Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tài liệu Một số vấn đề về báo cáo tài chính hợp nhất trong mô hình công ty mẹ - con doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.65 KB, 10 trang )

Một số vấn đề về báo cáo tài chính hợp nhất trong mô hình công ty mẹ - con
Kidmandang
31-12-2007, 11:35 AM
Đệ tìm thấy một bài viết khá hay về BCTC hợp nhất - có một số người nói nó là ác mộng
của dân nhà kế, vậy chúng ta thử đọc và phân tích xem cái ác mộng này như thế nào ?/?, -
rất mong nhận được sự góp ý của các anh chị có kinh nghiệm :ibbanana::ibbanana:
Một số vấn đề về báo cáo tài chính hợp nhất trong mô hình công ty mẹ - con
Nhằm tập trung đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước,
đồng thời hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, làm nòng cốt cho khu vực kinh tế
nhà nước, ngày 8.5.2002 Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 2387/VPCP-ĐMDN cho
phép chuyển đổi thêm 09 doanh nghiệp từ doanh nghiệp nhà nước sang mô hình công ty
mẹ – con (Tập đoàn).
Như vậy, hiện nay đã có 21 doanh nghiệp nhà nước được thực hiện thí điểm hoạt động
theo mô hình công ty mẹ – con và một số doanh nghiệp đã đi vào hoạt động theo mô hình
này, tuy nhiên việc lập báo cáo tài chính hợp nhất cho mô hình này chưa được Nhà nước
hướng dẫn một cách cụ thể, điều này chắc chắn sẽ gây không ít khó khăn trong công tác
tài chính - kế toán của doanh nghiệp .
Trong khuôn khổ bài báo này, chúng tôi xin đề cập đến vấn đề về phạm vi và phương
pháp lập báo cáo tài chính hợp nhất. Báo cáo tài chính hợp nhất là báo cáo tài chính của
một tập đoàn (công ty mẹ và tất cả các công ty con), nhằm cung cấp những thông tin về
tình hình tài chính, kết quả kinh doanh và những biến động về tài chính của toàn tập
đoàn, giúp cho người sử dụng ra các quyết định kinh tế một cách kịp thời.
1. Phạm vi của báo cáo tài chính hợp nhất
Báo cáo tài chính hợp nhất bao gồm tất cả các công ty con do công ty mẹ kiểm soát. Ở
đây, kiểm soát được hiểu là quyền chi phối các chính sách tài chính và hoạt động của một
doanh nghiệp nhằm đạt được lợi ích từ các hoạt động đó. Quyền kiểm soát được cho là
tồn tại nếu công ty mẹ sở hữu hơn 50% quyền biểu quyết của một công ty con. Tuy
nhiên, quyền kiểm soát còn tồn tại ngay cả khi công ty mẹ sở hữu 50% hoặc ít hơn quyền
biểu quyết của một công ty con, nếu như công ty mẹ: có quyền chi phối chính sách tài
chính và hoạt động theo một quy chế hoặc thỏa thuận nào đó; có quyền bổ nhiệm hoặc
bãi nhiệm đa số các thành viên ban giám đốc; có quyền bỏ đa số phiếu tại cuộc họp của


ban giám đốc. Công ty mẹ khi lập báo cáo tài chính hợp nhất cần hợp nhất tất cả các công
ty con, kể cả các công ty con ở nước ngoài. Trong quá trình hợp nhất cần loại trừ những
công ty con nếu công ty mẹ chỉ có quyền kiểm soát tạm thời. Công ty mẹ hạch toán vốn
góp ở các công ty con này tương tự như hạch toán các khoản đầu tư .
2. Phương pháp lập báo cáo tài chính hợp nhất
Báo cáo tài chính hợp nhất được lập từ báo cáo tài chính của công ty mẹ và các công ty
con, nó được lập trên cơ sở kết hợp theo từng chỉ tiêu, cộng các chỉ tiêu lại với nhau theo
từng loại tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, thu nhập, chi phí.
Tuy nhiên, để báo cáo tài chính hợp nhất thể hiện những thông tin tài chính một cách đầy
đủ và đáng tin cậy, khi lập báo cáo tài chính hợp nhất chúng ta cần tiến hành loại trừ các
khoản sau đây:
(1) Trên bảng cân đối kế toán hợp nhất, loại trừ phần vốn kinh doanh của công ty mẹ cấp
cho công ty con (Tài khoản 136 – công ty mẹ) và phần nguồn vốn của công ty con nhận
vốn cấp của công ty mẹ (Tài khoản 411- công ty con ).
(2) Loại trừ phần các khoản đầu tư, cho vay, góp vốn liên doanh liên kết của công ty mẹ
(Tài khoản 128,228,222 – công ty mẹ) và phần nguồn vốn của các công ty con do nhận
các khoản đầu tư, cho vay, góp vốn liên doanh liên kết của công ty mẹ (Tài khoản
341,311,411- công ty con ) trên bảng cân đối kế toán hợp nhất .Nếu các công ty con có
phát sinh các khoản đầu tư, cho vay, góp vốn liên doanh liên kết với một đơn vị khác
trong cùng tập đoàn, thì cũng tiến hành loại trừ tương tự.
(3) Loại trừ phần số dư các tài khoản phải thu nội bộ (Tài khoản 136 8) và các khoản phải
trả nội bộ (338 8) trong cùng tập đoàn trên bảng cân đối kế toán hợp nhất .
(4) Loại trừ phần doanh thu bán hàng nội bộ và các khoản thu nhập khác phát sinh từ các
hoạt động giao dịch trong nội bộ tập đoàn trên báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất.
Doanh thu được ghi nhận trong báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất phải là doanh thu từ
bán hàng, thực hiện dịch vụ cho các cá nhân hoặc tổ chức khác ngoài tập đoàn .
Nếu doanh thu bán trong nội bộ của tập đoàn không được loại trừ thì báo cáo trên báo cáo
kết quả kinh doanh hợp nhất sẽ phản ánh không trung thực tình hình kinh doanh của tập
đoàn, hơn nữa sẽ dễ xảy ra tình trạng báo cáo tài chính được trình bày theo ý muốn chủ
quan .

° Khi loại trừ doanh thu bán hàng và giá vốn hàng bán nội bộ:
- Nếu vào thời điểm lập báo cáo, hàng hóa đã bán hết ra ngoài tập đoàn, thì loại bỏ doanh
thu bán hàng và giá vốn hàng bán nội bộ khi lập báo cáo kết quả kinh doanh. Trong
trường hợp này lợi nhuận thu được từ việc bán hàng là thực sự và chắc chắn.
- Nếu vào thời điểm lập báo cáo, hàng vẫn còn một số tồn kho,chưa bán hết ra ngoài tập
đoàn, thì ngoài việc loại bỏ doanh thu bán hàng và giá vốn hàng bán nội bộ khi lập báo
cáo kết quả kinh doanh hợp nhất, còn phải loại bỏ phần lợi nhuận chưa thực hiện liên
quan đến hàng tồn kho nói trên Lợi nhuận loại trừ = Giá trị hàng tồn kho x Tỉ lệ lãi gộp
do mua nội bộ của bên bán
Lợi nhuận loại trừ sẽ được cộng vào chỉ tiêu giá vốn trên báo cáo kết quả kinh doanh hợp
nhất, đồng thời trừ giá trị hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán hợp nhất.
° Loại trừ các khoản thu nhập và chi phí phát sinh từ các giao dịch (cung cấp dịch vụ, cho
vay…) Khi loại trừ những khoản này, tập đoàn cần công khai trên báo cáo tài chính hợp
nhất các khoản như : Doanh thu nội bộ, giá trị hàng tồn kho từ hoạt động mua bán hàng
nội bộ và tỉ lệ lãi gộp của bên bán .
Ngoài ra, để có được sự trung thực và đáng tin cậy trong báo cáo tài chính hợp nhất, công
ty mẹ và các công ty con cần sử dụng một chính sách kế toán thống nhất trong các giao
dịch cùng loại và những sự kiện trong những hoàn cảnh tương tự. Tuy nhiên, nếu không
thể sử dụng các chính sách kế toán thống nhất, thì phải giải trình và chỉ ra tỉ lệ của các
khoản mục được hạch toán theo các chính sách kế toán khác trên báo cáo tài chính hợp
nhất. Đồng thời các báo cáo tài chính của các công ty con phải được kiểm tra trước khi
tiến hành lập báo cáo tài chính hợp nhất.
Một số vấn đề về báo cáo tài chính hợp nhất trong mô hình công ty mẹ
- con
Nhằm tập trung đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời
hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, làm nòng cốt cho khu vực kinh tế nhà nước, ngày
8.5.2002 Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 2387/VPCP-ĐMDN cho phép chuyển đổi thêm
09 doanh nghiệp từ doanh nghiệp nhà nước sang mô hình công ty mẹ – con (Tập đoàn).
Như vậy, hiện nay đã có 21 doanh nghiệp nhà nước được thực hiện thí điểm hoạt động theo mô
hình công ty mẹ – con và một số doanh nghiệp đã đi vào hoạt động theo mô hình này, tuy nhiên

việc lập báo cáo tài chính hợp nhất cho mô hình này chưa được Nhà nước hướng dẫn một cách
cụ thể, điều này chắc chắn sẽ gây không ít khó khăn trong công tác tài chính - kế toán của doanh
nghiệp .
Trong khuôn khổ bài báo này, chúng tôi xin đề cập đến vấn đề về phạm vi và phương pháp lập
báo cáo tài chính hợp nhất. Báo cáo tài chính hợp nhất là báo cáo tài chính của một tập đoàn
(công ty mẹ và tất cả các công ty con), nhằm cung cấp những thông tin về tình hình tài chính, kết
quả kinh doanh và những biến động về tài chính của toàn tập đoàn, giúp cho người sử dụng ra
các quyết định kinh tế một cách kịp thời.
1. Phạm vi của báo cáo tài chính hợp nhất
Báo cáo tài chính hợp nhất bao gồm tất cả các công ty con do công ty mẹ kiểm soát. Ở đây, kiểm
soát được hiểu là quyền chi phối các chính sách tài chính và hoạt động của một doanh nghiệp
nhằm đạt được lợi ích từ các hoạt động đó. Quyền kiểm soát được cho là tồn tại nếu công ty mẹ
sở hữu hơn 50% quyền biểu quyết của một công ty con. Tuy nhiên, quyền kiểm soát còn tồn tại
ngay cả khi công ty mẹ sở hữu 50% hoặc ít hơn quyền biểu quyết của một công ty con, nếu như
công ty mẹ: có quyền chi phối chính sách tài chính và hoạt động theo một quy chế hoặc thỏa
thuận nào đó; có quyền bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm đa số các thành viên ban giám đốc; có quyền
bỏ đa số phiếu tại cuộc họp của ban giám đốc. Công ty mẹ khi lập báo cáo tài chính hợp nhất cần
hợp nhất tất cả các công ty con, kể cả các công ty con ở nước ngoài. Trong quá trình hợp nhất
cần loại trừ những công ty con nếu công ty mẹ chỉ có quyền kiểm soát tạm thời. Công ty mẹ hạch
toán vốn góp ở các công ty con này tương tự như hạch toán các khoản đầu tư .
2. Phương pháp lập báo cáo tài chính hợp nhất
Báo cáo tài chính hợp nhất được lập từ báo cáo tài chính của công ty mẹ và các công ty con, nó
được lập trên cơ sở kết hợp theo từng chỉ tiêu, cộng các chỉ tiêu lại với nhau theo từng loại tài
sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, thu nhập, chi phí.
Tuy nhiên, để báo cáo tài chính hợp nhất thể hiện những thông tin tài chính một cách đầy đủ và
đáng tin cậy, khi lập báo cáo tài chính hợp nhất chúng ta cần tiến hành loại trừ các khoản sau
đây:
(1) Trên bảng cân đối kế toán hợp nhất, loại trừ phần vốn kinh doanh của công ty mẹ cấp cho
công ty con (Tài khoản 136 – công ty mẹ) và phần nguồn vốn của công ty con nhận vốn cấp của
công ty mẹ (Tài khoản 411- công ty con ).

(2) Loại trừ phần các khoản đầu tư, cho vay, góp vốn liên doanh liên kết của công ty mẹ (Tài
khoản 128,228,222 – công ty mẹ) và phần nguồn vốn của các công ty con do nhận các khoản đầu
tư, cho vay, góp vốn liên doanh liên kết của công ty mẹ (Tài khoản 341,311,411- công ty con ) trên
bảng cân đối kế toán hợp nhất .Nếu các công ty con có phát sinh các khoản đầu tư, cho vay, góp
vốn liên doanh liên kết với một đơn vị khác trong cùng tập đoàn, thì cũng tiến hành loại trừ tương
tự.
(3) Loại trừ phần số dư các tài khoản phải thu nội bộ (Tài khoản 136 8) và các khoản phải trả nội
bộ (338 8) trong cùng tập đoàn trên bảng cân đối kế toán hợp nhất .
(4) Loại trừ phần doanh thu bán hàng nội bộ và các khoản thu nhập khác phát sinh từ các hoạt
động giao dịch trong nội bộ tập đoàn trên báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất. Doanh thu được
ghi nhận trong báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất phải là doanh thu từ bán hàng, thực hiện
dịch vụ cho các cá nhân hoặc tổ chức khác ngoài tập đoàn .
Nếu doanh thu bán trong nội bộ của tập đoàn không được loại trừ thì báo cáo trên báo cáo kết
quả kinh doanh hợp nhất sẽ phản ánh không trung thực tình hình kinh doanh của tập đoàn, hơn
nữa sẽ dễ xảy ra tình trạng báo cáo tài chính được trình bày theo ý muốn chủ quan .
° Khi loại trừ doanh thu bán hàng và giá vốn hàng bán nội bộ:
- Nếu vào thời điểm lập báo cáo, hàng hóa đã bán hết ra ngoài tập đoàn, thì loại bỏ doanh thu
bán hàng và giá vốn hàng bán nội bộ khi lập báo cáo kết quả kinh doanh. Trong trường hợp này
lợi nhuận thu được từ việc bán hàng là thực sự và chắc chắn.
- Nếu vào thời điểm lập báo cáo, hàng vẫn còn một số tồn kho,chưa bán hết ra ngoài tập đoàn,
thì ngoài việc loại bỏ doanh thu bán hàng và giá vốn hàng bán nội bộ khi lập báo cáo kết quả kinh
doanh hợp nhất, còn phải loại bỏ phần lợi nhuận chưa thực hiện liên quan đến hàng tồn kho nói
trên Lợi nhuận loại trừ = Giá trị hàng tồn kho x Tỉ lệ lãi gộp do mua nội bộ của bên bán
Lợi nhuận loại trừ sẽ được cộng vào chỉ tiêu giá vốn trên báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất,
đồng thời trừ giá trị hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán hợp nhất.
° Loại trừ các khoản thu nhập và chi phí phát sinh từ các giao dịch (cung cấp dịch vụ, cho vay…)
Khi loại trừ những khoản này, tập đoàn cần công khai trên báo cáo tài chính hợp nhất các khoản
như : Doanh thu nội bộ, giá trị hàng tồn kho từ hoạt động mua bán hàng nội bộ và tỉ lệ lãi gộp của
bên bán .
Ngoài ra, để có được sự trung thực và đáng tin cậy trong báo cáo tài chính hợp nhất, công ty mẹ

và các công ty con cần sử dụng một chính sách kế toán thống nhất trong các giao dịch cùng loại
và những sự kiện trong những hoàn cảnh tương tự. Tuy nhiên, nếu không thể sử dụng các chính
sách kế toán thống nhất, thì phải giải trình và chỉ ra tỉ lệ của các khoản mục được hạch toán theo
các chính sách kế toán khác trên báo cáo tài chính hợp nhất. Đồng thời các báo cáo tài chính của
các công ty con phải được kiểm tra trước khi tiến hành lập báo cáo tài chính hợp nhất.
(Theo TCKT)
Báo cáo tài chính hợp nhất của tập đoàn, tổng công ty: 3 cấp độ sai phạm

E-mail Bản để in Cỡ chữ Chia sẻ:
Ý kiến ( 0 )
Việc sửa các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhiều khi vì liên quan đến khoản vay của
các tổ chức tín dụng.
▪ ANH QUÂN
09:10 (GMT+7) - Thứ Hai, 23/3/2009

“Nhiều báo cáo được thực hiện dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo tập đoàn, tổng công ty,
dẫn tới sai lệch, không trung thực…”
“Nhiều báo cáo được thực hiện dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo tập đoàn, tổng công ty, dẫn
tới sai lệch, không trung thực…”
Ông Nguyễn Đức Tặng, Phó cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) nhấn mạnh
chi tiết này trong bài trình bày tại hội thảo xây dựng báo cáo tài chính hợp nhất cho các tập đoàn,
tổng công ty, do VCCI tổ chức ngày 20/3.
Tính cẩn trọng của cán bộ tài chính khiến ông Tặng phải dùng rất nhiều từ “khoảng” khi trình bày
số liệu về tình hình tổng doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách năm 2008 của các tập đoàn, tổng
công ty, cho dù một số báo cáo trước đó đã cho biết tổng doanh thu của 7 tập đoàn và 87 tổng
công ty nhà nước năm 2008 vào “khoảng” 1 triệu tỷ đồng; lợi nhuận đạt “khoảng” 125 nghìn tỷ
đồng và nộp ngân sách cũng “khoảng” 180 nghìn tỷ đồng.
Theo vị Phó cục trưởng, có ba cấp độ sai phạm trong công bố báo cái tài chính hợp nhất của các
tập đoàn, tổng công ty. Đó là sai lệch hoàn toàn so với tình hình thực tế, thiếu chính xác, và
chậm chễ trong báo cáo lên các cơ quan chức năng.

Ở cấp độ thứ nhất, ông Tặng nói nhiều báo cáo tài chính của tập đoàn, tổng công ty vì nhiều mục
đích khác nhau đã chịu tác động từ lãnh đạo của doanh nghiệp.
Một nguyên nhân nữa cũng được ông Tặng “kể tên” đó là việc sửa các báo cáo tài chính của các
doanh nghiệp nhiều khi vì liên quan đến khoản vay của các tổ chức tín dụng. Những “biến báo” là
nhằm mục đích “tô hồng” tình hình hoạt động của doanh nghiệp, giúp cho việc đánh giá triển
vọng trả nợ, lãi vay có được kết quả tốt hơn.
“Cho nên, nhiều doanh nghiệp liên tục báo cáo kinh doanh có lãi, bảo toàn được vốn Nhà nước,
nhưng đến lúc khó khăn mới bộc lộ tình hình bi đát, nhiều nơi mất hết vốn”, ông Tặng nói. Và dẫn
chứng được ông này đưa ra là trường hợp của Tổng công ty Muối, Tổng công ty Dâu tằm tơ.
Đối với những bản báo cáo tài chính hợp nhất có độ tin cậy không cao, ông Tặng nhấn mạnh đến
sự thiếu chính xác trong phản ánh vốn tài sản và tình hình hoạt động.
Khái quát những yếu tố dẫn tới “sai lệch” này là các nguyên nhân như không tính phần góp vốn
bằng thương hiệu, hay “lờ đi” phần vốn đầu tư vào các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, đầu tư ra bên ngoài… Có những trường hợp đã được xác định là tính trùng, tính sai.
“Nhiều bản báo cáo chưa đảm bảo chất lượng, không trung thực, và với rất nhiều thủ thuật kế
toán…”, ông Tặng nói.
Và một trong những “thủ thuật” được áp dụng khá phổ biến trong các doanh nghiệp hiện nay và
được “nêu tên”, đó là chuyển chi phí sang kỳ hạch toán sau để tăng lợi nhuận.
Bên lề hội thảo, một vị đại diện ban kiểm soát của một tập đoàn cũng nói với VnEconomy rằng
khi xem xét báo cáo tài chính của một số tập đoàn, tổng công ty, ông này dễ dàng nhận thấy
ngay những “điểm đen” không hợp lý trong các con số công bố.
Có một cách “lách luật” đối với yêu cầu minh bạch, được các tập đoàn, tổng công ty sử dụng khá
“nhuần nhuyễn” đó là tổng hợp báo cáo của tất cả các đơn vị trực thuộc để thành báo cáo hợp
nhất, bất chấp quy định phải sử dụng bút toán loại trừ đối với các khoản đầu tư, lợi nhuận… phát
sinh trong nội bộ tập đoàn, tổng công ty. Điều này gây nên tình trạng tính trùng, không phản ánh
chính xác hoạt động của tập đoàn, tổng công ty.
Khi mà các tập đoàn, tổng công ty “bành trướng” về cả quy mô và lĩnh vực hoạt động, việc đưa
ra các báo cáo tài chính cũng phức tạp hơn. Và những bản báo cáo tài chính hợp nhất dường
như lại được “che đậy” kỹ hơn.
Ông Tặng cho biết, mặc dù có chức năng nhận báo cáo tài chính của các tập đoàn, tổng công ty

để báo cáo tình hình lên Chính phủ và gợi ý chính sách, thế nhưng bản thân cơ quan ông cũng
không nhận được đầy đủ các báo cáo này.
“Kể cả báo cáo tài chính năm 2007 đến giờ vẫn chưa nhận đủ chứ đừng nói là báo cáo 2008.
Đấy là chưa nói đến chất lượng và tính chính xác của các bản báo cáo”, ông Tặng nhấn mạnh
khi nhắc đến vấn đề này trước đại diện ban kiểm soát, kế toán tài chính của các tập đoàn, tổng
công ty.
Thực trạng công tác lập Báo cáo tài chính hợp nhất tại các tập đòan
kinh tế VN
Thực trạng công tác lập Báo cáo tài chính hợp nhất tại các tập
đòan kinh tế VN
Trong xu hướng phát triển rộng rãi của nền kinh tế thế giới, sự hội
nhập kinh tế quốc tế đang là trào lưu ở hầu hết các quốc gia. Kết
quả tất yếu của quá trình hội nhập là hình thành các cty đa quốc
gia, các công ty mẹ con có sự kiểm soát lẫn nhau. Ở VN sự hình
thành các tổng công ty mẹ con mang những nét đặc thù riêng bởi nó được xuất hiện chủ
yếu là từ việc chuyển đổi và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, tổng công ty nhà
nước- một phương thức chủ yếu từ những năm 90 của thế kỷ XX
khi Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 91/TTg sang Tổng công ty hoạt động
theo mô hình công ty mẹ con. Đặc điểm chung của công ty mẹ con này là: Công ty mẹ
đều là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoặc có tỷ lệ vốn góp chi phối, các công ty con
có thể là doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần có chi phối của nhà nước, công ty
TNHH một thành viên, công ty TNHH từ hai thành viên trở lên có hơn 50% vốn nhà
nước. Sự liên kết kinh tế, tài chính, công nghệ của một nhóm các công ty mẹ- con này với
nhau tạo thành một tập đòan kinh tế.
Với bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay đang vận hành theo cơ chế thị trường và trong
xu thế hội nhập, cạnh tranh diễn ra ngày càng quyết liệt hơn. Do hạn chế về khả năng và
nguồn lực, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế buộc phải hợp tác với nhau trong quá
trình điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như nghiên cứu phát triển mở rộng
theo chiều rộng và chiều sâu. Trong đó, một hình thức hợp tác được các đơn vị doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế ưa thích hiện nay là hợp nhất kinh doanh, nó giúp các đơn vị mở

rộng được quy mô, giảm đối thủ cạnh tranh, đa dạng hóa ngành nghề, mở rộng thị
trường…Khi đó yêu cầu đặt ra với các tập đoàn kinh tế là phải có được bức tranh tòan
cảnh về tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một tổng thể hợp
nhất. Hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất là kết quả của quy trình hợp nhất các báo cáo
tài chính, là phương tiện hữu ích để cung cấp thông tin cho các đối tượng liên quan.
Báo cáo tài chính hợp nhất tổng hợp và trình bày một cách tổng quát toàn diện tình hình
tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu ở thời điểm kết thúc năm tài chính, tình hình và
kết quả hoạt động kinh doanh năm tài chính của tập đoàn như một doanh nghiệp độc lập
không tính đến ranh giới pháp lý của các công ty mẹ- con riêng biệt.
Báo cáo tài chính hợp nhất có ý nghĩa và tác dụng quan trọng đối với những đối tượng sử
dụng thông tin kế toán về một tập đoàn. Việc loại trừ ảnh hưởng của các giao dịch nội tập
đoàn giúp người sử dụng thông tin kế toán đánh giá chính xác hơn về thực trạng tài chính,
tình hình và kết quả hoạt động của toàn bộ nhóm công ty với tư cách một thực thể kinh tế
duy nhất hoạt động dưới sự kiểm soát của công ty mẹ.
Đối với các nhà quản lý công ty mẹ- những người chịu trách nhiệm kiểm soát nguồn lực
và hoạt động của nhóm công ty có thể ra quyết định có liên quan đến hoạt động của tập
đoàn; các cổ đông hiện tại và tương lai của công ty mẹ, những người quan tâm đến khả
năng sinh lời của mọi hoạt động mà công ty mẹ kiểm soát có thể ra quyết định đầu tư, các
chủ nợ của công ty mẹ có thể sử dụng thông tin hợp nhất để đánh giá sự ảnh hưởng của
các hoạt động ở công ty con do công ty mẹ kiểm soát đến khả năng trả nợ của công ty mẹ.
Báo cáo tài chính hợp nhất còn giúp các đối tượng khác nhau như những người phân tích
tài chính, tư vấn chứng khoán có thêm thông tin chính xác để hoạt động tốt hơn trong lĩnh
vực của mình.
Báo cáo tài chính hợp nhất có vai trò quan trọng như vậy nên việc tổ chức thực hiện lập
báo cáo tài chính hợp nhất tại các tập đòan kinh tế là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên hiện
nay đa số các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty ở VN vẫn chưa triển khai thực hiện hoặc
áp dụng chưa triệt để việc lập báo cáo tài chính hợp nhất theo đúng chuẩn mực kế toán số
25: “Báo cáo tài chính hợp nhất và các khoản đầu tư công ty con” ngày 30 tháng 12 năm
2003 và thông tư hướng dẫn số 23/2005/TT-BTC ngày 30 tháng 3 năm 2005. Những lí do
chính có thể kể đến khi các tập đòan chưa thực hiện thành công việc lập báo cáo tài chính

hợp nhất là:
Thứ nhất, do chuẩn mực kế toán VN (VAS) và các chuẩn mực liên quan khác còn nhiều
vấn đề khó áp dụng, thiếu tính cụ thể.
Thứ hai, do mô hình tập đoàn kinh tế ở nước ta rất phức tạp, tồn tại trường hợp các công
ty mẹ con đầu tư lẫn nhau theo kiểu vòng tròn, các giao dịch mua bán cũng diễn ra chồng
chéo mà khung pháp lý về hợp nhất BCTC hiện nay chưa đáp ứng được mô hình này nên
rất khó khăn cho tập đoàn trong việc loại trừ và điều chỉnh các chỉ tiêu về công nợ, vốn,
doanh thu, giá vốn, lợi nhuận…trên báo cáo tài chính hợp nhất.
Thứ ba, có rất nhiều tập đòan kinh tế nước ta có quy mô quá lớn, các đơn vị thành viên lên
tới hàng trăm, hàng nghìn. Các công ty con trực thuộc tập đoàn lại phân cấp thành nhiều
công ty con cấp dưới, do vậy phải hợp nhất báo cáo tài chính ở nhiều cấp. Mặt khác các
đơn vị thành viên trong cùng một tập đoàn có nhiều ngành nghề sản xuất kinh doanh
phong phú đa dạng, mỗi đơn vị thành viên có tới hàng nghìn mặt hàng khác nhau dẫn tới
các đặc điểm kinh tế, các chỉ tiêu chính sách kế toán không thống nhất, phương pháp kế
toán áp dụng cũng khác nhau. Chính vì vậy việc tổng hợp thông tin từ các báo cáo tài
chính của các công ty con rất phức tạp và mất nhiều thời gian.
Thứ tư, nhìn chung đội ngũ kế toán của các công ty mẹ và công ty con còn nhiều hạn chế
về chuyên môn năng lực, chưa có điều kiện để nâng cao kỹ năng nghiệp vụ hay cập nhật
thông tin mới, chế độ mới. Công tác tổ chức kế toán còn thiếu tính đồng bộ, chuyên môn
hóa chưa cao do vậy chưa thể đáp ứng một cách hoàn hảo khi giải quyết những vấn đề
phức tạp nêu trên để hòan thành hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất.
Với những lý do chủ yếu nêu trên có thể đánh giá khái quát thực trạng công tác lập BCTC
hợp nhất ở các tập đoàn kinh tế VN hiện nay còn nhiều thiếu sót, việc loại trừ các giao
dịch nội bộ thể hiện qua các khoản công nợ, doanh thu, chi phí, lãi lỗ chưa triệt để do vậy
BCTC hợp nhất không chính xác không thể hiện một cách trung thực thực trạng tài chính
của tập đoàn. Điều này sẽ là khó khăn cho một số đối tượng liên quan như các nhà đầu tư,
các tổ chức ngân hàng, tín dụng, chứng khoán…khi đánh giá và đưa ra quyết định chính
xác.
Tapchiketoan










×