về lợi ích cơ bản, vừa phụ thuộc nhau về lợi ích hằng ngày trong thị

trường sức lao động. Lao động sống của công nhân là nguồn gốc cơ bản của giá trị thặng dư
và sự giàu có của giai cấp tư sản cũng chủ yếu nhờ vào việc bóc lột được ngày càng nhiều giá
trị thặng dư. “Trong xã hội ấy, những người lao động thì khơng được hưởng, mà những kẻ
được hưởng lại không lao động”. Đây là mâu thuẫn cơ bản về lợi ích giữa giai cấp cơng nhân
và giai cấp tư sản và là cốt lõi của bất công và đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện đại. Mâu
thuẫn ấy khơng thể điều hịa và chỉ có thể được giải quyết bằng việc xóa bỏ chế độ bóc lột giá
trị thặng dư trên cơ sở xác lập một quan hệ sản xuất mang tính chất cơng hữu những tư liệu
sản xuất chủ yếu. Chính lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa đã chỉ ra biện pháp giải
quyết ấy. Theo đó, nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
được xác định là cuộc đấu tranh vì các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, như cơng bằng, bình
đẳng, dân chủ… và tập trung nhất là việc xác lập chế độ chính trị - xã hội mới do giai cấp
cơng nhân lãnh đạo - chế độ xã hội chủ nghĩa để tạo ra tiền đề chính trị cho xây dựng xã hội
xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo cơ hội và làm nổi bật các nội dung
sau: Dân chủ hóa - cơng nghệ số góp phần mở rộng truyền thông, tạo điều kiện để thông tin
đến với mọi người, qua đó phát triển dân chủ. Với những nước phát triển, thông qua thành
tựu khoa học - cơng nghệ, người dân có điều kiện tốt hơn để giám sát và chia sẻ quyền lực
với nhà nước đương trị. Công nghệ và thiết bị ngày càng cho phép người dân tiếp cận gần
hơn với chính phủ để nêu ý kiến, để cùng phối hợp hoạt động. Đồng thời, các chính phủ cũng
sở hữu sức mạnh về cơng nghệ để tăng cường sự quản trị của mình đối với người dân dựa
trên những hệ thống giám sát rộng rãi và khả năng điều khiển kết cấu hạ tầng số. “Tuy nhiên,
xét về tổng thể, các chính phủ sẽ ngày càng phải đối mặt với áp lực phải thay đổi cách thức
tiếp cận hiện nay của họ đối với sự tham gia của cơng chúng và quy trình đưa ra quyết định
khi vai trò trung tâm của họ trong việc thực thi chính sách bị suy giảm trước sự xuất hiện của
các nguồn cạnh tranh mới, sự phân phối lại và phân bổ quyền lực dưới sự hỗ trợ đắc lực của
công nghệ”.
Cùng với những cơ hội để phát triển dân chủ, cơng bằng, bình đẳng, cuộc cạnh tranh đấu tranh giữa “hai con đường”, giữa chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa
dường như cũng sắp bước vào một bước ngoặt lịch sử mới. Hãy thử sắp xếp các dữ kiện
chính trị, xã hội lớn gắn với các chu kỳ cách mạng công nghiệp: Cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất và Công xã Pa-ri - năm 1871; Cách mạng công nghiệp lần thứ hai với Cách mạng

Tháng Mười Nga năm 1917; Cách mạng công nghiệp lần thứ ba với sự kiện Đông Âu - Liên
xơ và cải cách, đổi mới… Lơ-gíc đó cho phép chúng ta dự báo và kỳ vọng vào những thay

14


đổi của đời sống chính trị, xã hội theo hướng tích cực. Khơng ai khác, chính giai cấp cơng
nhân với trình độ được tri thức hóa, với tổ chức khoa học và tinh thần cách mạng sẽ vẫn là
chủ thể hàng đầu của những cuộc cách mạng trong tương lai. Cách mạng cơng nghiệp 4.0 với
những tiền đề mà nó tạo ra sẽ cho thấy những bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đều rất quan
tâm và quyết tâm mạnh mẽ hướng tới Cách mạng công nghiệp 4.0. Đây cũng là một con
đường để phát triển rút ngắn, để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện nội dung văn hóa - xã hội của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Trên bình diện thế giới hiện nay, hịa bình, hợp tác cùng phát triển trong
mơi trường dân chủ, cơng bằng, bình đẳng đang là xu thế lớn. Xu thế ấy tạo điều kiện thuận
lợi cho Cách mạng công nghiệp 4.0 và cả sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Xét cho
cùng, mọi tiến bộ xã hội trong lịch sử và gần gũi hơn là những thành quả nhiều mặt của các
cuộc cách mạng công nghiệp gần đây cũng chỉ xoay quanh một vấn đề lớn của nhân loại, đó
là làm thế nào để kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội. Hệ
giá trị của giai cấp công nhân. Với những giá trị cơ bản phù hợp với những tiêu chí cơ bản xã
hội hiện đại, như lao động, cơng bằng, bình đẳng, dân chủ và sự phát triển tự do toàn diện cho
mỗi người… đang được Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo điều kiện và cổ vũ hiện thực hóa.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác và những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội thời kỳ
cải cách, đổi mới đã đưa ra một tiếp cận văn hóa và nhìn nhận rằng: “Chủ nghĩa xã hội là văn
minh hóa văn hóa, chứ không chỉ giản đơn là sự vận động của vật chất và phúc lợi vật chất
của mọi người… Chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân văn, không chỉ trên ngun tắc loại trừ
mọi hình thức bóc lột, áp bức, bần cùng hóa, bạo lực, mà căn bản là các quan hệ xã hội toàn
diện và lối sống hàng ngày xứng đáng với tính người… Chủ nghĩa xã hội là sự bảo đảm tính
phụ thuộc biện chứng và sâu sắc của sự phát triển tự do từng cá nhân với sự phát triển tự do

của mọi người trong xã hội”. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội đầy tính nhân văn ấy sẽ làm
mới, cập nhật và có điều kiện rộng rãi hơn trong q trình hiện thực hóa.
Cách mạng công nghiệp 4.0 là một thành tựu của văn minh, có những đóng góp, bổ
sung vào nhận thức duy vật lịch sử về các vấn đề trong phát triển. Ở phương diện xã hội, sát
cánh cùng giai cấp sản xuất ra của cải vật chất - giai cấp công nhân, “đang xuất hiện ngày
càng đông đảo tầng lớp/giai cấp sáng tạo trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, thiết kế, nghệ
thuật, văn hóa, giải trí, truyền thơng, giáo dục - đào tạo, y tế, pháp luật. Cùng với sự phát
triển của Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế sáng tạo, lao động sáng tạo ngày càng chiếm
vị trí chủ đạo trong lực lượng lao động xã hội, đặt ra vấn đề nhìn nhận lại vai trị của các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội hiện đại…”. Hệ giá trị của giai cấp cơng nhân theo đó có thể được

15


bổ sung những giá trị tuy khá đặc thù nhưng gần gũi của các tầng lớp khác như trí thức nhóm xã hội coi sáng tạo, dân chủ như điều kiện môi trường để lao động và phát triển.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra nhiều vấn đề mới, từ quá trình vận động
tự thân và việc bị các thế lực lợi dụng vào những mưu đồ phản tiến bộ, phản văn hóa. Tuy
nhiên, tiến bộ xã hội có đủ sức mạnh để lựa chọn biện pháp tối ưu để giải quyết. Như GS. K.
Sô-áp khẳng định: “Tôi vững tin rằng kỷ nguyên công nghệ mới, nếu được định hình một
cách tích cực và có trách nhiệm, sẽ có thể là một chất xúc tác cho một cuộc phục hưng văn
hóa mới”. Cũng có thể nói như vậy với sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân
và chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI.
2. Thực trạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân tại Việt Nam
Đối với cách mạng Việt Nam, giai cấp cơng nhân ln có một vai trị và vị trí hết sức
quan trọng. Trong các giai đoạn cách mạng trước đây, giai cấp công nhân Việt Nam không
chỉ là giai cấp lãnh đạo cách mạng mà còn là một trong những lực lượng cách mạng chủ yếu
trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm xóa bỏ sự thống trị của chủ nghĩa đế
quốc, thực dân, phong kiến giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam tiếp tục đảm đương
sứ mệnh lịch sử lớn lao không chỉ tiếp tục là giai cấp lãnh đạo cách mạng mà còn là lực

lượng tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Để khẳng định hơn nữa về vai trị và vị trí
của giai cấp cơng nhân Việt am trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 6, Ban chấp hành Trung ương khóa X của Đảng Cộng Sản Việt am đã khẳng định: “Giai
cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những
người lao động chân tay và trí óc, làm cơng hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh
doanh và dịch vụ công nghệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất cơng nghiệp”.
Giai cấp cơng nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: “Là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thơng qua chính đảng của nó, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai
cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp
nơng dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Quan niệm trên, tuy chưa phải là
định nghĩa, nhưng đã phản ánh được những nội dung chủ yếu của giai cấp công nhân Việt
Nam. Đây là cơ sở để nhận biết, phân biệt giai cấp công nhân Việt Nam với các giai tầng
khác trong cơ cấu xã hội, đồng thời cũng để phân biệt giai cấp công nhân Việt Nam với giai
cấp công nhân trên thế giới.Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt nam hiện nay 126
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của

16


thực dân Pháp, lớp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất (1897). Trước chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), giai cấp cơng nhân Việt Nam
mới có 10 vạn người, trình độ các mặt còn hạn chế. Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ
hai (1924-1929), giai cấp công nhân nước ta đã tăng lên 22 vạn người, chiếm 1,2% dân số.
Vừa mới ra đời, cùng với quá trình phát triển đất nước, giai cấp công nhân Việt Nam
trở thành một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế hiện đại, có những đặc điểm chung của
giai cấp cơng nhân quốc tế, đồng thời do điều kiện lịch sử cụ thể, cịn có những đặc điểm
riêng: Giai cấp cơng nhân Việt Nam sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống yêu nước,
đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm; nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức

bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc, nên có tinh thần cách mạng kiên cường, triệt để, sớm
nhận thức được sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Giai
cấp công nhân Việt am ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam; khi mới ra đời dù còn non trẻ
do số lượng ít, trình độ hạn chế, mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán của nơng dân;
nhưng đã nhanh chóng trưởng thành, đảm đương vai trị cách mạng trong khơng khí sục sơi
của một loạt phong trào yêu nước.
Các phong trào yêu nước đã cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường cho nhân dân
ta, mặc dù đều thất bại do bế tắc về đường lối. Giai cấp công nhân Việt Nam phần lớn xuất
thân từ nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, nên có mối quan hệ mật thiết, gắn
bó với đơng đảo quần chúng nhân dân lao động. Chính vì vậy, giai cấp cơng nhân Việt Nam
sớm liên minh được với nông dân, tạo thành khối liên minh cơng – nơng và khối đại đồn kết
tồn dân tộc là điều kiện đảm bảo cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Cùng lúc đó
phong trào cộng sản và công nhân thế giới phát triển, nên giai cấp cơng nhân Việt Nam nhanh
chóng tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, thành lập
được chính đảng tiên phong của mình và nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị độc lập
giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam. Từ khi trở
thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân Việt Nam luôn phát huy bản chất cách mạng
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn là lực lượng chủ đạo, đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp
đổi mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001) chỉ rõ:
Thế kỷ XXI sẽ có những biến đổi, khoa học và cơng nghệ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri
thức có vai trị ngày càng nổi bật. Về kinh tế “từng bước phát triển kinh tế tri thức”… về xã
hội phải thực hiện “trí thức hóa cơng nhân”. Vì vậy, đội ngũ cơng nhân Việt Nam phải “Phát
triển về số lượng, chất lượng và tổ chức nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học
vấn và tay nghề, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hóa

17


đất”. Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định:“Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát

triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ
học vấn, chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Phát huy vai
trị của giai cấp cơng nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng
Cộng Sản Việt Nam”. Gần 30 năm đổi mới, giai cấp cơng nhân nước ta đã có những chuyển
biến quan trọng, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng mà đội tiền
phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân
và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; đóng góp trực tiếp to lớn vào sự phát triển của
đất nước. Về mặt sản xuất, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai trị to lớn
trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng giai cấp công nhân ở nước ta chiếm tỷ lệ
không lớn trong tổng số dân cư (chiếm tỷ lệ 11% dân số và 21% lực lượng lao động xã hội)
nhưng nắm giữ những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội,
quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế.
Giai cấp công nhân là lực lượng lao động đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà
nước. Hằng năm giai cấp cơng nhân đóng góp hơn 60% tổng sản phẩm xã hội và 70% ngân
sách nhà nước. Do thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện cơ chế thị trường,
sẽ có một số ngành nghề mới xuất hiện và đương nhiên cũng có nghề biến mất. Tình hình này
dẫn đến xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân nước ta hiện nay như sau: Thứ nhất, xu
hướng tăng nhanh về số lượng đội ngũ giai cấp công nhân trong các thành phần kinh tế, nhất
là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước mà trọng tâm trong những năm đầu thế kỷ XXI là cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nơng thơn, cơ cấu nền kinh tế có sự chuyển dịch sâu sắc.
Xu hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ
là cơ hội cho các ngành công nghiệp mới ra đời, tạo điều kiện cho việc phát triển mạnh mẽ
giai cấp công nhân nước ta. Cụ thể, đội ngũ công nhân trong những ngành đang phát triển,
các ngành mũi nhọn: chế biến, dầu khí, tin học, điện tử, bưu chính viễn thơng, hàng khơng và
các ngành dịch vụ khác ngày càng tăng lên, khẳng định vị trí quan trọng trong nền kinh tế của
nước ta. Thứ hai, chất lượng đội ngũ công nhân trong tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt

là trong thành phần kinh tế vốn đầu tư nước ngoài tăng lên rõ rệt. Với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học và công nghệ, nhất là các lĩnh vực điện tử tin học; một mặt đã tri thức hóa đời
sống xã hội, mặt khác thực tế đó đã đặt ra yêu cầu cho đội ngũ công nhân phải không ngừng
vươn lên để đáp ứng yêu cầu của chính cuộc cách mạng khoa học – cơng nghệ. Do vậy, chất

18


lượng của giai cấp công nhân ngầy càng được nâng lên cả về trình độ học vấn, chun mơn
tay nghề và trình độ giác ngộ mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Ở nước ta, cùng với q trình
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta đã bắt đầu chú ý đến “Sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt nam”. “Cơng nhân trí thức” thực chất là cơng nhân đã được trí thức
hóa, với các đặc trưng: lao động trong các ngành công nghệ cao, được đào tạo kỹ càng, có
bằng cấp học vấn cao, chun mơn sâu, không chỉ tham gia gia sản xuất và dịch vụ sản xuất
vật chất với năng suất lao động cao mà còn sáng tạo khoa học – nghệ thuật ngày càng đơng
đảo trong dân cư. “Trí thức hóa cơng nhân” nước ta là quá trình nâng nhận thức và năng lực
hoạt động thực tiễn, đặc biệt là sản xuất của cơng nhân lên một trình độ cao, đem lại chất
lượng mới cho sự phát triển giai cấp công nhân xứng đáng với vai trị tiên phong của mình vì
sự thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước. Thứ ba, giai cấp cơng nhân Việt Nam ngày càng
mang tính quốc tế và tính hiện đại Giai cấp cơng nhân Việt Nam xuất thân từ tầng lớp nông
dân và các tầng lớp dân cư khác trong xã hội; là sản phẩm của chính sách khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp, những phẩm chất cách mạng triệt để, gắn bó máu thịt với nơng dân thì
khơng nghi ngờ. Song, những phẩm chất như tính tổ chức, tính kỷ luật, khả năng thích ứng
với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học cơng nghệ cao, của cơ chế thị thị trường thì ở giai
cấp cơng nhân Việt Nam cịn là vấn đề thách thức. Điều này chỉ có thể khắc phục được khi
nước ta trở thành nước công nghiệp phát triển. Cùng với q trình hội nhập, giai cấp cơng
nhân nước ta có cơ hội giao lưu, bắt nhịp với các hoạt động, q trình đổi mới và phát triển
của giai cấp cơng nhân thế giới. Ngoài việc tiếp thu những tiến bộ khoa học, công nghệ, giai
cấp công nhân nước ta cũng đồng thời tiếp thu những phẩm chất tốt đẹp của giai cấp công
nhân hiện đại như tác phong công nghiệp, tính tổ chức, tính kỷ luật, phong cách lao động

khẩn trương, khoa học và năng động của người công nhân hiện đại.

III.

Ý nghĩa và sự vận dụng đối với sinh viên

1.

Ý nghĩa thời đại của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân cho thấy đề tài này thực sự có ý nghĩa lớn lao.
Thứ nhất, hiểu rõ những vấn đề lý luận giúp chúng ta nắm bắt được những quá trình
hình thành và bản chất của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý do tại sao cần phải
phải thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Từ đó, xây dựng được mục tiêu, động
lực để hành động.

19


Thứ hai, quan sát thực tiễn, chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích, kế thừa và
phát huy những điểm mạnh, khắc phục tồn tại, hạn chế để hồn thiện sứ mệnh lịch sử của giai
cấp cơng nhân.
Thứ ba, ngày nay, giai cấp công nhân vẫn giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong xã hội,
đặc biệt là đối với cách mạng. Bên cạnh giai cấp công nhân, nhiều giai cấp, tầng lớp khác
cũng đang tồn tại và phát triển, nhưng sẽ không thể thay thế được vị trí tiên phong, lãnh đạo
cách mạng của giai cấp công nhân. Điều này đặt ra các vấn đề về giữ vững vai trị lãnh đạo
của giai cấp cơng nhân, liên minh giai cấp cơng – nơng – trí thức,…
2.


Sự vận dụng của sinh viên

Vai trò của các thế hệ sinh viên Việt Nam từ xưa đến nay luôn luôn được coi trọng.
Trong các cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc, khơng ít sinh viên đã quyết định xếp bút nghiên
lên đường chiến đấu vì độc lập, tự do Tổ quốc. Trong thời bình, sinh viên tích cực học tập,
rèn luyện đạo đức, phẩm chất cách mạng để tiếp tục dựng xây và bảo vệ đất nước. Sinh viên,
những chủ nhân tương lai của đất nước đã và đang được Đảng coi trọng, nhân dân tin tưởng
rất nhiều. Các tấm gương sinh viên tiêu biểu, sinh viên năm tốt luôn được mọi người yêu quý,
đánh giá cao. Sinh viên không chỉ học tập mà cịn giúp ích rất nhiều cho xã hội trong các
công tác tuyên truyền, đấu tranh với tai tệ nạn, bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh, trật tự xã
hội,… Sinh viên chính là đội ngũ tương lai của giai cấp công nhân, sẽ là những người thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong một ngày khơng xa.
Thế nhưng vẫn cịn tồn tại một bộ phận khơng nhỏ những sinh viên có nhận thức sai
lệch, không đầy đủ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Họ cho rằng sinh viên học tập, ra
trường sẽ không phải người làm thuê. Nếu ra trường mà đi làm cơng nhân thì có lẽ khơng cần
đi học làm gì. Nhưng đâu phải ai ra trường cũng sẽ làm chủ. Có những người đến tận khi về
hưu, họ vẫn là công nhân, nhưng không ai nghĩ họ là cơng nhân, vì khái niệm “giai cấp cơng
nhân” đang bị hiểu sai, bóp méo. Một số khác thì chán ghét việc học, đặc biệt là các mơn giáo
dục ý thức chính trị. Họ bị lơi kéo bởi các thế lực phản động, thực hiện các hành vi gây hại
cho xã hội. Họ ra rời thực tế và trở thành những người đi phá hoại thành quả lao động của
giai cấp công nhân… Đây đều là những hành vi đáng lên án, đi ngược lại với những chân lý
trong chủ nghĩa Mác – Lênin, đi ngược lại sự tiến bộ và phát triển trong quá trình xây đất
nước.
Do đó, cần phải có những khuyến nghị về vấn đề này.
Thứ nhất, tăng cường giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên, nhằm hình thành và hồn
thành tư tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho sinh viên.

20



Giáo dục ý thức chính trị là cung cấp cho sinh viên các kiến thức về chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam, khơi dậy lý tưởng sống tốt đẹp của
sinh viên. Giáo dục ý thức chính trị nhằm giúp đỡ sinh viên hiểu đầy đủ và sâu sắc hơn các
vấn đề về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, từ đó có những hành vi đúng đắn để hồn
thành sứ mệnh đó trong tương lai, sau khi ra trường.
Thứ hai, tăng cường giáo dục nghề nghiệp ở cả kiến thức chuyên môn, kỹ năng tay nghề,
tác phong làm việc, thái độ làm việc,…
Việc giáo dục nghề nghiệp phải được coi trọng và đẩy mạnh hơn để đào tạo ra những đội
ngũ công nhân không chỉ biết làm việc đơn thuần mà còn phải sáng tạo, vận dụng sự sáng tạo
để phát triển các sản phẩm, phát triển quá trình sản xuất, phải có kỹ năng tay nghề cao, làm
việc nhanh chóng trong bối cảnh cơng nghệ đang phát triển để không bị tụt hậu, tác phong,
thái độ làm việc tận tâm, chuyên nghiệp,…
Thứ ba, thúc đẩy mạnh mẽ các phong trào thi đua, phát huy vai trị xung kích, sáng tạo
của sinh viên.
Các sân chơi bổ ích khơng chỉ là nơi để sinh viên hoạt động tích cực tránh xa các tệ nạn
xã hội mà còn là cơ hội để sinh viên thể hiện bản thân, gắn kết các thế hệ sinh viên, tạo thành
một cộng đồng sinh viên phát triển. Đây cũng là nơi mà các kiến thức được học có cơ hội
được vận dụng và phát triển, giúp sinh viên dễ dàng hoàn thiện các kỹ năng nghề nghiệp hơn.
Thứ ba, sinh viên phải tự nhận thức và hành động đúng đắn thúc đẩy thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân ở nước ta và trở thành lực lượng xung kích quan trọng giúp
đỡ chính họ và các tầng lớp, giai cấp khác cùng phát triển trong thời kỳ này.
Tự bản thân mỗi sinh viên phải nhận thức đúng đắn, ra sức thi đua, rèn luyện bản thân để
đáp ứng nhu cầu của thời đại. Mỗi sinh viên phải là tuyên truyền viên tích cực lan tỏa các
thông điệp ý nghĩa giúp đất nước phát triển đến với mọi người.
Kết luận chung, sinh viên ngày nay đã tạo nên khơng ít thành tựu nổi bật, có ý nghĩa với
xã hội trong q trình xây dựng đất nước, hoàn thiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại khơng ít tiêu cực trong nhận thức và hành vi của một bộ phận sinh
viên. Điều này kéo theo khơng ít hệ lụy cho xã hội. Do đó, cần phải có những biện pháp hợp
lý để phát huy tích cực, đẩy lùi tiêu cực, để sinh viên xứng đáng với sự đánh giá cao của
Đảng, sự tin tưởng của nhân dân, để sinh viên thực sự là những chủ nhân tương lai đưa quốc

gia Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu.

21


IV.

Khuyến nghị
Một số giải pháp nhằm tăng cường sức mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam trong

giai đoạn hiện nay. Một là, nâng cao chất lượng công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công
nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam luôn giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, truyền
thống yêu nước, lao động cần cù, tính tiên phong và có khả năng sáng tạo trong lao động, sản
xuất và trong các hoạt động của đời sống xã hội. Hàng vạn cán bộ khoa học - kỹ thuật, cơng
nhân bậc cao, thợ giỏi đã thích ứng với cơ chế thị trường, tiếp cận nhanh với khoa học, cơng
nghệ tiên tiến, hiện đại, có nhiều sáng chế, giải pháp hữu ích, có giá trị cao được áp dụng vào
sản xuất và cơng tác. Tuy nhiên, trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của đội ngũ
công nhân Việt Nam hiện nay nhìn chung cịn thấp, chưa đáp ứng được u cầu của sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và q trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tình trạng thiếu
nhiều chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi và cơng nhân có trình độ lành nghề cao, thừa
lao động giản đơn đang diễn ra phổ biến ở tất cả các ngành và các thành phần kinh tế. Đặc
biệt, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày
càng chiếm tỷ lệ lớn, sức cạnh tranh ngày càng gay gắt; nếu như giai cấp công nhân khơng
ngừng nâng cao trình độ học vấn, tay nghề thì khó có thể hy vọng kiếm được việc làm và có
thu nhập, hoặc khơng sẽ bị đào thải.
Thực trạng trên đặt ra yêu cầu khách quan và nhiệm vụ cấp bách phải đẩy mạnh công
tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cơng nhân, có như vậy mới đủ sức cạnh tranh việc làm khi
ASEA đã chính thức hình thành, khi hiệp ước đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình
Dương (TPP) đã được ký kết. Để đạt được mục tiêu đặt ra, công tác đào tạo, đào tạo lại đội
ngũ công nhân phải đảm bảo các yêu cầu: Tăng cường đầu tư các nguồn lực để đào tạo, đào

tạo lại đội ngũ công nhân đảm bảo đủ về số lượng, đáp ứng về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu,
có trình độ chun mơn nghiệp vụ, tay nghề giỏi, sáng tạo trong lao động, sản xuất, có đủ khả
năng làm chủ được công nghệ tiên tiến và thích ứng nhanh với sự năng động của cơ chế thị
trường. Tăng cường quản lý nhà nước, đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho cơng tác đào tạo
nghề. Tiến hành quy hoạch mạng lưới các trường, các cơ sở dạy nghề, xây dựng trường
chuẩn, chương trình chuẩn để đào tạo cơng nhân có trình độ cao cho một số ngành kinh tế
mũi nhọn như: chế biến, dầu khí, tin học, điện tử, bưu chính viễn thơng, hàng khơng và các
ngành dịch vụ khác. Chú trọng gắn kết giữa đào tạo và sử dụng, nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn
lao động, đảm bảo chất lượng cho phát triển kinh tế và hạn chế những lãng phí ngay trong
cơng tác đào tạo. Xây dựng chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho cơng nhân tự học tập
nâng cao trình độ học vấn, chun mơn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và chính sách đãi ngộ hấp dẫn
đối với cơng nhân có sáng kiến hay, có kinh nghiệm tốt, nhằm khích lệ đội ngũ cơng nhân
phát huy tài năng, trí tuệ trong sản xuất, kinh doanh. Hai là, đổi mới hoạt động của tổ chức

22


cơng đồn doanh nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động, nhất là doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, hoặc người nước ngoài làm chủ doanh nghiệp. Với chủ trương phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, đã tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển và lượng công
nhân ngày càng tăng lên. Đặc biệt là số lượng cơng nhân trong thành phần kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài cũng tăng lên một cách rõ rệt bởi mức lương ở khu vực kinh tế này cao hơn, lợi
ích hấp dẫn thu hút được cơng nhân gắn bó với nghề nghiệp.
Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận cơng nhân vẫn chưa có việc làm ổn định, nhiều
doanh nghiệp vẫn cịn xảy ra tình trạng kéo dài thời gian lao động, điều kiện làm việc và điều
kiện sống của người công nhân nhân chưa đảm bảo, tiền lương chưa đáp ứng được các nhu
cầu tối thiểu… Với tư cách là tổ chức bảo vệ quyền lợi của người cơng nhân, tổ chức cơng
đồn doanh nghiệp phải khơng ngừng đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động để làm tốt hơn
nữa vai trị, trách nhiệm của mình đối với quyền lợi, lợi ích của giai cấp cơng nhân. Trước
hết, cơng đồn doanh nghiệp phải ln hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn công tác chủ

yếu; lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận động, tập hợp; lấy chăm lo bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của cơng nhân, viên chức lao động thúc đẩy phát triển
kinh tế, xã hội làm mục tiêu hoạt động. Đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp quần
chúng, để thu hút, động viên được ngày càng đông đảo công nhân trong các thành phần kinh
tế vào cơng đồn và tự giác tham gia hoạt động cơng đồn. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, kỹ năng hoạt động cho cán bộ cơng đồn, xây
dựng đội ngũ cán bộ cơng đồn có năng lực, trình độ, có phẩm chất, đạo đức và bản lĩnh,
nhiệt tình và tâm huyết với hoạt động cơng đồn, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động, góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh, đủ sức thực hiện thắng
lợi sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn mới. Ba là, tăng cường giáo dục công nhân ý
thức tự lực tự cường, giúp nhau trong cuộc sống đời thường cũng như trong q trình làm chủ
khoa học cơng nghệ. Cùng với nhiệm vụ giáo dục nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
tay nghề cho giai cấp công nhân. Việc giáo dục, rèn luyện, xây dựng cho giai cấp cơng nhân
ý thức cơng dân, lịng u nước, u chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận rõ đối tượng, đối tác để một
mặt kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù
địch; mặt khác, tăng cường hợp tác với bạn bè nhằm thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nhiệm vụ hết sức
quan trọng. Ngoài ra, cũng cần phải xây dựng cho công nhân lối sống văn hố, có tác phong
cơng nghiệp và kỷ luật lao động; có lương tâm nghề nghiệp, có ý chí vươn lên, thốt khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, có quyết tâm chiến thắng trong cạnh tranh, làm giàu cho bản thân, gia
đình và xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

23


×