Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Tài liệu Báo cáo tốt nghiệp “Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.86 KB, 108 trang )

Báo cáo tốt nghiệp
“Một số giải
pháp nhằm góp
phần nâng cao
hiệu quả hoạt
động sản xuất
kinh doanh"
MỤC LỤC
Báo cáo t t nghi pố ệ 1
“M t s gi i pháp nh m góp ph n nâng cao hi u qu ho t ng s n xu t kinh doanh"ộ ố ả ằ ầ ệ ả ạ độ ả ấ
1
M C L CỤ Ụ 2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế thị trường là việc tổ chức nền kinh tế xã hội dựa trên cơ sở một
nền sản xuất hàng hóa. Thị trường luôn mở ra các cơ hội kinh doanh mới
những đồng thời cũng chứa đựng những nguy cơ đe dọa các doanh nghiệp. Để
có thể đứng vững trước quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường
đòi hỏi các doanh nghiệp luôn vận động, tìm tòi một hướng đi mới cho phù
hợp. Vì vậy các doanh nghiệp phải quan tâm, tìm mọi biện pháp để nâng cao
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Hiệu quả SX-KD luôn là mục tiêu hàng đầu, quyết định sự tồn tại của
mỗi doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp muốn tồn tại
phải làm ăn “có lãi”, nhất là những doanh nghiệp bước vào hoạt động với tư
cách là công ty cổ phần, vận hành theo cơ chế thị trường tự chịu trách nhiệm
với công việc SX-KD của mình. Nâng cao hiệu quả SX-KD là nhiệm vụ chủ
đạo của mỗi doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả SX-KD luôn là mối quan tâm hàng đầu của các
doanh nghiệp. Có nâng cao hiệu quả SX-KD thì doanh nghiệp mới tồn tại và
phát triển, qua đó mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên
và tạo sự phát triển vững chắc của doanh nghiệp.


Vấn đề nâng cao hiệu quả SX-KDvẫn là bài toán khó đối với nhiều
doanh nghiệp. Ở nước ta hiện nay số doanh nghiệp đạt được hiệu quả trong
quá trình Sx-KD vẫn chưa nhiều. Điều này có nhiều nguyên nhân như: Hạn
chế trong công tác quản lý, hạn chế về năng lực sản xuất hay kém thích ứng
với nhu cầu của thị trường. Do đó nâng cao hiệu quả Sx-KD càng ngày càng
phải được chú trọng đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
- Tham gia thực tập ở Công ty Cổ phần thương mại vật tư tổng hợp
Trường Giang sau một thời gian tìm hiểu đã nhận thấy một vấn đề nổi bật là
trước đây do sức ép của cơ chế thị trường có rất nhiều các doanh nghiệp SX-
KD mới thành lập, tư nhân và cả các cá nhân có đủ điều kiện đưa ra hoạt
động. Hơn nữa, các mặt hàng đưa ra kinh doanh như: kinh doanh các loại vật
tư tổng hợp sắt, thép, thép tấm, thép hình; kinh doanh vật liệu xây dựng và
thiết bị máy công trình xây dựng; kinh doanh hoá chất( trừ hoá chất nhà nước
cấm kinh doanh), vật liệu và thiết bị dụng cụ công nghiệp, dân dụng; kinh
doanh thiết bị, dụng cụ bảo hộ lao động, phòng cháy, chữa cháy; kinh doanh
dịch vụ vận tải đường bộ, đường thuỷ, dịch vụ du lịch; kinh doanh xuất nhập
khẩu vật tư tổng hợp và hàng tiêu dùng nông, lâm, thuỷ sản; dịch vụ diệt côn
trùng, chống mối mọi cũng được các doanh nghiệp SX-KD, tư nhân và cả các
cá nhân khai thác tối đa trên thị trường. Các doanh nghiệp SX-KD trong đó có
công ty cổ phần thương mại vật tư tổng hợp Trường Giang muốn tồn tại, phát
triển và khẳng định mình phải nhanh chóng thay đổi cơ chế trước hết là đổi
mới công tác tổ chức và quản lý.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nhằm đưa ra những lý luận chung về hiệu quả hoạt động SX-KD
trong doanh nghiệp. Làm rõ được ý nghĩa và mục tiêu tăng hiệu quả hoạt
động SX-KD của các doanh nghiệp. Thấy được những yếu tố quyết định cũng
như ảnh hưởng tới hiệu quả SX-KD của các doanh nghiệp.
- Phản ánh thực trạng kết quả hoạt động SX-KD của các doanh nghiệp
trong nước nói chung và thực trạng kết quả hoạt động SX-KD của Công ty Cổ
phần thương mại vật tư tổng hợp Trường Giang nói riêng. Thấy được những

biến chuyển tích cực về mặt hiệu quả SX-KD, đặc biệt rút ra được những tồn
tại, yếu kém gây cản trở việc nâng cao hiệu quả hoạt động SX-KD của các
doanh nghiệp nói chung nghiệp nói và ở Công ty Cổ phần thương mại vật tư
tổng hợp Trường Giang nói riêng.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu những lý luận và thực trạng hiệu quả hoạt động SX-KD
của các doanh nghiệp trong nước
- Nghiên cứu cụ thể thực trạng hoạt động SX-KD và hiệu quả hoạt động
SX-KD của Công ty Cổ phần thương mại vật tư tổng hợp Trường Giang, so
sánh với hiệu quả hoạt động SX-KD của các công ty trong nước.
4. Quan điểm nghiên cứu
- Hiệu quả hoạt động SX-KD đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của một doanh nghiệp.
- Trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp nhất là các công ty cổ phần
muốn tồn tại thích nghi với những biến đổi của thị trường cần có chiến lược
kinh doanh thích hợp, dựa vào nội lực của mình để vươn lên nhằm đạt được
mục tiêu hiệu quả hoạt động SX-KD.
- Việc nâng cao hiệu quả hoạt động SX-KD gắn với kết hợp hài hoà giữa
ba lợi ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân. Trong đó người lao
động là động lực trực tiếp quyết định hiệu quả hoạt động SX-KD.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho quá trình viết báo cáo, trong thời gian tìm hiểu, thu
thập dữ liệu em đã sử dụng các phương pháp: Phương pháp duy vật biện
chứng; duy vật lịch sử; phương pháp thống kê- so sánh; phương pháp phân
tích- tổng hợp.
6. Nội dung nghiên cứu
Báo cáo thực tập chuyên đề với đề tài “ Một số giải pháp nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động SX-KD ở Công ty Cổ phần thương mại vật
tư tổng hợp Trường Giang” đưa ra nội dung chủ yếu là vấn đề hiệu quả hoạt
động SX-KD ở các doanh nghiệp trong nước nói chung và ở Công ty Cổ phần

thương mại vật tư tổng hợp Trường Giang nói riêng. Báo cáo nêu bật được
thực trạng kết quả hoạt động kinh doanh, những chỉ tiêu đo lường, những
nhân tố ảnh hưởng, vai trò và bản chất hiệu quả hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp.
Qua nghiên cứu những vấn đề trên để thấy được những mặt tồn tại yếu
kém ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động SX-KD cần khắc phục nhằm đưa ra
những giải pháp góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động SX-KD của
các doanh nghiệp trong thời gian tới.
Là sinh viên tham gia thực tập ở công ty Công ty Cổ phần thương mại
vật tư tổng hợp Trường Giang, được sự giúp đỡ của các cô chú trong phòng
Tổ chức hành chính của công ty và sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo
Nguyễn Đăng Bảy, em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần
thương mại vật tư tổng hợp Trường Giang” cho báo cáo thực tập của mình
và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp khắc phục những tồn tại của công ty,
góp phần nâng cao hiệu quả SX - KD.
Nội dung của báo cáo gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động sản xuất-kinh doanh trong
doanh nghiệp
Chương 2: Phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động sản xuất- kinh doanh
của công ty cổ phần thương mại vật tư tổng hợp Trường
Giang
Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất- kinh doanh ở công ty cổ phần thương mại vật tư tổng
hợp Trường Giang
Trong quá trình thực tập do trình độ và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn
chế nên bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi rất mong được sự
quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện của Ban Lãnh đạo Công ty, Phòng sản xuất
kinh doanh và Thầy giáo hướng dẫn thực tập để báo cáo thực tập tốt nghiệp
của tôi hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG SX-KD TRONG DOANH
NGHIỆP
I. Quá trình sản xuất- kinh doanh và những nguyên lý cơ bản của
hoạt động SX-KD trong doanh nghiệp
1. quá trình sản xuất- kinh doanh sản phẩm trong doanh nghiệp
1.1. Khái niệm quá trình sản xuất sản phẩm.
Theo nghĩa rộng, quá trình sản xuất sản phẩm là quá trình bắt đầu từ
khâu chuẩn bị sản xuất cho đến mua sắm vật tư, kỹ thuật, tổ chức sản xuất
đến khấu cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm và tích luỹ tiền tệ.
1.2. Nội dung của quá trình sản xuất sản phẩm.
Nội dung cơ bản của quá trình sản xuất sản phẩm là quá trình lao động
sáng tạo tích cực của con người. Tuy nhiên, điều kiện cụ thể để tiến hành sản
xuất còn chịu sự chi phối của tự nhiên. Các Mác đã viết: “Thời gian lao động
bao giờ cũng là thời gian sản xuất, tức là thời gian mà tư bản lưu lại trong quá
trình sản xuất. Nhưng nói ngược lại thì không đúng, thời gian mà tư bản lưu
lại trong quá trình sản xuất không nhất thiết là thời gian lao động. Đây chỉ nói
đến sự gián đoạn ấy, đối tượng lao động phải trải qua những sự trao đổi vật
lý, hoá học, sinh học, trong lúc đó quá trình lao động bị đình chỉ toàn bộ hay
từng bộ phận”. Như vậy, quá trình sản xuất là tổng hợp của quá trình lao động
và quá trình tự nhiên.
Tuy nhiên, quá trình sản xuất không chỉ là quá trình tạo ra của cải vật
chất là còn là quá trình không ngừng củng cố mối quan hệ sản xuất như Các
Mác đã viết: “Từ nay, khái niệm lao động sản xuất không chỉ bao hàm mối
quan hệ giữa lao động và hiệu quả có ích, giữa người sản xuất và sản phẩm
mà còn bao hàm mối quan hệ xã hội khiến lao động trở thành công cụ trực
tiếp để làm cho tư bản tăng thêm giá trị.
1.3. Đơn vị của quá trình sản xuất.
Đơn vị của quá trình sản xuất sản phẩm đó là bước công việc (hay còn

gọi là nguyên công).
Bước công việc là một phần của quá trình sản xuất được thực hiện trên
một nơi làm việc, do một công nhân hay một nhóm công nhân cùng tiến hành
trên một đối tượng lao động nhất định. Như vậy, khi xét bước công việc, ta
phải căn cứ vào 3 yếu tố sau: nơi làm việc, công nhân và đối tượng lao động.
Nếu một trong ba yếu tố đó thay đổi thì bước công việc cũng thay đổi.
Việc phân chia bước công việc có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng
cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất thiết bị,
máy móc vì phân chia bước công việc, công nhân sẽ được chuyên môn hoá,
được sử dụng máy móc, dụng cụ chuyên dùng. Tuy nhiên thời gian gián đoạn
trong sản xuất lại tăng lên do bán thành phẩm phải dùng lại ở nơi làm việc,
phải chuyển từ nơi làm việc này sang nơi làm việc khác.
1.4. Khái niệm về quá trình kinh doanh sản phẩm
Theo nghĩa rộng, quá trình kinh doanh sản phẩm là quá trình bắt đầu từ
khi ra các chiến lược kinh doanh đến khi đưa sản phẩm ra thị trường để tiêu
thụ nhăm mục đích sinh lợi,
- Khái niệm chiến lược kinh doanh: Là phương hướng và quy mô của
một tổ chức trong dài hạn, chiến lược sẽ mang lại lợi thế cho tổ chức thông
qua việc sắp xếp tối ưu các nguồn lực trong một môi trường cạnh tranh nhắm
đáp ứng nhu cầu thị trường và kỳ vọng của các nhà góp vốn.
- Chiến lược là:
Nơi mà các doanh nghiệp cố gắng vươn tới trong dài hạn.
Doanh nghiệp phải cạnh tranh trên thị trường nào và những loại hợp
đồng nào doanh nghiệp thực hiện trên thị trường đó.
Doanh nghiệp sẽ làm thế nào để hợp đồng tốt hơn so với các đối thủ
cạnh tranh trên thị trường đó.
Những nguồn lực nào( kỹ năng, tài sản, tài chính, các mối quan hệ,
năng lự kỹ thuật, trang thiết bị) cần phải có để có thể cạnh tranh trên thị
trường.
Những nhân tố từ môi trường bên ngoài ảnh hưởng tới khả năng cạnh

tranh trên thị trường.
1.5. Nội dung của quá trình kinh doanh sản phẩm
Quá trình kinh dopanh sản phẩm gồm có 7 giai đoạn:
- Giai đoạn 1( Giai đoạn gieo hạt): là giai đoạn mà quá trình kinh doanh
chỉ tồn tại trong suy nghĩ hay nói cách khác nó chỉ là ý tưởng, ý đồ kinh
doanh.
- Giai đoạn 2( giai đoạn khởi động): doanh nghiệp vừa được hình thành
và tồn tại một cách hợp pháp. Các sản phẩm và dịch vụ hiện đã đi vào sản
xuất và có những khách hàng đầu tiên. Trong giai đoạn kinh doanh này những
đòi hỏi về vốn và thời gian tìm hiểu thị trường được đánh giá khá cao. Chủ
doanh nghiệp phải học cách khảo sát “tính thực tế” những nhu cầu thừ phía
khách hàng có thể mang lại lợi nhuận và chắc chắn việc kinh doanh đang đi
đúng hướng.
- Giai đoạn 3( giai đoạn phát triển): Ở giai đoạn này các khoản danh thu
và khách hàng đang tăng lên, điều đó đồng nghĩa với sự xuất hiện của thời cơ
mới cũng như thách thức mới.
- Giai đoạn 4( giai đoạn ổn định): giai đoạn này doanh nghiệp có thể
tạm nghỉ ngơi và hài lòng với những thành tích đã đạt được. Nhưng doanh
nghiệp cần có một điểm tựa vững mạnh hơn trong hình ảnh lớn hơn.
- Giai đoạn 5( giai đoạn mở rộng): là giai đoạn cho sự lựa chọn các ông
chủ doanh nghịêp nhỏ nhắm chiếm lĩnh những phần lớn hơn của cổ phần thị
trường và tìm kiếm nguồn doanh thu mới cũng như các kênh kinh doanh khác
mang lại lợi nhuận.
- Giai đoạn 6( giai đoạn suy thoái): Những thay đổi về điều kiện thị
trường, xã hội, nền kinh tế có thể làm giảm số lượng bán hàng, do đó lợi
nhuận cũng giảm theo.
- Giai đoạn 7( giai đoạn tan rã): giai đoạn này là thời điểm toàn bộ cả 5
cố gắng và làm việc vất vả lao vào kinh doanh đồng thời ra đi, hay nó có thể
hiểu đơn giản là chấm dứt công việc kinh doanh toàn bộ.
2. Mục tiêu và những nguyên tắc cơ bản trong sản xuất-kinh doanh

đảm bảo sự thành công trên thương trường.
2.1. Khái niệm sản xuất-kinh doanh.
SX-KD là việc đầu tư tiền của, công sức, trí tuệ, kỹ thuật, công nghệ
vào quá trình sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ theo nhu
cầu thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận.
2.2. Mục tiêu của sản xuất- kinh doanh.
Từ khái niệm SX-KD cho thấy mục tiêu chính của SX-KD là tạo ra lợi
nhuận. Nhưng mỗi doanh nghiệp thường có nhiều nhu cầu và không phải lúc
nào cũng thoả mãn được tất cả những nhu cầu đó nên đòi hỏi có sự phân loại
nhu cầu, nghĩa là có sự lựa chon mục tiêu. Những mục tiêu nào thiết thực
nhất, hiệu quả nhất sẽ được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, việc lựa chọn mục tiêu
này thường được biểu diễn dưới dạng hình kim tự tháp và gọi là “tháp mục
tiêu”. Trong đó có những mục tiêu quan trọng và có khả năng thực hiện nhất
đối với doanh nghiệp được xếp lên đỉnh tháp và cứ thế tuần tự cho đến mục
tiêu lâu dài nhất và đòi hỏi phải thực hiện trong những khoảng thời gian lâu
dài hơn.
Mục tiêu quan trọng nhất
Mục tiêu lâu dài nhất
Hình 1.1: Tháp mục tiêu
2.3. Những nguyên tắc cơ bản trong sản xuất-kinh doanh đảm bảo
sự thành công trên thương trường.
Đối với các doanh nghiệp SX-KD hoạt động trong tất cả các lĩnh vực
sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hoá thường có các mục tiêu như lợi
nhuận, chất lượng hàng hoá, giá cả, cạnh tranh, thị trường, mục tiêu chính trị
và bảo vệ môi trường, mục tiêu sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Để
có thể thực hiện thắng lợi mục tiêu sản SX-KD. Các doanh nghiệp SX-KD
hoạt động trên thương trường phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
 SX-KD những thứ hàng hoá, dịch vụ có chất lượng tốt đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng.
 Tìm hiều và nắm bắt nhu cầu của thị trường để đáp ứng đầy đủ nhu

cầu của người tiêu dùng
 Tìm hiểu và khai thác thị trường mới để tạo điều kiện mở rộng sản
xuất-kinh doanh. Trong quá trình SX-KD hàng hoá, dịch vụ bao giờ cũng
phải tuân theo cơ chế thị trường và thông qua hoạt động của doanh nghiệp.
3.Các quy luật và cơ sở của sản xuất-kinh doanh.
3.1. Các quy luật của sản xuất-kinh doanh
Làm bất cứ việc gì muốn thành công phải biết được bản chất, quy luật
vận động của sự vật, hiện tượng. Nếu làm trái với quy luật thi sẽ bị thất bại.
Sản xuất-kinh doanh cũng có quy luật riêng của nó:
Quy luật cung cầu: Nghĩa là cần phải SX-KD những hàng hoá mà trên
thị trường đang có nhu cầu mà số lượng cung còn ít hoặc chưa đáp ứng đủ
chứ không phải là SX-KD nhhững hàng hoá mà nhu cầu thị trường đã bão hoà
hoặc nhu cầu rất ít. Nếu đi đúng theo hướng này thì doanh nghiệp sẽ tồn tại và
phát triển, còn ngược lại sẽ bị thua lỗ, phá sản.
Quy luật giá cả: Tâm lý người tiêu dùng bao giờ cũng muốn mua hàng
hoá có chất lượng tốt nhưng giá cả phải rẻ, phải chăng. Chính vì vậy, doanh
nghiệp cần phải vận dụng linh hoạt chính sách giá cả để người tiêu dùng thấy
hài lòng mà doanh nghiệp vẫn thu được lợi nhuận.
Quy luật cạnh tranh: Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại
và phát triển thì cần phải có chỗ đứng trên thị trường. Muốn vậy, các doanh
nghiệp phải cạnh tranh với nhau để lôi cuốn khách hàng. Như vậy, không
những cạnh tranh về chất lượng, giá cả mà còn cạnh tranh về các dịch vụ bán
hàng…Vì cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển.
3.2. Những cơ sở của sản xuất-kinh doanh
Để hoạt động SX-KD, mọi người trong doanh nghiệp đều phải dựa trên
những yếu tố, điều kiện nhất định. Đó là những cơ sở của SX-KD, nó được
chia thành các nhóm sau:
-Nhóm thứ nhất: Là điều kiện tự nhiên như thời tiết, khí hậu, vị trí địa
lý và các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú như đất đai, rừng núi, biển,
khoáng sản…

- Nhóm thứ hai: Là những tư liệu lao động, con người tác động vào đối
tượng lao động làm thay đổi hình dáng tự nhiên của sản phẩm cho thích ứng
với nhu cầu của mình. Đó là máy móc, thiết bị, phương tiện kinh doanh, phụ
tùng thay thế…
- Nhóm thứ ba: Là đối tượng lao động, đó là những thứ mà lao động
của con người hướng tới, dùng để tạo ra sản phẩm hàng hoá. Đó là nguyên
liệu, điện năng, bán thành phẩm, các vật liệu khác…
-Nhóm thứ tư: là lao động với tư cách chủ thể và yếu tố quyết định của
sản xuất-kinh doanh. Trong SX-KD có hai nhóm người: Chủ doanh nghiệp
với những phẩm chất đặc biệt như : Tự tin, nhạy bén, dám chấp nhận mạo
hiểm, rủi ro, quyết đoán và người lao động có kỹ năng nghề nghiệp thực hiện
công việc nhất định.
II. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh
1. Khái niệm hoạt động sản xuất-kinh doanh
Trong thời đại ngày nay, hoạt động sản xuất tạo ra của cải vật chất và
dịch vụ luôn gắn liền với cuộc sống của con người, công việc sản xuất thuận
lợi khi các sản phẩm tạo ra được thị trường chấp nhận tức là đồng ý sử dụng
sản phẩm đó. Để được như vậy thì các chủ thể tiến hành sản xuất phải có khả
năng kinh doanh.
“ Nếu loại bỏ các phần khác nhau nói về phương tiện, phương thức, kết
quả cụ thể của hoạt động kinh doanh thì có thể hiểu kinh doanh là các hoạt
động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lời của chủ thể kinh doanh trên thị trường”
Hoạt động kinh doanh có đặc điểm:
+ Do một chủ thể thực hiện và gọi là chủ thể kinh doanh, chủ thể kinh
doanh có thể là cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp
+ Kinh doanh phải gắn với thị trường, các chủ thể kinh doanh có mối
quan hệ mật thiết với nhau, đó là quan hệ với các bạn hàng, với chủ thể cung
cấp đầu vào, với khách hàng, với đối thủ cạnh tranh, với Nhà Nước. Các mối
quan hệ này giúp cho các chủ thể kinh doanh duy trì hoạt động kinh doanh
đưa doanh nghiệp của mình này càng phát triển.

+ Kinh doanh phải có sự vận động của đồng vốn: Vốn là yếu tố quyết
định cho công việc kinh doanh, không có vốn thì không thể có hoạt động kinh
doanh. Chủ thể kinh doanh sử dụng vốn mua nguyên liệu, thiết bị sản xuất,
thuê lao động
+ Mục đích chủ yếu của hoạt động kinh doanh là lợi nhuận.
2. Khái niệm về hiệu quả hoạt động sản xuất-kinh doanh
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề về mục tiêu
của doanh nghiệp. Song có thể nói, trong cơ chế thị trường hiện nay ở nước
ta, mục tiêu lâu dài bao trùm của các doanh nghiệp là kinh doanh có hiệu quả
và tối đa hoá lợi nhuận. Tuy nhiên, hiệu quả SX-KD không chỉ là lợi nhuận
mà hiệu quả phải được gắn với việc hoàn thành mục tiêu đề ra, không thể có
được hiệu quả nếu mục tiêu của doanh nghiệp không đạt được.
Môi trường kinh doanh luôn biến đổi đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải
có chiến lược kinh doanh thích hợp. Công việc kinh doanh là một nghệ thuật
đòi hỏi sự tính toán nhanh nhạy, biết nhìn nhận vấn đề ở tầm chiến lược. Hiệu
quả hoạt động SX-KD luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh, có thể xem xét
nó trên nhiều góc độ. Để hiểu được khái niệm hiệu quả hoạt động SX-KD cần
xét đến hiệu quả kinh tế của một hiện tượng.
“Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc quá trình) kinh tế là một
phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nhân lực, tài lực,
vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định”, nó biểu hiện mối quan hệ
tương quan giữa kết quả thu được và toàn bộ chi phí bỏ ra để có kết quả đó,
phản ánh được chất lượng của hoạt động kinh tế đó.
Vậy từ định nghĩa về hiệu quả kinh tế của một hiện tượng như trên ta
có thể hiểu hiệu quả hoạt động SX-KD là gì?
Quan điểm 1: hiệu quả hoạt động SXKD là một phạm trù kinh tế phản
ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã đặt ra, nó biểu
hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và những chi phí bỏ ra để có được
kết quả đó, độ chênh lệch giữa hai đại lượng này càng lớn thì hiệu quả càng
cao. Trên góc độ này thì hiệu quả đồng nhất với lợi nhuận của doanh nghiệp

và khả năng đáp ứng về mặt chất lượng của sản phẩm đối với nhu cầu của thị
trường.
Quan điểm 2: Hiệu quả SX-KD là mức độ hữu ích của sản phẩm sản
xuất ra tức là giá trị sử dụng của nó, hoặc là doanh thu và nhất là lợi nhuận
thu được sau quá trình kinh doanh. Quan điểm này lẫn lộn giữa hiệu quả với
kết quả SX-KD, giữa hiệu quả với mục tiêu kinh doanh.
Quan điểm 3: Hiệu quả SX-KD là sự tăng trưởng kinh tế, được phản ánh
qua nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này là phiến diện chỉ
đứng trên giác độ biến động theo thời gian.
Quan điểm 4: Hiệu quả SX-KD là mức độ tiết kiệm chi phí mức tăng kết
quả kinh tế. Đây là biểu hiện của bản chất chứ không phải là khái niệm về
hiệu quả kinh tế.
Quan điểm 5: Hiệu quả SX-KD là các chỉ tiêu được xác định bằng tỷ lệ
so sánh giữa kết quả với chi phí. Định nghĩa như vậy chỉ đề cấp đến cách xác
lập các chỉ tiêu, chứ không toát lên ý niệm của vấn đề.
Quan điểm 6: Hiệu quả SX-KD là mức tăng của kết quả SX-KD trên
mỗi lao động hay mức doanh lợi của vốn sản xuất kinh doanh. Quan điểm này
muốn quy hiệu quả SX-KD về một chỉ tiêu tổng hợp cụ thể nào đó.
Từ các quan điểm về hiệu quả SX-KD ở trên ta có thể đưa ra một khái
niệm bao quát hơn:
Hiệu quả SX-KD là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung sự phát
triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và
trình độ chi phí các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện
mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự
tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu
kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể đánh giá trong mối quan hệ
với kết quả tạo ra. Để xem xét hiệu quả kinh tế chúng ta xem xét mối quan hệ
tỷ lệ giữa sự tăng lên của đại lượng kết quả và chi phí.
Công thức biểu diễn phạm trù này:

H =
C
K


(1)
∆K: Phần gia tăng của kết quả sản xuất (kết quả đầu ra)
∆C: Phần gia tăng của chi phí sản xuất( yếu tố đầu vào)
H: Hiệu quả sản xuất kinh doanh
Kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu như: Doanh thu thuần, lợi
nhuận, lợi tức gộp…Còn các yếu tố đầu vào bao gồm lao động, tư liệu lao
động, đối tượng lao động, vốn chủ sở hữu, vốn vay…
Quan điểm này phản ánh hiệu quả chưa đầy đủ và trọn vẹn. Nó chỉ đề
cập đến hiệu quả của phần tăng thêm bằng cách so sánh giữa phần gia tăng
của kinh doanh sản xuất và phần gia tăng của chi phí sản xuất chứ chưa đề
cập toàn bộ phần tham gia vào quá trình SX-KD. Xét trên quan điểm triết học
Mác Lênin thì mọi sự vật, hiện tượng đều có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ
với nhau chứ không tồn tại một cách riêng lẻ, độc lập. SX-KD không nằm
ngoài quy luật này, các yếu tố "tăng thêm" giảm đi có liên hệ với các yếu tố
sẵn có. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp các động tới kết quả SX-KD. Hiệu quả
SX-KD luôn là kết quả tổng hợp của toàn bộ phần tham gia vào quá trình SX-
KD. Quan điểm này chỉ đề cập đến phần tăng thêm trong khái niệm hiệu quả
là chưa đầy đủ, thiếu chính xác.
Như vậy ta nhận thấy rằng hiệu quả SX-KD của doanh nghiệp phản ánh
chất lượng hoạt động SX-KD của doanh nghiệp. Còn kết quả của quá trình
SX-KD (doanh thu, lợi nhuận) thì phản ánh số lượng của hoạt động SX-KD.
Vậy khi xem xét, đánh giá hoạt động của một doanh nghiệp thì phải quan tâm
cả kết quả cũng như hiệu quả của doanh nghiệp đó.
Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ lợi dụng các nguồn
lực ở mọi điều kiện "động" của hoạt động SX-KD.

Việc tính toán hiệu quả hoàn toàn có thể thực hiện được trong sự vận
động và biến đổi không ngừng của hoạt động Sx-KD, không phụ thuộc vào
quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.
Ngoài ra, hiệu quả SX-KD còn có thể tính bằng cách so sánh nghịch
đảo:
H = (2)
Công thức (2) phản ánh sự hao phí của chỉ tiêu đầu vào, nghĩa là để có
một đơn vị kết quả đầu ra thì hao phí hết bao nhiêu đơn vị chi phí ở đầu vào.
Như đã đề cập ở trên, hiệu quả SX-KD phải gắn liền với việc thực hiện
các mục tiêu của doanh nghiệp. Cho nên hiệu quả được thực hiện qua công
thức sau:
H = (3)
Công thức (3) phản ánh hiệu quả không phải là sự so sánh giữa chi phí
cho đầu vào và kết quả nhận được ở đầu ra của một quá trình. Mà hỉệu quả
của doanh nghiệp được hiểu trước tiên là việc hoàn thành mục tiêu, nếu
không đạt được mục tiêu thì không có hiệu quả, và để hoàn thành mục tiêu thì
phải sử dụng một nguồn lực sao cho hợp lý. Qua công thức này còn thể hiện
một quan điểm mới đó là không phải lúc nào để đạt được hiệu quả là cũng
giảm chi phí, mà điều quan trọng là phải sử dụng chi phí như thế nào? Có
những chi phí không cần thiết ta phải cắt giảm đi, nhưng lại có những chi phí
ta cần phải tăng thêm. Vì chính việc tăng chi phí này giúp cho doanh nghiệp
hoàn thành mục tiêu với kết quả cao hơn và ngày càng củng cố được vị thế
trên thương trường.
3. Vai trò của hiệu quả hoạt động sản xuất-kinh doanh
3.1. Hiệu quả hoạt động SXKD là công cụ quản trị doanh nghiệp
Để tiến hành bất kỳ hoạt động SX-KD nào con người cũng cần phải kết
hợp yếu tố con người và yếu tố vật chất nhằm thực hiện công việc phù hợp
với ý đồ trong chiến lược và kế hoạch SX-KD của mình trên cơ sở nguồn lực
sẵn có. Để thực hiện điều đó bộ phận quản trị doanh nghiệp sử dụng rất nhiều
công cụ trong đó có công cụ hiệu quả hoạt động SX-KD. Việc xem xét và tính

toán hiệu quả hoạt động SX-KD không những chỉ cho biết việc sản xuất đạt
được ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị tìm ra các nhân tố để
đưa ra những các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và
giảm chi phí kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả.
Bản chất của hiệu quả hoạt động SX-KD là phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn lực đầu vào, do đó xét trên phương diện lý luận và thực tiễn, phạm
trù hiệu hoạt động SX-KD quả đóng vai trò rất quan trọng trong việc đánh
giá, so sánh, phân tích kinh tế nhằm tìm ra một giải pháp tối ưu nhất để đạt
được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Với vai trò là phương tiện đánh giá và
phân tích kinh tế, hiệu quả hoạt động SX-KD không chỉ được sử dụng ở mức
độ tổng hợp, đánh giá chung trình độ sử dụng đầu vào ở toàn bộ doanh nghiệp
mà còn đánh giá được trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn
doanh nghiệp cũng như đánh giá được từng bộ phận của doanh nghiệp.
3.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động SX-KD
Mọi nguồn tài nguyên trên trái đất đều là hữu hạn và ngày càng cạn kiệt,
khan hiếm do hoạt động khai thác, sử dụng hầu như không có kế hoạch của
con người. Trong khi đó mật độ dân số của từng vùng, từng quốc gia ngày
càng tăng và nhu cầu sử dụng sản phẩm hàng hoá dịch vụ là phạm trù không
có giới hạn- càng nhiều,càng đa dạng, càng chất lượng càng tốt. Sự khan hiếm
đòi hỏi con người phải có sự lựa chọn kinh tế, nhưng đó mới chỉ là điều kiện
cần, khi đó con người phát triển kinh tế theo chiều rộng: tăng trưởng kết quả
sản xuất trên cơ sở gia tăng các yếu tố sản xuất. Điều kiện đủ là cùng với sự
phát triển của khoa học kỹ thuật ngày càng có nhiều phương pháp khác nhau
để tạo ra sản phẩm dịch vụ, cho phép cùng những nguồn lực đầu vào nhất
định người ta có thể tạo ra rất nhiều loại sản phẩm khác nhau, sự phát triển
kinh tế theo chiều dọc nhường chỗ cho sự phát triển kinh tế theo chiều sâu: sự
tăng trưởng kết quả kinh tế của sản xuất chủ yếu nhờ vào việc cải tiến các yếu
tố sản xuất về mặt chất lượng, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ
mới, hoàn thiện công tác quản trị và cơ cấu kinh tế. Nói một cách khái quát là
nhờ vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động SX-KD.

Trong cơ chế thị trường, việc giải quyết ba vấn đề kinh tế sản xuất cái gì?
sản xuất cho ai? và sản xuất như thế nào? được quyết định theo quan hệ cung
cầu, giá cả thị trường, cạnh tranh và hợp tác, doanh nghiệp phải tự đưa ra
chiến lược kinh doanh và chịu trách nhiệm với kết quả kinh doanh của mình,
lúc này mục tiêu lợi nhuận trở thành mục tiêu quan trọng mang tính chất
quyết định. Trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực thì việc nâng cao hiệu
quả hoạt động SX-KD là tất yếu đối với mọi doanh nghiệp. Mặt khác doanh
nghiệp còn chịu sự cạnh tranh khốc liệt, để tồn tại và phát triển được, phương
châm của các doanh nghiệp luôn phải là không ngừng nâng cao chất lượng và
năng suất lao động, dẫn đến việc tăng năng suất là điều tất yếu.
3.3. Sản xuất-kinh doanh có hiệu quả là điều kiện sống còn đối với
mọi doanh nghiệp.
Sản xuất ra cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Sẽ không
thành vấn đề phải bàn bạc nếu như nguồn tài nguyên không hạn chế. Người ta
có thể sản xuất ra vô tận hàng hoá sau đó cung cấp cho người tiêu dùng( hay
gọi là quá trình kinh doanh), sử dụng thiết bị máy móc, nguyên liệu, máy móc
một cách không cần tính toán, không cần suy nghĩ cũng chẳng sao nếu nguồn
tài nguyên là vô tận. Nhưng thực tế, mọi nguồn tài nguyên trên trái đất như
đất đai, nước, khoáng sản, hải sản… là một phạm trù hữu hạn và ngày càng
khan hiếm cạn kiệt do con người khai thác và sử dụng không đúng cách.
Trong khi đó, một mặt dân cư ở từng vùng, từng quốc gia và toàn thế giới
ngày càng tăng và tốc độ tăng dân số cao làm cho nhu cầu tiêu dùng ngày
càng cao. Mặt khác, do của cải, nguyên vật liệu khan hiếm theo nghĩa tuyệt
đối lẫn tương đối. Thực ra, khan hiếm mới chỉ là điều kiện cần của sự lựa
chọn kinh tế, tức là buộc con người phải lựa chọn kinh tế. Từ thuở xa xưa, khi
mà dân cư còn thưa thớt, trong khi của cải và tài nguyên trên trái đất lại
phong phú, đa dạng nên chúng ta chưa chú ý lựa chọn kinh tế. Khi đó con
người chỉ chú ý phát triển kinh tế theo chiều rộng. Tăng tưởng kết quả sản
xuất trên cơ sở gia tăng các yếu tố sản xuất, tư liệu lao động, đất đai.
Như vậy, nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh tức là đã nâng cao khả

năng sử dụng các nguồn lực có hạn trong sản xuất và đạt được lựa chọn tối
ưu. Trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu quả
sản xuất-kinh doanh là điều kiện không thể đặt ra đối với bất kỳ hoạt động sản
xuất-kinh doanh nào.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, việc giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản
sau: Sản xuất ra cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? đều dựa trên
quan hệ cung cầu, giá cả, thị trường, cạnh tranh và hợp tác. Các doanh nghiệp
phải tự đưa ra các quyết định kinh doanh của mình, tự hạch toán lỗ lãi, lãi
nhiều hưởng nhiều, lãi ít hưởng ít, không có lãi sẽ dẫn đến doanh nghiệp bị
phá sản. Lúc này, mục tiêu lợi nhuận trở thành một trong những mục tiêu
quan trong nhất, mang tính chất sống còn của hoạt động sản xuất-kinh doanh.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp phải cạnh
tranh để tồn tại và phát triển. Các doanh nghiệp phải có được lợi nhuận và đạt
được lơi nhuận ngày càng cao. Do vậy, đạt hiệu quả SX-KD và nâng cao hiệu
quả SX-KD luôn là vấn đề được quan tâm của các doanh nghiệp và trở thành
điện kiện sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh
tế thị trường
4. Bản chất của hiệu quả hoạt động sản xuất-kinh doanh
4.1. Phân biệt kết quả SX-KD và hiệu quả SX-KD
Thực chất khái niệm hiệu quả SX-KD là phản ánh các mặt chất lượng
của các mặt hoạt động SX-KD. Tuy nhiên để hiểu rõ bản chất của phạm trù
hiệu quả SX-KD cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù hiệu quả SX-
KD và kết quả SX-KD.
Kết quả Sx-KD là phạm trù phản ánh những cái gì thu được sau một
quá trình SX-KD nào đó. Kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp,
có thể được biểu hiện bằng đơn vị hiện vật hoặc giá trị. Các đơn vị cụ thể
được sử dụng tuỳ thuộc vào đặc trưng của sản phẩm mà quá trình SX-KD tạo
ra, nó có thể là tấn, tạ, kg, m, lit…Các đơn vị giá trị có thể là đồng, triệu
đồng, ngoại tệ…Kết quả cũng có thể phản ánh mặt chất lượng của SX-KD
hoàn toàn định tính như uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp, chất lượng sản

phẩm…Tuy nhiên, không chỉ kết quả định tính mà kết quả định lượng của
một thời kỳ SX-KD nào đó cũng rất khó xác định bởi nhiều lý do như kết quả
không chỉ là sản phẩm hoàn chỉnh mà còn là sản phẩm dở dang, bán thành
phẩm. Hơn nữa, hầu như quá trình sản xuất lại tách rời quá trình tiêu thụ nên
ngay cả sản phẩm xong ở một thời kỳ nào đó cũng chưa thể kết luận rằng liệu
sản phẩm đó bao giờ thì tiêu thụ được và thu được tiền về…
Trong khi đó, hiệu quả SX-KD là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng
các nguồn lực sản xuất. Trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất không thể
đo lường bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị mà là một phạm trù tương đối.
Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể hiểu và phản ánh bằng số tương
đối. Tỷ số giữa kết quả và hao phí nguồn lực, tránh nhầm lẫn giữa phạm trù
hiệu quả sản xuất-kinh doanh với phạm trù mô tả sự chênh lệch giữa kết quả
và hao phí nguồn lực. Chênh lệch giữa kết quả và hao phí nguồn lực luôn là
tuyệt đối, phạm trù này chỉ phản ánh mức độ đạt được về một mặt nào đó nên
cũng mang bản chất là kết quả của quá trình sản xuất-kinh doanh và không
bao giờ phản ánh được trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất.
Tóm lại, hiệu quả hoạt động sản xuất-kinh doanh là một phạm trù phản
ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực, phản ánh mặt chất lượng của quá trình
sản xuất-kinh doanh.
4.2. Bản chất của hiệu quả sản xuất-kinh doanh
Bản chất của hiệu quả sản xuất-kinh doanh là nâng cao năng suất lao
động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết
của vấn đề hiệu quả kinh tế, gắn liền với hai quy luật tương ứng của nền sản
xuất xã hội, là quy luật tăng năng suất lao động và quy luật tiết kiệm thời
gian. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh
tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra yêu cầu phải
khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu
kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát
huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh là phải

đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Hay chính xác hơn là đạt kết quả
tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại, đạt kết quả nhất định với chi phí
tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng: Chi phí tạo ra nguồn lực
và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi
phí cơ hội là chi phí của việc lựa chọn tốt nhất đã bị bỏ qua. Hay là giá trị của
sự hy sinh hoạt động kinh doanh khác để thực hiện hoạt động kinh doanh này.
Chi phí cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán và loại ra khỏi lợi nhuận
kế toán để thấy rõ lợi ích kinh tế thực sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích
các nhà kinh doanh lựa chọn phương hướng kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng
sản xuất có hiệu quả hơn.
Hiệu quả sản xuất kinh-doanh phản ánh mặt chất lượng của các hoạt
động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị,
máy móc, tiền, nguyên vật liệu) để đạt được mục tiêu cuối cùng của doanh
nghiệp. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là sự
thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian.
Các Mác đã cho rằng quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm
quan trọng đặc biệt. Mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo quản lý
đó. Con người tạo ra của cải vật chất bằng sức lao động. Lao động được đo
lường bằng thời gian. Với một mục tiêu nhất định con người phải thực hiện
trong một thời gian lao động ít nhất hay nói một cách khác thì trong một thời
gian lao động nhất định kết quả đạt được phải cao nhất.
Vì vậy yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải
đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu (thời gian hao phí lao động thấp nhất).
Điều này có nghĩa là với mức chi phí nhất định thì doanh nghiệp phải đạt kết
quả tối đa hoặc ngược lại, đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu.
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt
động sản xuất kinh doanh, cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm
hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất-kinh doanh. Trước đây trong lý
luận cũng như thực tiễn đã tồn tại sự nhầm lẫn giữa hai phạm trù hiệu quả và
kết quả của hoạt động sản xuất-kinh doanh, khi đó đã coi kết quả là mục tiêu

mục đích và coi hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh là mục tiêu. Từ
quan niệm nhầm lẫn đó dẫn đến sự hạn chế trong phương pháp luận giải quyết
vấn đề, đôi khi người ta hay coi đạt được kết quả là đạt được hiệu quả và rõ
ràng điều đó có nghĩa là không cần chú ý đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Đây là quan niệm sai lầm và cần phải được thay đổi.
Hiện nay, chúng ta có thể hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình
sản xuất kinh doanh nhất định, kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần
thiết của doanh nghiệp có thể là những đại lượng có thể cân, đo, đong đếm
được như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, lợi nhuận… và cũng có
thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định
tính như uy tín của hãng, chất lượng sản phẩm… Như thế kết quả bao giờ
cũng là mục tiêu của doanh nghiệp. Trong khi đó trong khái niệm về hiệu quả
sản xuất kinh doanh, người ta đã sử dụng cả hai chỉ tiêu là kết quả (đầu ra) và
chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả sản kinh doanh. Trong
lý thuyết và thực tế quản trị kinh doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều
có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử
dụng đơn vị hiện vật để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ vấp phải
khó khăn là giữa "đầu vào" và "đầu ra" không có cùng một đơn vị đo lường,
còn việc sử dụng đơn vị giá trị luôn luôn đưa các đại lượng khác nhau về cùng
một đơn vị đo lường tiền tệ. Vấn đề được đặt ra là hiệu quả sản xuất kinh
doanh là mục tiêu hay phương tiện của kinh doanh? Trước tiên, hiệu quả sản
xuất kinh doanh phản ánh việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp đạt được
ở trình độ nào. Nhưng xem xét hiệu quả kinh tế không chỉ dừng ở đó mà
thông qua đó có thể phân tích, tìm ra các nhân tố cho phép nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Từ đó có thể có các giải pháp nhằm đạt mục tiêu của
doanh nghiệp ở mức độ cao hơn với chi phí về nhân tài, vật lực và tiền vốn ít
hơn. Như vậy, nhiều lúc người ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu
cần đạt và trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng chúng như công
cụ để nhận biết khả năng tiến tới mục tiêu cần đạt là kết quả.

4.3. Đặc điểm của phạm trù hiệu quả sản xuất-kinh doanh
Hiệu quả sản xuất-kinh doanh là một khái niệm phức tạp và khó đánh
giá chính xác. Sở dĩ phạm trù hiệu quả sản xuất-kinh doanh là phạm trù phức
tạp và khó đánh giá chính xác là vì ngay ở khái niệm về hiệu quả sản xuất-
kinh doanh đã cho thấy hiệu quả sản xuất-kinh doanh được xác định bởi mối
tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đạt được từ hoạt động sản xuất
(doanh nghiệp sản xuất) hoặc kinh doanh (doanh nghiệp thương mại, dịch
vụ…) và chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất-kinh doanh đó.
Trong khi cả hai đại lượng kết quả và chi phí đều khó xác định chính xác.
Về kết quả hoạt động sản xuất-kinh doanh chúng ta thấy hầu như rất ít
khi các doanh nghiệp xác định được chính xác các kết quả mà doanh nghiệp
thu được ở một thời điểm nào đó do các quá trình tạo ra kết quả diễn ra trong
các doanh nghiệp thường có sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,… Trong nền
kinh tế thị trường, doanh nghiệp không phải chỉ tạo ra kết quả (sản phẩm, dịch
vụ) mà còn phải bán được các kết quả đó và quá trình bán hàng và quá trình
tạo ra kết quả luôn không trùng nhau. Một doanh nghiệp ở một thời điểm nào
đó có thể có nhiều sản phẩm được sản xuất ra nhưng lại tiêu thụ được rất ít,
như thế chưa thể nói doanh nghiệp đã đạt được kết quả (mục tiêu). Nếu xét
trên góc độ giá trị, đại lượng kết quả của sản xuất kinh doanh không phải là
đại lượng đánh giá dễ dàng vì ngoài các nhân tố ảnh hưởng trên, kết quả sản
xuất kinh doanh còn chịu ảnh hưởng của thước đo giá trị (đồng tiền với những
thay đổi của nó trên thị trường). Mặt khác, chính hoạt động của con người là
luôn nhằm đến và đạt đến kết quả nhất định, song không phải lúc nào con
người cũng nắm chắc được, biết hết được các kết quả do chính hành động của
họ. Như vậy, phạm trù kết quả là một phạm trù phức tạp mà không phải lúc
nào chúng ta cũng đánh giá đầy đủ được nó.
Việc xác định đại lượng chi phí cũng không dễ dàng. Nếu xét trên
phương diện lý thuyết thì chi phí tính bằng đơn vị hiện vật là chi phí sử dụng
tài nguyên, chi phí "thực" để tạo ra kết quả của doanh nghiệp song điều đó
không thể xác định được trong thực tiễn. Ở mọi doanh nghiệp, việc kiểm kê,

kiểm tra xem đã sử dụng bao nhiêu đơn vị nguyên nhiên vật liệu mỗi loại
cũng không phải lúc nào cũng tiến hành được. Trong khi đó, ở mọi doanh
nghiệp lại còn nhiều loại nguồn lực đầu vào không chỉ liên quan đến một quá
trình tạo ra sản phẩm nào đó mà nó liên quan đến nhiều quá trình kinh doanh
khác nhau. Điều này dẫn tới việc xác định hao phí một cách chính xác vào
một quá trình kinh doanh cụ thể gặp nhiều khó khăn. Nếu xét trên phương
diện giá trị, chi phí kinh doanh thường được hiểu là giá trị của toàn bộ tài
nguyên đã sử dụng trong kinh doanh. Bản thân việc sử dụng các yếu tố đầu
vào dưới dạng chi phí sử dụng tài nguyên đã là không xác định được trong
tính toán bằng tiền, độ phức tạp và thiếu chính xác còn lớn hơn nhiều vì nó
hàm chứa rất nhiều yếu tố chủ quan của con người (chi phí là chi phí tính
toán). Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người ngày càng đưa
chi phí tính toán tiếp cận đến gần chi phí kinh tế hơn. Hơn nữa, không chỉ
những chi phí trực tiếp trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới đem
lại kết quả cho doanh nghiệp, mà còn rất nhiều chi phí cho hoạt động xã hội
như: Giáo dục, cải tạo môi trường, sức khoẻ… có tác động không nhỏ tới kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các chi phí này rất khó tính toán được
trong quá trình xem xét hiệu quả kinh tế. Mặt khác, trong thực tế khi ra các
quyết định sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp thường hướng
vào mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên dẫn đến xu hướng chi phí biên cá nhân
(MPC) thấp hơn chi phí biên xã hội (MSC). Điều này dẫn đến sự tách biệt
giữa kết quả và hiệu quả cá biệt xã hội. Để rút ngắn sự tách biệt này, các biện
pháp can thiệp vĩ mô của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết. Cũng cần thấy rằng
khi doanh nghiệp ra quyết định sản xuất-kinh doanh theo hướng giảm chi phí
biên cá nhân so với chi phí biên xã hội sẽ tạo ra ảnh hưởng ngoại ứng đối với
các doanh nghiệp sản xuất khác cũng như đối với người tiêu dùng và trong
nhiều trường hợp cũng ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân doanh nghiệp với tư
cách là một thành viên trong đó.
5. Phân loại hiệu quả hoạt động sản xuất-kinh doanh
5.1 Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế

Về hiệu quả xã hội:
Hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực
sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định như: giải quyết
công ăn việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao phúc lợi xã hội, nâng cao
mức sống và đời sống cho người lao động, cải thịên điều kiện lao động, đảm
bảo vệ sinh môi trường…Hiệu quả xã hội thường gắn với các mô hình kinh tế
hỗn hợp và trước hết thường được đánh giá, giải quyết ở góc độ vĩ mô.
Về hiệu quả kinh tế:
Hiệu quả kinh tế là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực
để đạt được mục tiêu kinh tế ở một thời kỳ nào đó. Hiệu quả kinh tế thường
được nghiên cứu ở giác độ vĩ mô.
Nếu xét trên phạm vi từng khía cạnh, từng yếu tố, từng ngành thì chúng
ta có phạm trù hiệu quả kinh tế. Có thể hiểu hiệu quả kinh tế là hệ số giữa kết
quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Kết quả thu về đề cập
trong khái niệm này có thể là doanh thu, lợi nhuận, tổng sản phẩm công
nghiệp… Hiệu quả kinh tế thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào trong
quá trình sản xuất kinh doanh.
Giữa hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế và hiệu quả sản xuất-kinh doanh
mặc dù độc lập với nhau song chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ
sung cho nhau. Cụ thể từ hiệu quả sản xuất-kinh doanh có thể xác định hiệu
quả xã hội và hiệu quả kinh tế và ngược lại.
5.2. Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế-chính trị-xã hội.
Về hiệu quả kinh tế cá biệt:
Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả kinh tế thu được từ hoạt động sản
xuất-kinh doanh của từng doanh nghiệp, của từng thương vụ kinh doanh. Biểu
hiện chung của hiệu quả kinh tế cá biệt là doanh lợi mà mỗi doanh nghiệp đạt
được và đó chính là hiệu quả sản xuất-kinh doanh.
Về hiệu quả kinh tế-chính trị-xã hội:
Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì
có hai phạm trù: hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội. Hai phạm trù này phản

ánh ảnh hưởng của hoạt động sản xuất-kinh doanh đối với việc giải quyết
những yêu cầu và mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Và hai loại
hiệu quả này có vị trí quan trọng trong sự phát triển đất nước một cách toàn
diện và bền vững. Hiệu quả chính trị, xã hội phản ánh trình độ phát triển nền
kinh tế xã hội ở các mặt: trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản lý, mức sống
bình quân.
Hiệu quả kinh tế-chính trị-xã hội mà một thương vụ mang lại cho nền
kinh tế quốc dân là sự đóng góp của hoạt động sản xuất-kinh doanh vào việc
phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã
hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện
đời sống nhân dân…
Phải luôn có sự cân đối giữa hiệu quả kinh tế với hiêu quả chính trị và
xã hội. Đây là một nguyên tắc để phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia
một cách liên tục và lâu dài. Bất kỳ một sự mất cân đối nào sẽ dẫn đến những
hậu quả nghiêm trọng.

×