Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Vận dụng lý thuyết “địa – văn hóa” để lý giải về sự đồng nhất và khác biệt văn hóa giữa các vùng miền ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.04 KB, 17 trang )

BỘ TƯ PHÁP
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NÔI

MÔN HỌC: ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: Vận dụng lý thuyết “Địa – Văn hóa” để lý giải về
sự đồng nhất và khác biệt văn hóa giữa các vùng - miền ở
Việt Nam

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp:

Hà Nội, Tháng 2/2022


2
Mục lục


3
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia trải dài từ bắc vào nam với các vùng sinh thái khác nhau.
Mặt khác, Việt Nam lại là một quốc gia đa tộc người, với 54 dân tộc cùng chung sống
hịa hợp, đồn kết và thân ái. Sự khác biệt về cấu trúc, địa hình, khí hậu và phân bố
dân tộc, dân cư đã tạo ra những vùng văn hóa có những nét đặc trưng riêng tại Việt
Nam. Từ cái nôi của văn hóa Việt Nam tại đồng bằng sơng Hồng của người Việt chủ
đạo với nền văn hóa làng xã với văn minh lúa nước, đến những sắc thái văn hóa các
dân tộc miền núi tại Tây Bắc và Đông Bắc. Từ các vùng đất biên viễn của người Việt
Nam thời dựng nước ở Bắc Trung Bộ đến sự pha trộn với văn hóa Chăm Pa của người
Chăm ở Nam Trung Bộ. Từ những vùng đất mới ở Nam Bộ với sự kết hợp văn hóa


các tộc người Hoa, người Khmer đến sự đa dạng văn hóa và tộc người ở Tây Nguyên.
Để có thể hiểu kĩ hơn về vấn đề này, nhóm chúng em xin chọn đề tài số 02 (Vận dụng
lý thuyết “Địa – Văn hóa” để lý giải về sự đồng nhất và khác biệt văn hóa giữa các
vùng – miền ở Việt Nam) làm chủ đề nghiên cứu bài tập nhóm.


4
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm văn hóa
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo UNESCO: “Văn hóa là tổng
thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế
kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống
và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.
2. Giới thiệu công cụ định vị địa văn hóa
a. Khái niệm
Địa – văn hóa là một phương pháp định vị văn hoá theo vùng địa lý, đồng thời
cũng là phương pháp giải thích các đặc điểm văn hoá dựa vào điều kiện địa lý và hồn
cảnh tự nhiên. Phương pháp này góp phần lý giải tính tương đồng văn hố của các
cộng đồng người sống trong cùng một vùng lãnh thổ - nơi có điều kiện tự nhiên tương
đối giống nhau.
Cơ sở khoa học của phương pháp này là:
- Bản thân con người cũng là một bộ phận tự nhiên nên để tồn tại, con người
phải tiến hành trao đổi chất với tự nhiên.
- Quá trình này diễn ra theo 2 hướng: Thích nghi và cải tạo tự nhiên. Thích nghi
- in dấu ấn trong văn hoá nhân cách, trong lối sống cộng đồng (văn hố phi vật thể);
cịn biến đổi - được lưu giữ trong các đồ vật xã hội (văn hoá vật thể).
b. Đặc điểm văn hóa Việt Nam từ cơng cụ địa văn hóa
Việt Nam thuộc khu vực Đơng Nam Á mang những đặc điểm địa lý - khí hậu
sau:

- Địa lý: Đơng Nam Á là một vùng nhiệt đới có tính đa dạng về diện mạo sinh
thái, bao gồm 5 cảnh quan: sườn núi dốc vùng núi, cao nguyên, thung lũng, đồng


5
bằng châu thổ, duyên hải và đảo. Vì vậy con người có nhiều cách canh tác đa dạng:
làm rẫy, ruộng – rẫy, ruộng – vườn, nơng – ngư nghiệp.
- Khí hậu: Nóng, ẩm, mưa nhiều (trung bình 2000mm); sơng nước tạo thành
văn hố nơng nghiệp lúa nước; nơi giao điểm của các nền văn hố.
Khơng gian văn hóa Việt Nam:
- Trong phạm vi hẹp, Việt Nam nằm trên địa bàn cư trú của người Bách Việt.
Có thể hình dung khu vực này như một hình tam giác với cạnh đáy là sông Dương Tử
(Trung Quốc), và đỉnh là vùng Bắc trung bộ Việt Nam ngày nay.
- Ở phạm vi rộng hơn, văn hoá Việt Nam nằm trong khu vực cư trú của người
Indonesien lục địa. Có thể hình dung đây là một tam giác với cạnh đáy vẫn là sông
Dương Tử (Trung Quốc) còn đỉnh của tam giác giờ đây kéo dài tới tận vùng đồng
bằng sông Mekông. Đây là địa bàn cư trú của người Indonésien cổ đại nói chung.
Chính mối liên hệ này đã tạo nên sự thống nhất cao độ của vùng văn hóa Đơng Nam
Á mà ở trên đã nói. Hơn thế nữa, do vị trí đặc biệt của mình, Việt Nam là nơi hội tụ ở
mức độ đầy đủ nhất mọi đặc trưng của văn hóa khu vực, khơng phải vơ cớ mà các nhà
Đơng Nam Á học đã nói rằng Việt Nam là một Đơng Nam Á thu nhỏ.
 Dù rộng hay hẹp thì đặc trưng địa lý cố hữu của khu vực này vẫn là nhiệt độ,
độ ẩm cao (lượng mưa hàng năm lớn), và có gió mùa.
Điều kiện tự nhiên qui định cho khu vực này loại hình văn hóa gốc nơng
nghiệp, với những đặc điểm cơ bản sau:
 Trồng lúa nước (khác với văn hóa khơ mạch của Trung Hoa- vùng phía bắc
sơng Dương Tử) là một đặc trưng tiêu biểu cho văn hóa nơng nghiệp Việt Nam. Nước
ta có hai vựa lúa lớn là đồng bằng sông Hồng với năng suất lúa cao nhất cả nước và
đồng bằng sông Cửu Long với sản lượng lúa cao nhất cả nước. Nước ta cịn có hình
thức canh tác độc đáo là trồng lúa trên ruộng bậc thang, không chỉ tạo ra lương thực

cho đồng bào vùng cao mà còn đem lại cảnh quan đẹp mắt, thu hút khách du lịch.


6
 Trồng thuốc để phịng và chữa bệnh. Ngồi ra cịn có nghề phụ: nữ dệt vải,
nam chài lưới tạo thành mơ hình kinh tế khép kín.
 Sống định cư, hồ hợp với thiên nhiên (khác với văn hóa gốc du mục)
 Đề cao vai trò của phụ nữ (một đặc trưng của văn hóa thực vật, nơi chế độ
mẫu hệ dựa trên kinh tế hái lượm, trồng trọt là hình thái thống trị).
Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần của văn hóa nơng nghiệp định cư coi
trọng ngơi nhà, coi trọng cái bếp, coi trọng người phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ
nét. Tục ngữ Việt Nam chứa đựng khơng ít những câu thể hiện điều này như: Nhất vợ
nhì trời, Lệnh ơng khơng bằng cồng bà, Ruộng sâu trâu nái khơng bằng con gái đầu
lịng… Phụ nữ Việt Nam được xem là người có trách nhiệm quản lý kinh tế, tài chính
trong gia đình, dân gian gọi họ là “người tay hịm chìa khóa”, đề cao vai trị, đóng góp
của họ trong gia đình. Phụ nữ Việt Nam được xem là người có vai trị quyết định
trong việc giáo dục con: Phúc đức tại mẫu, Con dại cái mang (thành ngữ). Vì tầm
quan trọng của người mẹ, cho nên trong tiếng Việt, từ “cái” vốn có nghĩa là “mẹ” đã
được chuyển nghĩa thành “lớn, quan trọng, chủ yếu” như: sông cái, đường cái, đũa
cái, cột cái, ngón tay cái, chữ cái…
Bên cạnh đó, điều kiện địa lý riêng có của Việt Nam cũng tạo ra những phẩm
chất văn hoá độc đáo (các yếu tố riêng thuộc về bản sắc):
 Ứng xử mềm dẻo, khả năng thích nghi và chịu đựng cao (ảnh hưởng của môi
trường nước).
 Tính dung chấp cao do là đầu mối giao thơng đường thuỷ và đường bộ – cửa
ngõ của Đông Nam Á nên người dân thường xuyên giao lưu với khu vực bên ngoài và
tiếp thu nhiều kiến thức từ hoạt động giao lưu đó.
 Khơng có các cơng trình kiến trúc đồ sộ (ngoại trừ hệ thống đê điều và thuỷ
lợi), do là vùng đất trẻ lấn dần ra biển nên khơng có kết cấu bền vững và cư dân của
khu vực này thường phải sống chung với nước.



7
 Tồn tại nhiều loại hình nghệ thuật gắn với sông nước (chèo, rối nước, đua
thuyền...).
II. Vận dụng lý thuyết “địa văn hố” để lí giải sự đồng nhất
và khác biệt giữa các vùng miền ở Việt Nam.
Bắt nguồn từ sự đa dạng trong khu vực với 54 dân tộc và nhiều vùng miền khác
nhau mà nền văn hóa của Việt Nam cũng vô cùng đa dạng và phong phú. Mỗi vùng có
những nét văn hóa riêng thể hiện qua nhiều khía cạnh, tuy nhiên văn hóa Việt Nam
được phân chia thành 6 vùng nhưng đều có những nét tương đồng chung của một nền
văn hóa lớn và những nét riêng do bởi sự khác biệt địa lý.
1. Lý giải sự tương đồng của 6 vùng văn hóa
Về thời gian: Tiến trình lịch sử với kết quả thống nhất là nền văn hóa hiện tại.
Việt Nam nằm trong khu vực cư trú của người Bách Việt. Đây là cái nôi của
nghề nông nghiệp lúa nước, của nghệ thuật đúc đồng với những trống đồng Đơng Sơn
nổi tiếng. Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên tất cả các khía
cạnh, người Việt cùng cộng đồng có những phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có
những lễ hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín
ngưỡng, sự khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ và
ẩn dụ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hiện đại của văn
học, nghệ thuật.
Về không gian: Thống nhất trong khuôn khổ lãnh thổ.
Để minh chứng cho sự thống nhất về không gian, có thể thấy Việt Nam có văn
hóa trồng lúc nước bao trùm khắp mọi miền đất nước. Đây không những lànguồn
lương thực chính của người dân Việt Nam mà còn là nguồn xuất khẩu lớn mang lại lợi
nhuận cao, cũng chính nhờ điều đó đã mang lại cho Việt Nam trở thành nước xuất
khẩu gạo đứng thứ hai thế giới và đặc biệt gạo Sóc Trăng đã được cơng nhận là gạo
ngon nhất thế giới.



8
Về các mặt văn hóa chủ yếu: triết học và tư tưởng, phong tục tập qn, tín
ngưỡng và tơn giáo, ngôn ngữ, văn học và nghệ thuật.
Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt cùng với những hội tụ về
sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của người Việt cổ từ thời Hồng Bàng
đến những ảnh hưởng từ bên ngoài trong hàng nghìn năm nay. Với những ảnh hưởng
từ xa xưa của Trung Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng của Pháp từ
thế kỷ 19, phương Tây trong thế kỷ 20 và tồn cầu hóa từ thế kỷ 21. Cho nên văn hóa
Việt Nam đều có nhiều nét tương đồng ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Cụ thể:
 Tín ngưỡng: Từ thuở xa xưa các dân tộc trên đất Việt Nam đã thờ rất nhiều
thần linh. Các dân tộc thờ tất cả các thế lực vơ hình và hữu hình mà thực chất là các
hiện tượng thiên nhiên và xã hội chưa thể giải thích được vào thời đó. Ngày nay, nhờ
những nghiên cứu, những lễ hội, những phong tục hiện hữu chúng ta biết nhiều hơn
về cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của các dân tộc Việt Nam cổ nói chung và
tín ngưỡng của họ nói riêng.
 Tơn giáo: Trên danh nghĩa, các tôn giáo ở Việt Nam gồm: Phật giáo Đại
thừa, Khổng giáo và Đạo giáo (được gọi là "Tam giáo"). Có một số tơn giáo khác như
Cơng giáo Rơma, Cao Đài và Hịa Hảo. Những nhóm tơn giáo có ít tín đồ hơn khác
gồm Phật giáo Tiểu thừa, Tin Lành và Hồi giáo.
 Ngôn ngữ: Các nhà dân tộc học đã chia các dân tộc ở Việt Nam thành nhóm
ngơn ngữ. Tiếng Việt là ngơn ngữ chính thức của dân tộc Việt Nam, là tiếng mẹ đẻ
của người Việt và đồng thời là ngôn ngữ hành chính chung của 54 dân tộc sống trên
đất nước Việt Nam, tiếng Việt được 86% người dân sử dụng.
 Phong tục: Phong tục ở Việt Nam có truyền thống lâu đời hàng ngàn năm
nay, nó đã trở thành luật tục, sâu đậm và gắn chặt trong người dân có sức mạnh hơn
cả những đạo luật. Theo sự thăng trầm của lịch sử của dân tộc, phong tục của người



9
Việt Nam cũng không ngừng biến đổi theo trào lưu biến đổi văn hố xã hội. Tuy nhiên
có những phong tục mất đi nhưng cũng có những phong tục khẳng định được tính
đúng đắn, cái hay, cái đẹp của nó qua việc những phong tục đó cịn hiện hữu trong
cuộc sống ngày nay của người Việt Nam (sớm nhất được nhắc trong lịch sử Việt Nam
là tục ăn trầu).
 Ẩm thực: Ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục
tiêu hàng đầu là ăn bổ, thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được
ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giịn thưởng thức rất thú vị dù khơng thực
sự bổ béo.
 Lễ hội: Việt Nam là một nước có nhiều lễ hội dân gian là hình thức sinh hoạt
của cộng đồng. Trong lễ hội, các lễ nghi tín ngưỡng, các phong tục tập quán, các thể
lệ và hình thức sinh hoạt của một cộng đồng đã được tái hiện một cách rất sinh động.
Lễ hội được tổ chức vào những thời điểm khác nhau trong một năm, tuỳ thuộc vào
phong tục tập quán của từng dân tộc, nhưng lễ hội vẫn tập trung nhiều nhất vào mùa
Xuân.
 Trang phục: Tế nhị, kín đáo.
2. Lý giải sự khác biệt giữa 6 vùng văn hóa của Việt Nam.
Khơng gian văn hố:
Vùng địa lý xác định, mà ở đó một hiện tượng hay một tổ hợp hiện tượng văn
hóa nảy sinh, tồn tại, biến đổi và liên kết với nhau. Không gian văn hố là “trường
văn hố“, trong đó diễn ra q trình hình thành, tiếp nhận, lan toả văn hố.
Ví dụ: Vùng văn hóa Tây Bắc: Địa hình núi cao hiểm trở, có trên 20 tộc người
(đa số là Thái và Mường). Vùng văn hóa Việt Bắc: Vị trí địa đầu đất nước, gắn liền
với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Vùng văn hóa Châu thổ Bắc Bộ:
Đất đai trù phú, thời tiết bốn mùa tương đối rõ nét. Là tâm điểm của con đường giao
lưu quốc tế. Cư dân chủ yếu là người Việt. Vùng văn hóa Tây Nguyên: Là vùng đất từ


10

Đèo Ngang đến Bình Thuận, đất đai khơ cằn, khí hậu khắc nghiệt.Là nơi giao lưu trực
tiếp giữa người Việt và người Chăm. Vùng văn hóa Trung Bộ: Nằm trên sườn đông
của dãy Trường Sơn, gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm
Đồng.Cư dân: Khoảng 20 nhóm dân tộc, thuộc hai nhóm ngữ hệ Mơn-Khmer và Mã
LaiNam Đảo. Vùng văn hóa Việt Bắc: Vị trí địa đầu đất nước, gắn liền với sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của dân tộc. Cư dân chủ yếu là người Tày, Nùng. Vùng văn
hóa Nam Bộ: Nằm ở lưu vực sơng Đồng Nai và sơng Cửu Long, khí hậu có hai mùa:
Mùa khơ – mùa mưa.Cư dân: Việt, Chăm, Hoa và cư dân bản địa Khmer, Mạ, Xtiêng,
Chơro, Mnông.
Thời gian văn hố:
Diễn ra những hiện tượng văn hóa tồn tại, biến đổi dưới sự tác động của môi
trường tự nhiên và xã hội…
Nhu cầu về đời sống của mỗi vùng khác biệt:
Các giá trị văn hóa phản ánh các mặt của đời sống văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần của cư dân trong một khơng gian văn hóa nhất định.
Ví dụ: Người dân Nam bộ với khăn rằn quấn cồ, áo nâu sịng, cùng quần đen
thanh thốt lại tạo nét giản dị đơn sơ nhưng không về lép vế. Nét trang phục toát lên
sự dịu dàng nữ tính trong cả lời ăn tiếng nói, sự khéo léo thùy mị, sự hiền lành chất
phác mà giản dị của người dân nơi đây. Vùng đất “làm chơi ăn thiệt” là cái tên người
ta đặt cho vùng đất nơi đây, có lẽ bởi sự ưu ái của thiên nhiên tạo ra nguồn thức ăn
phong phú đa dàng cũng vô cùng dễ dàng khai thác từ nguồn lợi tự nhiên. Tây
Nguyên thì trang phục chủ yếu là thổ cẩm, hoa văn sơng núi, thể hiện tinh thần u
chuộng thiên nhiên, hịa mình vào thiên nhiên, quần áo gọn gàng, giản dị để phù hợp
với yêu cầu của đời sống thể sự mạnh mẽ, cứng cỏi của những con núi rừng đại ngàn.
Những nét văn hóa riêng biệt của từng vùng:
a. Vùng văn hóa Tây Bắc


11
Có hơn hai mươi tộc người cùng cư trú xen cài với nhau, nhưng trong đó tộc

Thái nổi lên như một sắc thái đại diện cho văn hóa Tây Bắc. Từ điều kiện cảnh quan,
môi trường sống đã tạo nên những nét đặc trưng, cả về vật chất dẫn tinh thần, cho văn
hóa vùng này. Trong xã hội cổ truyền Tây Bắc tuy chưa có văn hóa chuyên nghiệp,
nhưng mỗi tộc người đều có một kho văn hóa nghệ thuật riêng với ngơn từ giàu có và
đủ thể loại, nghệ thuật múa dân tộc cũng là một nét đặc trưng của vùng Tây Bắc.
Trong đó, Xịe - đặc sản nghệ thuật múa Thái và trở thành biểu tượng văn hóa Tây
Bắc. Tương truyền có đến 32 điệu xịe do các cơ thanh nữ múa trong tiếng tính tang
dịu dàng của hai chàng trai. X vịng sơi nổi bao nhiêu thì xịe điệu nhẹ nhàng, tinh
tế bấy nhiêu. Người H'mơng nổi tiếng về các điệu múa khèn, với người Mường thì
phải được xem múa bông. Riêng điệu múa Xạp, trừ người H'mơng cịn dân tộc nào
trong vùng cũng có, mỗi nơi một vẻ riêng.
Các tộc người trong vùng đều có tín ngưỡng ''vạn vật hữu linh'' và tín ngưỡng
nơng nghiệp âm nhạc và ca hát ở đây rất đặc biệt: Hệ nhạc cụ hơi có lưỡi gà bằng tre,
bằng đồng, hoặc bằng bạc... khơng thấy hoặc ít thấy ở các vùng khác, thơ ca Tây Bắc
được sáng tác để hát chứ không phải để đọc, những truyện thơ, những áng sử thi được
trình diễn bằng cả những liên khúc âm nhạc.
b. Vùng văn hóa Việt Bắc
Cư dân chủ yếu của vùng Việt Bắc là người Tày - Nùng, ngồi ra cịn có các tộc
khác như H'Mơng, Dao, Hoa,..., nhưng trong đó văn hóa Tày - Nùng giữ vai trị chủ
thể và có ảnh hưởng tới văn hóa của các tộc người khác.. Những đặc trưng văn hóa
chung của vùng được thể hiện qua nếp sống lâu đời của các cư dân ở đây, qua các
phương thức lao động, qua cách ứng xử với mơi trường tự nhiên, qua các thói quen
trong sinh hoạt của họ. Tín ngưỡng của các cư dân ở đây pha trộn giữa tín ngưỡng dân
gian (tín ngưỡng nông nghiệp, thờ cúng tổ tiên...) với các ảnh hưởng Đạo giáo, Phật
giáo và Khổng giáo.
Các sinh hoạt văn hóa cộng đồng thể hiện tập trung ở các lễ hội cổ truyền (mà


12
điển hình là hội Lồng tồng - hội xuống đồng), và sinh hoạt văn hóa chợ, đây là một

sinh hoạt văn hóa đặc thù ở vùng Việt Bắc. Các thể loại văn học dân gian Việt Bắc
khá đa dạng và phong phú. Một điều đáng chú ý nữa là tầng lớp tri thức Tày Nùng
hình thành từ rất sớm đầu tiên là các trí thức dân gian (như các thày Mo, Then, Tào,
Pụt) và sau đó là tầng lớp trí thức Nho học, rồi Tây học. Ngày nay việc đào tạo trí
thức, cán bộ khoa học cho Việt Bắc cũng được Nhà nước ta rất chú ý.
c. Vùng văn hóa Bắc Bộ
Cư dân chủ yếu là người Việt và nền văn hóa nơng nghiệp trồng lúa nước. Châu
thổ Bắc Bộ là vùng văn hóa - lịch sử cổ, là cái nơi hình thành dân tộc Việt, là trung
tâm của các nền văn minh lớn: Đông Sơn, Đại Việt..., do vậy nó mang trong mình
truyền thống văn hóa dân tộc bền chắc, vừa thích ứng kịp thời với những biến động
lịch sử - thể hiện ở chỗ luôn tiếp thu những ảnh hưởng bên ngoài để tái tạo nên giá trị
và bản sắc riêng - vừa đóng vai trị định hướng cho đường đi của dân tộc và đất nước.
Đây là vùng đất có sức hút những tinh hoa mn nơi, rồi từ đó lại tỏa đi mn nơi
những giá trị văn hóa, khiến nó trở thành biểu tượng cao đẹp của văn hóa truyền
thống Việt Nam.
Về tín ngưỡng, thờ Thành Hồng, thờ mẫu. Về tơn giáo, cư dân Băc Bộ có sự
tiếp nhận phật giáo, đã bản địa hóa thành phật giáo dân gian. Vai trò "hướng đạo" của
vùng văn hóa Bắc Bộ cũng rất rõ: là cội nguồn của vùng văn hóa Trung bộ,
Nam bộ. Văn hóa Bắc Bộ có một bề dày lịch sử gắn liền với các di tích văn hóa
khơng chỉ nổi tiếng ở trong nước mà cịn nổi tiếng ở nước ngồi như: Cố đơ Hoa
Lư,... Lễ hội ở đồng bằng Bắc Bộ có thể ví như một bảo tàng văn hóa tổng hợp lưu
giữ khá nhiều sinh hoạt văn hóa của cư dân nơng nghiệp. Vùng văn hóa Bắc bộ là
vùng văn hóa mà q trình tiếp biến văn hóa diễn ra lâu dài hơn với nội dung phong
phú hơn, chịu ảnh hưởng của văn hóa phương tây đậm nét.
d. Vùng văn hóa Trung Bộ


13
Do vị thế địa lý - lịch sử, Trung Bộ đã trở thành trạm trung chuyển, là nơi dừng
chân của người Việt trước khi tiến về phía Nam mở cõi. Nơi đây đã diễn ra sự giao

lưu trực tiếp giữa người Việt và người Chăm, người Việt đã tiếp nhận di sản văn hóa
Chàm (cả hữu thể và vơ thể) và Việt hóa để trở thành của mình. Sự tiếp biến văn hóa
này đã khiến văn hóa của người Việt Trung Bộ thay đổi so với của người Việt Bắc Bộ.
Điều kiện tự nhiên, môi trường đã làm cho vùng đất này hình thành một nền văn hóa
biển bên cạnh nền văn hóa nơng nghiệp.
Có thể nói khó có vùng văn hóa nào ở nước ta lại có nhiều tháp Chăm như vùng
văn hóa Trung Bộ.Ngồi ra cịn có các tượng bà Pơ Nagar, tượng Chó, đặc biệt là các
tượng Linga, Yoni. Các phù điêu, các trụ đá, các bia đá,... Cùng các di sản văn hóa
hữu thể, cịn khá nhiều các di sản văn hóa vơ thể của văn hóa Chăm Pa. Đó là các địa
danh Việt mà chúng ta có quyền ngờ rằng, gốc tích của nó phải là các địa danh Chăm,
kiểu như Cồn Ràng, Cồn Lồi, Cồn Mọi. Đó là các tín ngưỡng dân gian của người
Chăm như thờ bà mẹ xứ sở, thờ cá voi, thờ thần biển….
e. Vùng văn hóa Tây Nguyên
Là địa bàn sinh sống của hơn hai mươi tộc người thuộc về hai nhóm ngơn ngữ
chủ yếu: Mơn - Khơmer và MãLai - Nam Đảo. Đây là vùng tương đối khép kín, ít
giao lưu với bên ngoài, nên tới gần đây các dân tộc Tây Nguyên còn bảo lưu khá
nguyên vẹn văn hóa truyền thống của mình, một nền văn hóa ít nhiều mang tính bản
địa Đơng Nam Á cổ đại trước khi tiếp xúc với hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ.
Nền sản xuất nương rẫy đã qui định những sắc thái văn hóa lớn của vùng này: Tồn
bộ văn hóa tộc người cơ bản vẫn là văn hóa dân gian, tín ngưỡng nơng nghiệp với
trình độ tư duy thần bí, ''văn hóa cồng chiêng'' và ''văn hóa nhà mồ'' là truyền thống
đặc trưng nổi bật của văn hóa vùng này.
Văn hóa cồng chiêng: Nói đến Tây Ngun khơng thể khơng kể đến "Khơng
gian văn hố cồng chiêng Tây Nguyên". Cồng chiêng Tây Nguyên được người dân
xem như một loại ngôn ngữ giao tiếp của con người với thế giới siêu thực, bởi thế các


14
loại nhạc cụ này được sử dụng trong nhiều nghi lễ, tín ngưỡng quan trọng. Tiếng cồng
chiêng Tây Ngun hồ nhịp âm vang gợi cho người nghe như thấy được cả không

gian săn bắn, không gian làm rẫy, không gian lễ hội… của con ngưịi nơi đây. Đó
chính là nguồn gốc của những áng sử thi, thơ ca đi vào lịng người. Ngày 15/11/2005,
UNESCO cơng nhận “Khơng gian văn hố cồng chiêng Tây Nguyên” là kiệt tác di
sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.
Sử thi Tây Nguyên: Hùng tráng như chính núi rừng và con người Tây Nguyên,
trong kho tàng văn học Việt Nam, người Tây Nguyên đã xây dựng nên những áng sử
thi bất hủ, còn được ví như những bản anh hùng ca của đồng bào vùng cao. Được
hình thành trên nền tảng văn hố, văn nghệ dân gian thời sơ sử và thời cổ đại, trước
hết trên nền tảng thần thoại; thể loại văn học này phản ánh nhận thức của người xưa
về thế giới, về nhân loại, về cuộc sống… gắn liền với phong tục, tập quán, nghi lễ và
ca múa nhạc nguyên thủy. Đây là vùng đất sản sinh khá nhiều sử thi sớm đã được
phong danh hiệu “vùng sử thi” hay “chiếc nôi của sử thi Việt Nam” với trên 20 sử thi
của các dân tộc khác nhau.
f. Vùng văn hóa Nam Bộ
Đây là một vùng đất mới đối với người Khơ Me, Việt, Hoa. Điều kiện tự nhiên,
môi trường của nam Bộ đã tạo cho vùng đất này những sắc thái văn hóa tiêu biểu,
những ''tính cách'' riêng của mình. Đặc trưng đầu tiên dễ nhận thấy là quá trình giao
lưu văn hóa diễn ra với một tốc độ mau lẹ, tạo cho văn hóa Nam Bộ tính chất cởi mở,
hướng ngoại. Văn hóa Nam Bộ là sự kết hợp giữa văn hóa truyền thống của vùng đất
gốc (các tộc người Việt, Hoa, Khơ-Me...) với điều kiện tự nhiên lịch sử vùng đất mới,
làm nảy sinh những yếu tố văn hóa riêng biệt thể hiện ở cả đời sống vật chất và tinh
thần.
Khơng chỉ hình thành nên nét văn hóa đặc sắc phù hợp với vùng miền, Nam bộ
còn mang một màu sắc tươi mới về trang phục và ẩm thực vùng miền. Người dân
Nam Bộ với khăn rằn quấn cồ, áo nâu sịng, cùng quần đen thanh thốt lại tạo nét giản


15
dị đơn sơ nhưng không về lép vế. Nét trang phục tốt lên sự dịu dàng nữ tính trong cả
lời ăn tiếng nói, sự khéo léo thùy mị, sự hiền lành chất phác mà giản dị của người dân

nơi đây.
Giao thương nơi đây cũng đặc biệt như vùng đất họ đang sống. Thay vì lập chợ
lập làng trên đất liền, họ mở ra vô số những phiên chợ buôn bán trên sơng nhộn nhịp
hịa cùng thiên nhiên. Bn bán, đàn ca sáo nhị, ngay trên sông nước này đã trở thành
những vùng văn hóa thu hút khách du lịch từ mọi miền đất nước ghé thăm, với mong
muốn trải nghiệm cuộc sống dân dã, bình dị hịa cùng thiên nhiên.
Về ngôn ngữ, để tạo nên phương ngữ Nam bộ là cả một sự đa dạng vay mượn
thanh âm của nhiều dân tộc, ngơn ngữ mang một hình thái rõ rệt, đậm đà tính cách hài
hước, chân chất mộc mạc của chính người dân nơi đây.


16
KẾT LUẬN
Lãnh thổ Việt Nam đã trải qua bao giai đoạn thăng trầm của lịch sử, trải qua
những bước chân văn hóa làm nổi bật những giá trị riêng biệt của từng vùng. Ba miền
Bắc, Trung, Nam của dải đất hình chữ S giữ riêng mình những đặc sản, đặc trưng vô
cùng đặc sắc và không lẫn vào đâu được. Chúng là bước đệm để một Việt Nam giàu
đẹp và đầy những giá trị thiêng liêng của đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc
Việt ngày càng phát triển và rộng khắp trên bức tranh nhuốm đầy những dấu son rực
rỡ và đầy phong vị của bạn bè năm châu. Hiện tại và tương lai sẽ còn nhiều nhà khoa
học quan tâm và nghiên cứu vấn đề này. Những đề xuất của họ sẽ được thực tiễn cuộc
sống kiểm nghiệm, lựa chọn nhằm phục vụ mục đích cao cả là xây dựng nền Văn hóa
Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần dân
tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền
vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


Phạm Thái Việt (Chủ biên) - Đào Ngọc Tuấn, “Đại cương về văn hoá


17
Việt Nam”, Nxb. Văn hố thơng tin, Hà Nội, 2004.
2.

Trần Ngọc Thêm, “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,

3.

Lê Ngọc Thông, “Bài giảng 4: Không gian văn hóa Việt Nam”,

2001.

( />5206.pdf).
4.

6 vùng văn hóa Việt Nam ( />
o- viet-nam--3113.html).



×