Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tài liệu Tư duy mới về giai cấp công nhân pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.16 KB, 13 trang )

Tư duy mới về giai cấp công nhân chính là làm rõ khả năng và yêu cầu của giai cấp công
nhân hiện đại; đồng thời, khẳng định tính trí tuệ, tính hiện đại của chính đảng giai cấp
công nhân. Trên cơ sở nhận thức đúng bản chất và xu thế phát triển của giai cấp công
nhân Việt Nam ngày nay, Đảng có chủ trương thích hợp để tiếp tục nâng cao chất lượng
giai cấp công nhân, bảo đảm cho họ xứng đáng với vai trò lãnh đạo trên con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội hiện đại.
1 - Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu sự hình thành và phát triển
của chủ nghĩa tư bản, C. Mác đã phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp công nhân
trong cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng chế độ xã hội
mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.Trong cuộc đấu tranh cách mạng
vì sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân chuyển từ giai cấp "tự mình" thành giai cấp "vì
mình", phong trào công nhân phát triển từ tự phát đến tự giác khi tổ chức ra đội tiên
phong của mình - các Đảng Cộng sản (có thể với những tên gọi khác nhau ở những nước
khác nhau, đôi khi ngay trong một nước).
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga đầu thế kỷ XX đã mở ra thời đại quá
độ của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tiếp đó là sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới vào giữa thế kỷ XX. Hệ
thống này đã ảnh hưởng tích cực đến đời sống nhân loại trong nhiều thập niên sau. Điều
đó chứng minh cho phát hiện đúng đắn của C.Mác về vai trò lịch sử của giai cấp công
nhân. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XX, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước và sự
thoái trào của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã dẫn đến việc xét lại vai trò lịch
sử của giai cấp công nhân và thời đại quá độ của xã hội loài người lên chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản.
Tôi cho rằng, trong tình hình hiện nay, chúng ta cần tiếp tục khẳng định luận điểm của
C.Mác về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, nhưng cũng cần có tư duy mới về giai
cấp công nhân. Bởi vì, trong mấy trăm năm, kể từ khi giai cấp công nhân ra đời đến nay,
xã hội loài người trải qua biết bao biến cố to lớn, cả những bước ngoặt có tính thời đại,
như Cách mạng Tháng Mười Nga và sự phát triển của văn minh nhân loại từ văn minh
công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Chủ nghĩa tư bản không còn là chủ nghĩa tư bản cổ
điển mà đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản hiện đại. Giai cấp công
nhân cũng thay đổi rất nhiều, khác hẳn giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX, từng được


Ph.Ăng-ghen mô tả trong tác phẩm "Tình cảnh giai cấp công nhân Anh".
Như chúng ta đã biết, những luận điểm của C. Mác về giai cấp công nhân được đưa ra
trong điều kiện của văn minh công nghiệp. Những thành tựu mới của cách mạng khoa
học - công nghệ hiện đại từ giữa thế kỷ XX, tiếp đó là cuộc cách mạng tin học, đã dần
dần đưa nhân loại từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ, đánh dấu bước phát
triển nhảy vọt chưa từng có của lực lượng sản xuất trong lịch sử nhân loại. Do vậy, tư
duy mới về giai cấp công nhân phải là tư duy về giai cấp công nhân trong điều kiện của
văn minh trí tuệ.
Quan điểm xuất phát nêu trên có căn cứ khoa học từ chủ nghĩa Mác hay thuộc loại quan
điểm tư sản "duy lực lượng sản xuất"? Ai cũng biết, luận điểm của C. Mác về sự gắn bó
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất khác hẳn luận điểm còn phiến diện trước đó
chỉ thấy hoặc nhấn mạnh một chiều vai trò của lực lượng sản xuất. C.Mác luôn luôn
khẳng định vai trò quyết định của lực lượng sản xuất trong mối quan hệ với quan hệ sản
xuất. Ông cho rằng, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế
- xã hội khác nhất thiết phải trải qua đấu tranh cách mạng của những giai cấp cách mạng,
nhưng nhân tố quyết định nhất vẫn là bước nhảy vọt mới về chất của lực lượng sản xuất.
Ông từng nói đại ý: máy hơi nước đẻ ra nhà tư bản. Nhân đây tôi muốn nói thêm, sự sụp
đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do nhiều nguyên nhân trực
tiếp, nhưng nguồn gốc sâu xa là sự lạc hậu, bất cập của chủ nghĩa xã hội mô hình cũ và
của ban lãnh đạo ở các nước này trước sự phát triển mới của văn minh nhân loại.
2 - Những thành tựu của chủ nghĩa tư bản, nhất là của chủ nghĩa tư bản hiện đại,
gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất từ văn minh nông nghiệp sang văn
minh công nghiệp, rồi từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Đến nay,
những thành tựu đó đã làm thay đổi rất nhiều chế độ tư bản, giai cấp tư sản, giai cấp công
nhân và các tầng lớp dân cư trong hầu hết các quốc gia - dân tộc.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ dần
dần làm thay đổi căn bản cơ cấu các ngành nghề kinh tế - kỹ thuật, và từ đó, hình thành
dần một giai cấp công nhân mới, rõ nhất là ở các nước tư bản phát triển. Cơ cấu GDP của
các nước tư bản phát triển không còn như trước đây, mà đã thay đổi hẳn theo hướng:
ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng ngày càng lớn, đến 60%, ngành công nghiệp chế tạo chiếm

khoảng 30% - 40%, ngành nông nghiệp chỉ chiếm 2%. Về cơ cấu giai cấp công nhân, từ
năm 1961 đến năm 1968, ở Anh, công nhân công nghiệp giảm 44%, ở Pháp giảm 30%, ở
Thụy Sĩ giảm 24%, ở Cộng hòa liên bang Đức giảm 18% (1).
Nói đến giai cấp công nhân trước đây, chúng ta thường nghĩ nhiều đến những người lao
động chân tay hơn là những người lao động trí óc; chủ yếu nói đến công nhân "áo xanh",
ít nói đến công nhân "áo vàng" (kỹ thuật viên); còn công nhân "áo trắng" hay "công nhân
cổ cồn" (kỹ sư) thì cho rằng, họ thuộc tầng lớp công nhân quý tộc, gắn bó chặt chẽ với
giai cấp tư sản và là cơ sở xã hội của chủ nghĩa cải lương trong phong trào công nhân.
Ngày nay, đã xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều lực lượng công nhân được trí thức
hóa, những công nhân "áo vàng" và công nhân "áo trắng", trong khi lực lượng công nhân
"áo xanh" ngày càng giảm dần, như ở Mỹ, năm 2000 chỉ còn 10%. ở một số nước, công
nhân có trình độ đại học chiếm đến 80%.
Ngày nay, những thành tựu của cách mạng tin học - tin học hóa đã mở rộng ra phạm vi
toàn cầu và dẫn đến sự ra đời của "internet hóa". Điều quan trọng là, những thành tựu của
cách mạng tin học ngày càng xâm nhập sâu vào mọi hoạt động của đời sống xã hội, nhất
là trong sản xuất, kinh doanh, làm hình thành dần kinh tế tri thức. Những thành tựu đó
đánh dấu một giai đoạn mới của cách mạng tin học và bắt đầu mở ra kỷ nguyên thông tin.
Vai trò của khoa học - công nghệ, của lao động trí óc đối với phát triển kinh tế, xã hội
ngày càng tăng; khoa học - công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
đúng như tiên đoán của C.Mác.
Tình hình đó khiến cho một số nhà tư tưởng tư sản vội đưa ra luận điểm "quyền lực thuộc
về trí tuệ" để che đậy bản chất của vấn đề. Thực chất, quyền lực vẫn thuộc về tư bản. Vì
vậy, cần nhắc lại: nói đổi mới tư duy về giai cấp công nhân, nói về giai cấp công nhân
trong điều kiện của văn minh trí tuệ, chính là nhằm làm rõ khả năng và yêu cầu của giai
cấp công nhân hiện đại trong sứ mệnh lịch sử xóa bỏ và vượt qua chủ nghĩa tư bản hiện
đại, thiết lập chủ nghĩa xã hội hiện đại. Như vậy, tư duy mới về giai cấp công nhân hiện
đại gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại.
Nói về giai cấp công nhân trong điều kiện của văn minh trí tuệ chính là làm rõ khả năng
và yêu cầu của giai cấp công nhân hiện đại trong sứ mệnh lịch sử xóa bỏ và vượt qua chủ
nghĩa tư bản hiện đại, thiết lập chủ nghĩa xã hội hiện đại. Trong thời đại ngày nay, bản

chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn chỉ có thể là bản chất giai cấp của giai cấp công
nhân; cơ sở chính trị - xã hội của Đảng Cộng sản phải là giai cấp công nhân trong quá
trình phát triển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; tư duy mới về giai cấp
công nhân phải gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại.
Đương nhiên, vẫn có sự phát triển không đều giữa các nền kinh tế của các nước. Xét về
tổng thể, loài người vẫn đang quá độ từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ,
nghĩa là quá trình công nghiệp hóa còn đang diễn ra. Ở các nước phát triển, đã kết thúc
giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển, chuyển sang giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và
tiếp cận ngày càng sâu văn minh trí tuệ (có thể hay không coi quá trình kết thúc của công
nghiệp hóa hiện đại cũng là sự khởi đầu của văn minh trí tuệ). Còn ở những nước chậm
và đang phát triển, quá trình công nghiệp hóa diễn ra có phần còn trong giai đoạn công
nghiệp hóa cổ điển, đồng thời tiếp cận dần giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và một số
thành tựu của kỷ nguyên tin học, của văn minh trí tuệ. Tất nhiên, cơ cấu các ngành nghề
kinh tế - kỹ thuật và tình hình giai cấp công nhân ở những nước này không giống ở
những nước phát triển.
Ở nước ta, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, qua mấy chục năm xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành chiến tranh giành độc lập hoàn toàn, thống
nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cả nước, nền kinh tế căn bản vẫn là một
nền kinh tế nông nghiệp, nhiều phần lạc hậu, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội có được xây dựng bước đầu nhưng chưa được bao nhiêu. Trong sự nghiệp đổi mới,
sau khi thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Theo chủ trương của
Đảng, đến năm 2020, nước ta mới căn bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại.
Xét về quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, nước ta còn đang trong cuộc cách
mạng công nghiệp, có phần còn ở giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển, nhưng cố gắng "đi
tắt, đón đầu", tiến vào giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và tiếp cận kỷ nguyên thông
tin, bước đầu xây dựng kinh tế tri thức. Cơ cấu ngành nghề kinh tế - kỹ thuật dần dần có
sự chuyển đổi theo hướng: tăng dần dịch vụ và công nghiệp, thu hẹp dần nông nghiệp.
Hiện nay, lao động nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP cả nước; đến năm 2020, có

thể giảm xuống còn 10% (đương nhiên, giá trị tuyệt đối vẫn tăng), có nghĩa là khi đó dịch
vụ và công nghiệp có thể lên tới 80% - 90%(2). Điểm đáng chú ý là, những thành tựu của
cách mạng tin học đang xâm nhập nhiều vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nhất là các lĩnh
vực bưu chính - viễn thông, ngân hàng, hàng không, nông nghiệp, dịch vụ. Công nghệ
thông tin đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng hằng năm vào
loại cao nhất và đóng góp ngày càng nhiều vào GDP cả nước. Từ đó, dần dần hình thành
một cơ cấu đội ngũ lao động và công nhân mới ở nước ta.
Nghiên cứu sự phát triển của cách mạng tin học, của lao động trí óc trong điều kiện của
kỷ nguyên thông tin, của kinh tế tri thức, đã có ý kiến về sự xuất hiện những "công nhân
tri thức" (knowledge labour) trong văn minh trí tuệ và phân biệt những công nhân này với
những "công nhân trí thức" (intellectual labour) trong văn minh công nghiệp (3). Có lẽ
nên dịch "knowledge labour" là "lao động tri thức", còn "intellectual labour" là "lao động
trí óc". Sự phân biệt giữa "công nhân tri thức" và "công nhân trí thức" có thể làm rõ sự
phát triển mới của công nhân trong kinh tế tri thức. Nhưng có lẽ cả "lao động tri thức",
"lao động trí óc", cùng một bộ phận tầng lớp trí thức gia nhập hàng ngũ giai cấp công
nhân và bộ phận lao động chân tay (còn chiếm tỷ trọng lớn, nhất là ở nông thôn) dần dần
được đào tạo theo yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ ngày càng phát triển
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận cách mạng thông tin. Tất cả các
lực lượng lao động đó hợp thành một quá trình lịch sử trí thức hóa giai cấp công nhân,
đưa giai cấp công nhân ở nước ta từng bước trở thành giai cấp công nhân của văn minh
trí tuệ. Đó cũng là quá trình "trí thức hóa công nông" và "công nông hóa trí thức", như dự
đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3 - Trong "Phê phán Cương lĩnh Gô-ta", C. Mác đã đưa ra luận điểm: một khi lao
động được giải phóng thì tất cả mọi người đều trở thành công nhân. Chắc ai cũng
hiểu, nói lao động được giải phóng ở đây, trước hết là được giải phóng khỏi áp bức, bóc
lột. Nhưng tôi nghĩ, nên hiểu thêm là, được giải phóng khỏi lao động cơ bắp, nặng nhọc,
chuyển dần sang lao động trí óc là chính; cả hai công cuộc giải phóng đó phải hỗ trợ và
tạo điều kiện cho nhau, thống nhất với nhau. Đó chính là sự thống nhất và tác động qua
lại một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà lực lượng sản
xuất là yếu tố quyết định. Như vậy cũng có nghĩa là, khi ấy giai cấp công nhân sẽ không

còn tồn tại như một giai cấp riêng nữa, mà dần dần hòa mình vào dân tộc trong một hình
thái kinh tế - xã hội mới thay thế chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Quá trình giải phóng lao động, tiến tới "tất cả mọi người đều trở thành công nhân" đang
diễn ra từng bước ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, cuối cùng cũng phải trải qua
đấu tranh cách mạng dưới hình thức này hay hình thức khác. Quá trình đó cũng đang diễn
ra ở nhiều nước đang phát triển như nước ta, khi biết tiếp cận nhanh chóng những thành
tựu mới nhất của khoa học - công nghệ, phát triển kinh tế tri thức trong văn minh trí tuệ,
gắn liền với việc xử lý đúng đắn những vấn đề về quan hệ sản xuất, hướng tới một xã hội
tốt đẹp hơn.
4 - Giai cấp cách mạng muốn trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng thì, về mặt khách
quan, phải đại biểu cho phương thức sản xuất mới, và về mặt chủ quan, phải tổ chức ra
đội tiên phong - chính đảng, của giai cấp mình. Đội tiên phong của giai cấp phải là bộ
phận trí tuệ nhất, tiêu biểu cho trí tuệ của giai cấp và thời đại. Điều đó đúng với các giai
cấp cách mạng trước đây cũng như với giai cấp công nhân ngày nay. Cần lưu ý thêm,
điều đó dễ dẫn đến sự ngộ nhận rằng, lãnh đạo cách mạng phải là các tầng lớp trí thức
chứ không phải là các giai cấp cách mạng trong lịch sử. ở đây không nói đến động cơ
chính trị của những người muốn cắm "tấm biển chỉ đường của trí tuệ" để bác bỏ vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, phủ nhận yêu cầu trí tuệ của đội tiên phong
là rất sai lầm. Đội tiên phong - chính đảng của giai cấp cách mạng, là bộ phận lao động trí
thức đặc biệt của giai cấp đó chứ không phải là tầng lớp trí thức nói chung trong xã hội.
Đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại nhất thiết phải là bộ phận trí tuệ nhất của
giai cấp, của thời đại mới. Phải tiếp cận những thành tựu mới nhất của văn minh nhân
loại, kết hợp với sự phân tích khoa học, trên cơ sở của phép biện chứng mác-xít, những
điều kiện của thế giới ngày nay đang chịu sự tác động của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Từ
đó, đề ra cương lĩnh, chiến lược, sách lược phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của quốc gia -
dân tộc để từng bước tìm con đường giải phóng, vượt qua chủ nghĩa tư bản hiện đại, xây
dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại.
Trong thời đại ngày nay, bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn chỉ có thể là bản chất
giai cấp của giai cấp công nhân; cơ sở chính trị - xã hội chủ yếu của Đảng Cộng sản phải
là giai cấp công nhân trong quá trình phát triển từ văn minh công nghiệp sang văn minh

trí tuệ; tư duy mới về giai cấp công nhân phải gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội
hiện đại. Có thể nói, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự lạc hậu, bất cập
trước đây của Đảng Cộng sản ở một số nước tư bản phát triển là do không nhận thức
được điều này. Bởi vậy, ở đó, Đảng Cộng sản dần dần mất cơ sở chính trị - xã hội cần có
của mình, gắn liền với những cương lĩnh ngày càng xa rời cuộc sống. Giai cấp công nhân
hiện đại, nhân dân lao động không thấy được con đường đi tới một xã hội tốt đẹp hơn, mà
đôi khi mất phương hướng và dường như kỳ vọng vào một tương lai nào đó trong lòng
chủ nghĩa tư bản hiện đại, khi ở đó xuất hiện và phát triển dần một số yếu tố của xã hội
mới, nhưng đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại đã không nhận ra để làm sinh
sôi nảy nở.
Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, là Đảng của giai
cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Bởi nhiều lẽ: Đảng là con đẻ của hai phong trào:
phong trào công nhân và phong trào yêu nước (chứ không chỉ là con đẻ của phong trào
công nhân như ở những nước tư bản). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó đặt nhiệm vụ
dân tộc lên trên và lên trước, coi nhiệm vụ dân tộc là tiền đề, điều kiện tiên quyết và là cơ
sở để hoàn thành nhiệm vụ giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo cách mạng xã
hội chủ nghĩa, Đảng động viên sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân, coi cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ là nhiệm vụ giai cấp mà còn là nhiệm vụ
dân tộc, định hướng cho nhiệm vụ dân tộc, bảo đảm độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc
triệt để, đưa dân tộc bỏ qua thời đại dân tộc tư sản, tiến vào thời đại dân tộc xã hội chủ
nghĩa.
Là Đảng của giai cấp công nhân, trước hết Đảng phải hiểu giai cấp công nhân và dựa vào
giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay đã thay đổi rất nhiều (như
trên đã phân tích), đang phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, phát triển trong sự
phân hóa thường xuyên - một sự phân hóa tích cực. Đó là sự phân hóa trong cơ cấu ngành
nghề kinh tế - kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất; trong cơ cấu thành phần kinh tế,
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất; trong phân công lao động xã
hội.
Nhận thức đúng bản chất và xu thế phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay,

trên cơ sở đó, có chủ trương, chính sách thích hợp để tiếp tục mở rộng đội ngũ và nâng
cao chất lượng giai cấp công nhân, khiến cho nó xứng đáng với vai trò lãnh đạo trên con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện đại, đó là yêu cầu đầu tiên và cũng là quan trọng nhất
của đội tiên phong. Chúng ta thường nói, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp của
giai cấp công nhân. Vậy bản chất đó là gì? Nó có phải là cái gì trừu tượng và bất biến
không? Hay phải có những nội dung và yêu cầu cụ thể nhằm thể hiện bản chất đó? Trong
bản chất đó, cái gì không thể thay đổi và cái gì cần phải phát triển? Không thể nói giữ
vững và tăng cường được bản chất của giai cấp công nhân khi không hoàn thành những
nhiệm vụ chính trị, kinh tế có tính chất thực tiễn cách mạng của nó.
Là Đảng của dân tộc, Đảng phải hiểu sâu sắc dân tộc mình, từ quá khứ, hiện tại đến
tương lai, cũng như lịch sử, đất nước, con người và đặc biệt là bản sắc văn hóa, bởi bản
sắc văn hóa là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc. Đảng phải tổ chức, động viên và
phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, của tất cả các dân tộc họp thành đại gia đình
các dân tộc Việt Nam. Phải đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội, tìm tòi, thể nghiệm con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại
mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chủ nghĩa xã hội phải được
ăn sâu, bám rễ trong lòng dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam đi vào thời đại dân tộc xã hội
chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp, quốc gia và quốc tế trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày càng đi sâu vào toàn
cầu hóa tư bản chủ nghĩa.
Là Đảng cầm quyền, Đảng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân.
(1). Dẫn theo: TS Hồ Châu: “Bước thoái trào của phong trào công nhân ở các nước tư
bản phát triển - nguyên nhân và bài học”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 9-2004
(2). Xem thêm: Đỗ Quốc Sam: “Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Tạp chí
Cộng sản, số 11, tháng 6-2006, tr 13
(3). Văn Tạo: “Đảng tạo mọi điều kiện để công nhân Việt Nam tiến nhanh trong nền kinh
tế tri thức”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-2006
Ngày gửi: 19/03/2008 - 19:01

Lần sửa cuối cùng: 19/03/2008 - 19:03
Báo cáo vi phạm Trích dẫn
Câu trả lời này có ích với bạn không? Có (0) Không (0)
Bạn được cộng 5 điểm cho trả lời này
gaupeo
Một lần nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “Giai cấp công nhân nước ta có sứ
mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng
cộng sản VN, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, giai cấp tiên phong
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong công nghiệp hoá,hiện
đại hoá đất nước ’’ (Nghị quyết số 20 NQ/TW ngày 28/1/2008 Hội nghị lần thứ 6
BCHTW Đảng(Khoá X)
Sau hơn 20 năm đổi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra được Nghị quyết khá toàn diện
về giai cấp công nhân. Trong những năm qua, trước diễn biến của tình hình thế giới và sự
phát triển kinh tế xã hội trong nước theo cơ chế mới-cơ chế kinh tế thị trường, định
hướng XHCN đã có nhiều cuộc bàn thảo, nhiều ý kiến chung quanh vấn đề giai cấp công
nhân trong cơ chế thị trường. Nhiều cuộc điều tra thực tiễn, nhiều báo cáo Khoa học,
nhiều cuộc thăm dò xã hội….đã đặt ra những vấn đề của công nhân như việc làm, đào tạo
nghề,tiền lương, đời sống, nhà ở, ý thức chính trị, rồi một số bị bóc lột sức lao động, đình
công,bãi công, thất nghiệp do doanh nghiệp phá sản và sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà
nước. Những vấn đề này, trước đây khi còn cơ chế cũ không hề có…Từ đó không ít ý
kiến cho rằng:Vậy trong kinh tế cơ chế thị trường,giai cấp công nhân Việt Nam còn là
giai cấp tiên phong không? còn là giai cấp lãnh đạo không? và họ rất mong chờ Đảng ta
sớm có Nghị quyết chủ trương, chính sách mới về giai cấp công nhân vì tình hình đất
nước trong đó công nghiệp phát triển rất nhanh và mạnh, đội ngũ công nhân ngày càng
lớn(Đến nay khoảng 9,7 triệu công nhân).
Vì vậy trước đòi hỏi của thực tiễn, ngày 28 tháng 1 năm 2008,Hội nghị lần thứ 6, Ban
chấp hành Trung ương Đảng(Khoá X) ra nghị quyết “Tiếp tục xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước”là phù hợp, là
chín muồi đúng thời điểm của tình hình, thực tiễn đòi hỏi. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho
rằng nếu Trung ương ra được Nghị quyết về giai cấp công nhân sớm hơn thì sẽ sớm định

hướng chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân trong tình hình mới, giảm được tình
hình bức xúc của công nhân trong lao động,sản xuất và đời sống.
Nhìn lại lịch sử, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ đầu thế kỷ 20. Trải qua hơn 100
năm, giai cấp công nhân Việt Nam,dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã trưởng thành và lớn mạnh không ngừng cả về số lượng và chất
lượng, thực sự là giai cấp tiên phong, lãnh đạo cách mạng, góp phần rất to lớn vào sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, giành được những thắng lợi vĩ đại trong cách
mạng dân tộc dân chủ, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và trong sự
nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Đánh giá về giai cấp công nhân sau hơn 20 năm đổi
mới,trong Nghị Quyết Hội Nghị TW 6 Đảng ta khẳng định: “Qua hơn 20 năm đổi
mới,cùng với quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước,giai cấp công nhân nước ta
đã có những chuyển biến quan trọng,tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất
lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức, đang
tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản
Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong
sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, có nhiều cố gắng để phát huy
vai trò lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Phải nói rằng, hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới,thay đổi lớn nhất về kinh tế ở
nước ta là thay đổi cục diện về cơ cấu.Từ một một nước là nông nghiệp là chủ yếu, chúng
ta đang chuyển dần sang nước công nghiệp hiện đại. Nhiều trung tâm công nghiệp lớn
hơn với hàng trăm khu công nghiệp, khu chế xuất ở Hà Nội,Thành phố Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng, Hải Phòng, Bà Rịa- Vũng Tàu, Long An,Vĩnh Phúc,
Bắc Ninh…đã thu hút hàng triệu người lao động,biến nhiều người đang là nông dân trở
thành công nhân công nghiệp. Nhiều khu đô thị mới mọc lên bên cạnh các khu công
nghiệp làm thay đổi nếp nghĩ và nếp sống của người dân theo tác phong công nghiệp.
Nhiều loại hình doanh nghiệp của các thành phần kinh tế đan xen nhau phát triển. Bên
cạnh các doanh nghiệp nhà nước, có trên 300.000 doanh nghiệp dân doanh và hàng trăm
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mỗi loại hình doanh nghiệp và mỗi doanh
nghiệp có cơ chế riêng, hoạt động độc lập và cạnh tranh nhau, tác động trực tiếp đến công

nhân làm nảy sinh tư tưởng, tâm lý khác nhau trong giai cấp công nhân về việc làm, thu
nhập đời sống, học tập và tính ổn định của công việc. Trong cơ chế thị trường, không ít
công nhân còn bị bóc lột sức lao động (làm tăng ca, tăng giờ, nhưng lương thấp), không
được bảo hiểm, không được sinh hoạt văn hoá , thông tin. Chưa nói đến công nhân ở
nhiều khu công nghiệp không có nhà ở, phải thuê những căn nhà gần như ổ chuột để sống
qua ngày. Tình hình sức khoẻ của công nhân không được đảm bảo. Từ đó dẫn đến nhiều
vụ đình công, bãi công có tính tự phát của công nhân đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải giải
quyết những vấn đề bức xúc của họ…Đó là những vấn đề đang xảy ra hiện nay. Còn
nhiều tổng thể những vấn đề bất cập trong giai cấp công nhân trong những năm vừa qua
thì thấy rõ một bộ phận lớn công nhân xuất thân từ nông dân chưa được đào tạo có hệ
thống nên trình độ tay nghề còn thấp, chậm thích nghi với cơ chế quản lý công nghiêp;
một bộ phận công nhân giác ngộ chính trị còn thấp, ít rèn luyện phấn đấu để trở thành
đảng viên, đoàn viên. Đề cập đến hạn chế của giai cấp công nhân hiện nay. Nghị quyết
hội nghị Trung Ương 6 nêu rõ “Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được
yêu cầu về số lượng,cơ cấu và trình độ học vấn chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự
nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các
chuyên gia kỹ thuật, cán bộ qủan lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và
kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế…địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện
đầy đủ. Giai cấp công nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng…”.
Nhìn vào thực tiễn 20 năm đổi mới,nhất là những năm gần đây, từ Trung ương đến cơ sở
vẫn diễn ra tình hình, không ít cán bộ lãnh đạo nhận thức chưa đầy đủ và vai trò, sứ mệnh
của giai cấp công nhân, nên “ tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân
còn thấp…Lợi ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành
tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình;việc làm, đời sống vật
chất và tinh thần đang có nhiều khó khăn, bức xúc…”(Nghị quyết TW 6).
Có những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của giai cấp công nhân trong hơn 20 năm
qua, những nguyên nhân chủ quan chính là “Đảng có chú trọng xây dựng giai cấp công
nhân,nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công
nhân trong thời kỳ mới. Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật xây dựng giai

cấp công nhân, nhưng chính sách, pháp luật này vẫn còn hạn chế…” (Nghị quyết TW 6).
Tuy nhiên có nhiều nguyên nhân khách quan tác động đến giai cấp công nhân và nguyên
nhân do bản thân giai cấp công nhân tạo ra những hạn chế, yếu kém, nhưng lần này
Trung ương nhấn mạnh đến nguyên nhân chủ quan, do sự lãnh đạo và quản lý các cơ
quan Đảng, Nhà nước. Đây là một thái độ tự phê bình rất thẳng thắn và đúng đắn của
Trung ương đối với giai cấp công nhân. Và chính từ cách nhìn đúng đắn này, Đảng và
Nhà nước ta đã có những quan điểm, giải pháp “đúng” và “trúng” được thể hiện trong
nghị quyết Hội nghị TW6 để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh, đủ sức
làm tròn sứ mệnh là giai cấp tiên phong,giai cấp lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ CNH-
HĐH đất nước.
Ngày gửi: 19/03/2008 - 19:03
Báo cáo vi phạm Trích dẫn
Câu trả lời này có ích với bạn không? Có (0) Không (0)
Bạn được cộng 5 điểm cho trả lời này
kisstherai
Một trong những phát hiện vĩ đại của Mác, Ăng - ghen là đã sớm biết tách riêng giai cấp
vô sản ra đời từ khối quần chúng bị áp bức, phát hiện ra vị trí đặc biệt và những xu hướng
lịch sử của nó. Từ đó, khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và chỉ ra những
hình thức và phương pháp thực hiện sứ mệnh đó.
Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những vấn đề chủ yếu
nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó đã được Mác, Ăng-ghen luận chứng một cách khoa
học xuyên suốt trong nhiều tác phẩm và được Lênin tiếp tục phát triển trong những điều
kiện lịch sử mới. Ngay từ cuối năm 1844, trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học
Pháp quyền của Hê-ghen”, lần đầu tiên Mác đã nêu lên vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản và những điều kiện mà qua đó nó xóa bỏ quan hệ bóc lột, TBCN, thiếp lập
quan hệ xã hội mới. Đến bản “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” và bộ “Tư Bản” thí lý
luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được phát triển đến một mức độ nhất
định. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” là một sự khái quát về lý luận phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân giữa thế kỷ thứ XIX. Bộ “Tư Bản” đã giải phẫu xã hội tư
bản chủ nghĩa vạch rõ cơ sở kinh tế của cơ cấu xã hội và những xu hướng tiếp tục phát

triển của nó, đặt cơ sở cho việc giải thích vai trò của giai cấp công nhân trong việc tạo ra
những giá trị vật chất, trong việc thủ tiêu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và xây
dựng xã hội mới. Đến thời kỳ này, nhiều phạm trù, khái niệm cơ bản nhất đã được xác
lập và về sau nó sẽ được tiếp tục phát triển.
Trong điều kiện mới Lênin đã phát triển lý luận Mác-xít về giai cấp công nhân như là
“điều chủ yếu của học thuyết Mác”1. “Trong tất cả mọi giai đọan đấu tranh vì một thế
giới mới, vì chủ nghĩa cộng sản, giai cấp công nhân là lãnh tụ của phong trào cách mạng,
là người lãnh đạo của nhân dân lao động”2. Lê-nin đã cụ thể hóa sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân trong điều kiện của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản.
Lý luận chủ nghĩa Mác Lê-nin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được thể hiện ở
một số luận điểm cơ bản sau:
* Giai cấp công nhân là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản và người sáng tạo ra xã hội
mới.
* Giai cấp công nhân là người lãnh đạo trong phong trào cách mạng giải phóng của quần
chúng bị áp bức trong xã hội hiện tại.
* Lợi ích giai cấp tư sản và vô sản là đối lập và không điều hòa được. Cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản là tất yếu và sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản. Trong
những điều kiện nhất định, giai cấp công nhân có thể tham gia lãnh đạo cách mạng tư
sản, như là sự chuẩn bị tiền đề cho cách mạng vô sản.
* Giai cấp vô sản phải hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của mình. Chủ nghĩa Mác Lê-nin là điều
kiện ắt có, cơ bản để giai cấp vô sản từ giai cấp “tự nó” chuyển thành giai cấp “vì nó”.
* Sự ra đời của Đảng Cộng Sản là tất yếu khách quan. Đảng Cộng Sản là sản phẩm của
sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lê-nin với phong trào công nhân và là nhân tố quyết định thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. “Vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp
vô sản” luôn là vấn đề trung tâm trong suốt một cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng lâu
dài và quyết liệt từ khi chủ nghĩa Mác Lê-nin ra đời và các giai đoạn phát triển sau đó.
Hình thức khá phổ biến của sự phủ nhận vai trò của giai câ vô sản là sự công kích khái
niệm khoa học của Mác, Ăng-ghen về giai cấp và giai cấp vô sản. Một số người nêu lên
tư tưởng “phi kinh tế” về giai cấp để xóa mờ quan niệm của chủ nghĩa Mác cho rằng giai
cấp vừa là một phạm trù kinh tế vừa là một phạm trù xã hội. Không thể định nghĩa giai

cấp vô sản một cách tùy tiện, không tính đến vấn đề chiếm hữu - sở hữu tư liệu sản xuất,
hơn nữa lại chỉ coi đó là một hiện tượng tâm lý3. Một số người khác lại cho rằng không
có một giai cấp công nhân được xác định rõ ràng4. Điểm tựa của những luận điểm xuyên
tạc phạm trù giai cấp nói trên là ở chỗ không xem quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất như là
một tiêu chuẩn khách quan để xem xét giai cấp.
Ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và những
hệ qủa mà nó tạo ra, một lập luận phổ biến chống lại sự lãnh đạo của giai cấp công nhân
là cho rằng lý luận Mác - Lênin về vấn đề này đã lỗi thời; giai cấp vô sản sẽ bị xói mòn,
thậm chí tiêu vong trước sự phát triển của cách mạng KHKT. Theo họ, cuộc cách mạng
KHKT đã và đang tạo ra những biến đổi sâu sắc trong sự phân công lao động xã hội, hiện
tượng “trí thức hóa lao động” phát triển mạnh, tỷ lệ lao động trí óc ngày càng tăng cao so
với lao động chân tay, cơ cấu xã hội củaa chủ nghĩa tư bản sẽ thay đổi mạnh.
Họ cũng cho rằng vai trò kinh tế của giai cấp công nhân sẽ giảm dần và trong tương lai,
giai cấp công nhân sẽ biến mất. Một số nhà lý luận tư sản khác tuy không đồng ý rằng
giai cấp công nhân sẽ biến mất, nhưng lại cho rằng giai cấp công nhân không còn là nhân
vật chủ yếu của lịch sử5.
Cách mạng KHKT có đem đến những biến đổi trong phân công lao động xã hội, trong
nội dung, phương thức lao động, trong thành phần giai cấp vô sản; thế nhưng, điều đó
hoàn toàn không xóa mờ quan hệ sản xuất TBCN và mâu thuẫn giữa lao động với tư bản.
Trí thức không phải là một giai cấp mà chỉ là một tầng lớp đặc biệt thuộc nhiều giai cấp
khác nhau. Sự ngăn cách giữa lao động chân tay và lao động trí óc là một sai lầm về lý
luận. Cách mạng KHKT làm cho thành phần giai cấp công nhân thêm đa dạng, bao gồm
cả lao động chân tay và lao động trí óc, lao động trong khu vực sản xuất vật chất và dịch
vụ Qúa trình trí thức hóa phát triển sẽ có thể đưa tới một tầng lớp đặc biệt trong giai cấp
công nhân chứ không hề xóa bỏ giai cấp công nhân. Nhìn chung, cách mạng KHKT sẽ
làm cho giai cấp công nhân phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
Ngày nay, sau sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước, các nhà lý luận tư
sản lại một lần nữa cao giọng cho rằng họ đang nói “những lời cuối cùng cho Mác” (“the
last words to Marx”) và cho lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sự sụp đổ
của mô hình chủ nghĩa xã hội ở một số nước vừa qua không phải là sự sụp đổ của chủ

nghĩa Mác và lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trái lại, ở nhiều nguyên
nhân của cuộc khủng hoảng, sự sụp đổ đó là xuất phát từ chỗ không nắm vững vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân và không thực hiện chuyên chính vô sản một cách đúng
đắn, mơ hồ về mâu thuẫn giai cấp trên bình diện thế giới. Chủ nghĩa đa nguyên chính trị
với huyền thoại về nền dân chủ đa nguyên chủ nghĩa6đã đối lập với quan niệm về đấu
tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác và do đó nó có tác dụng chia rẽ giai cấp công nhân, phá
hoại Đảng Cộng Sản từ bên trong.
Ở Việt Nam, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng đã sớm được
khẳng định cả về lý luận cũng như trong thực tiễn. Đó là một trong những bài học hàng
đầu của mọi thắng lợi của cách mạng nước ta trên nửa thế kỷ qua.
Lịch sử đã trao quyền lãnh đạo cách mạng cho giai cấp công nhân mà Đảng Cộng Sản
Việt Nam là đại biểu. Trước khi Đảng ta ra đời, các phong trào yêu nước chống Pháp
mang ý thức hệ phong kiến, tư bản đều lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam rơi vào
cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước mà thực chất sâu xa là khủng hoảng về
vai trò lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Trong cơ cấu xã hội của Việt Nam lúc bấy giờ
chỉ có giai cấp công nhân, do đặc điểm độc đáo của mình, là có vai trò lãnh đạo cách
mạng. Thế nhưng giai cấp công nhân chưa tiếp thu được chủ nghĩa Mác - Lênin, và chưa
trở thành giai cấp “vì nó”. Trong bối cảnh như vậy, những đóng góp của Nguyễn Ái
Quốc trong cuộc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá vào Việt Nam là hết sức to
lớn. Chủ nghĩa Mác - Lênin truyền bá vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam đã đưa đến sự ra đời của Đảng ta, bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam,
mở đầu cho thời kỳ giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng. Khác với lý luận và thực tiễn
ra đời của các chính Đảng chính trị của giai cấp công nhân, sự ra đời của cách chính
Đảng cộng sản Việt Nam dựa trên cả ba yếu tố (Chủ nghĩa Mác - Lênin + phong trào
công nhân + phong trào yêu nước) chứ không chỉ có hai yếu tố (Chủ nghĩa Mác + phong
trào công nhân). Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh rằng sự tham gia của phong
trào yêu nước vào sự thành lập Đảng không làm yếu đi tính giai cấp của Đảng và vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân, mà trái lại nó còn củng cố thêm sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân trong điều kiện giai cấp này chiếm tỷ lệ rất thấp trong dân cư (1 - 2%) và đang
lãnh đạo một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, thực chất là cuộc cách mạng tư sản kiểu

mới.
Từ năm 1930 trở đi ở miền Bắc và từ năm 1945 trở đi trên cả nước, trong phong trào cách
mạng không có sự tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng nào với giai cấp công nhân;
giai cấp công nhân trở thành giai cấp độc quyền lãnh đạo, không chia quyền đó với ai và
cũng không lực lượng, giai cấp nào có đủ khả năng để chia quyền lãnh đạo ấy. Nhờ đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân để giải quyết yêu cầu ruộng đất của nông
dân, nêu ngay từ đầu khẩu hiệu trong cao trào cách mạng 1930 - 1931 giai cấp nông dân
đã thực sự thừa nhận sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối vơi họ và khối liên minh
công nông đã ra đời trong thực tiễn máu lửa của cao trào cách mạng này. Cũng nhờ đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong, đại đoàn kết toàn dân trong mặt
trận dân tộc thống nhất, tạo nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám - 1945. Vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn kiên trì sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với
cách mạng, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề về đường lối chính trị, quân
sự và phương pháp cách mạng, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đi đến
thắng lợi hoàn toàn.
Kinh nghiệm cho thấy, khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân nó riêng vào nước ta, thì Đảng cách mạng phải vừa trung thành
với những bản chất của những nguyên lý căn bản, vừa phải linh hoạt, sáng tạo cho phù
hợp với điều kiện cụ thể. Nếu Nguyễn Ái Quốc chỉ dừng lại ở kinh nghiệm đã có trong
việc hình thành Đảng Cộng Sản không dám đưa yếu tố phong trào yêu nước vào thì Đảng
Cộng Sản Việt Nam khó có thể ra đời sớm như vậy. Những hẹp hòi, hạn chế trong việc
tập hợp lực lượng cách mạng ở cao trào cách mạng 1930 - 1931 cũng như những sai lầm
nghiêm trọng phổ biến, kéo dài trong những vấn đề có tính nguyên tắc” trong công cuộc
cải cách ruộng đất (1953 - 1956) đều bắt nguồn từ thái độ máy móc, giáo điều dẫn đến
ngộ nhận rằng đã “đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân”, nhưng kỳ thật là
bị các tư tưởng phi vô sản tác động mạnh mẽ.
Công cuộc đổi mới toàn diện tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở đất nước ta
hiện nay diễn ta trong bối cảnh quốc tế phức tạp, đan xen những thuận lợi và những khó
khăn lớn. Do vậy, việc tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối

với cách mạng Việt Nam là một vấn đề sống còn khi xây dựng một nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, trong những điều kiện mới
của thời đại toàn cầu hoá, kinh tế tri thức, dứơi những quan điểm mới của Đảng ta từ Đại
hội lần thứ VI đến Đại hội lần thứ IX, những quan niệm mới về giai cấp công nhân Việt
nam và lập trường của giai cấp công nhân cần phải đượcnhận thức lại, mà trong đó những
điểm cơ bản nhất là: giai cấp công nhân”phải tự mình trở thành dân tộc”, tiêu biểu cho
quyền lợi của dân tộc, dặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của giai cấp;giai cấp
công nhân hiện đại không còn là giai cấp công nhân –vô sản như trong thế kỷ XIX; giai
cấp công nhân mà trong đó tầng lớp công nhân trí thức chiếm một vị trí ngày càng to lớn,
khối liên minh công- nông -trí thức là cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân; giai cấp công
nhân rất phong hú, đa dạng theo thành phần kinh tế mà họ tham gia vào; giai cấp công
nhân phải là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất của xã hội hiện đại, được vũ
trang bằng những tri thức hiện đại nhất,…Vì vậy, không được máy móc giáo điều, không
dựa vào những quan niệm lạc hậu để xem xét lập trường của giai cấp công nhân, không
được xem xét vấn đề lập trường giai cấp đi ngược với quan điểm lấy tiến bộ về lực lượng
sản xuất làm điểm xuất phát, đảng viên cán bộ phải lấy việc học tập những tri thức hiện
đại như một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin cũng luôn
được vận dụng sáng tạo và bổ sung không ngừng bằng những tri thức hiện đại nhất của
nhân loại. Kinh nghiệm của nhân loại và dân tộc ta trong thế kỷ XX chỉ ra rằng, đững
vững hay không vững trên lập trường của giai cấp công nhân hiện đại là điểm cốt tử nhất
để có được mô hình chủ nghĩa xã hội phù hợp hay không.

×