Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tài liệu QUỐC GIA PHÙ NAM pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.13 KB, 15 trang )

QUỐC GIA PHÙ NAM
1. Vị trí địa lý:
2. Nằm ở khu vưc hạ lưu sông Mê Công. Có cội nguồn sông là
nền văn hóa Đồng Nai. Được phát sinh và phát triển ở sông Đồng
Nai. Hiện nay theo các nhà nghiên cứu
3. Nằm ở khu vực hạ lưu sông Mê Công. Địa bàn chủ yếu là châu thổ
đồng bằng sông Cửu Long bao gồm nhiều địa hình sinh thái khác
nhau, tỉnh An Giang (Óc Eo-Ba Thê), tỉnh Kiên Giang (Đá Nổi-Nền
Chùa-Tân Long), vung ven biển Tây Nam, U Minh Hạ vươn ra tận
biển Đông.
4. Quốc gia Phù Nam cổ được hình thành ở vùng khí hậu cận
xích đạo nên nơi đây có khí hậu khô nóng, thời tiết trong năm chia
thành hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô, không có mùa đông
lạnh. Khí hậu đã có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của cư dân nơi
đây.
5. Địa hình khá là bằng phẳng, có độ cao so với mực nước biển
từ 200-400 mét, trong vùng có hệ thông sông ngòi chằng chịt tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế.
6. Quốc gia Phù Nam cổ có vị trí địa lí rất thuận lợi so với các
nước trong vùng, hiện nay vùng này thuộc khu vực Nam bộ của
nước Việt Nam, phía Băc giáp với Trung Bộ,phía Tây giáp với
Campuchia, phía Nam giáp với vịnh Thái Lan, phía Đông giáp với
biên Đông, là nơi giữ vị trí trung chuyển của con đường giao thông
đường biển quốc tế nên từ xa xưa Phù Nam là nơi có vị trí rất quan
trọng với các nước trong khu vực.
Do có vị trí địa lí thuận lợi như vậy nên quốc gia cổ Phù Nam từ xa
xưa đã có một nền kinh tế rất phát triển, đăc biệt là nền kinh tế ngoại
thương với các nước trong khu vực thông qua đường thủy và đường
bộ. Nền kinh tế ngoại thương đó có mối quan hệ chặt chẽ với quan hệ
ngoại giao giữa các nước với nhau, mối quan hệ ngoại giao giữa các
nước tốt đẹp chính là điều kiện thuận lợi cho sự hát triển kinh tế thương


nghiệp.
2. Vài nét về sự hình thành quốc gia Phù Nam.
[ Các quan niệm về sự ra đời của quốc gia Phù Nam.
Theo sự ghi chép của Khang Khái một quan lại người Trung Hoa đến
Phù Nam vào giữa Thế kỷ thứ III kể lại : có người nước ngoài tên là
Hỗn Điền có thể từ Ấn Độ hay các đảo phía Nam đến đảo này. Đã
đánh bại được nữ chúa có tên là Lá Liễu. Sau ông đã cưới làm vợ và
lập ra một triều đại ở đây đến khi ông chết. Con cháu của ông tiếp tục
cai trị khu vực này. Phù Nam ra đời vào khoảng thế kỷ thứ I có thể sớm
hoặc muộn hơn một chút. Cùng thời gian này ở phía Nam Đông Nam Á
cũng xuất hiện nhiều tiểu quốc khác trong đó Phù Nam nổi lên là một
quốc gia mạnh nhất. Do vậy Phù Nam đã thu hút được nhiều quốc gia
có trình độ kinh tế - xã hội khác nhau. Trong đó, Phù Nam giữ địa vị là
tôn chủ mà các quốc gia khác phải thuần phục và cống nạp.
n i vua Phm S Man vo khong u th k th III cng vc
Phự Nam m rng ra rt nhiu v tin hnh nhiu cuc chin tranh xõm
lc xung quanh v tr thnh cng quc ca ụng Nam , h lu
sụng Mờ Kụng v c Nam B ngy nay. Phớa Bc vn ti tn Cam
Ranh v cú th m rng hn na. Phm S Man tng c coi l
ngi chinh phc v i cng vỡ cuc vin chinh xung phớa Nam cú tờn
gi l Chin Lin v õy Phm S Man ó qua i. S thnh t ca
Phự Nam di thi k ca Phm S Man ó lờn n nh im. Sau
khi ụng mt cỏc v vua k nghip ó khụng thc hin c s nghip
ca ụng.
S tht bi ca liờn minh Phự Nam ó mt trong cỏc cuc chin
tranh, cp búc Giao Chõu t nm 270 ó chng t iu ú. Phự Nam
mt dn i khớ th mt cng quc ụng Nam . Sut c th k th
IV v sau ny. Cho n nay cha cú lý gii xỏc ỏng no v nguy c
tiờu vong ca vng quc Phự Nam. Mt vng quc ó tng l mt
cng quc trong khu vc.

3. Quan h giao lu v buụn bỏn thng mi vi cỏc nc trong
khu vc.
Một trong số con cháu kế nghiệp của Hỗn Điền là Hồn Ban Huống
tìm cách reo sắc nghi kỵ, chia rẽ các thành bang, mộ quân đi chinh
phục các tỉnh rồi cho con cháu mình cai trị riêng rẽ mỗi ngời một
thành bang. Những ngời này gọi là tiểu vơng.
Ngoài 90 tuổi thì Hồn Bàn Huống chết, ngời con thứ của ông là
Hỗn Bàn Bàn đợc lên kế vị. Vua này tin cậy và hết việc triều chính cho
viên đại soái Phạm S Man.
Hồn Bàn ở ngôi vua đợc 3 năm thì mất. Tất cả triều thần tôn Phạm
S Man lên làm vua, niên hiệu là Suryarman (trị vì 225 230). Ông
là ngời can đảm và thao lợc, đem quân đi đanh các nớc lân bang
làm ch hầu và xng là Phù Nam Đại Vơng. Sau đó ông còn đóng
thuyền lớn vợt biển đánh chiếm thêm đơc hơn 10 nớc, mở rộng bờ
cỏi đến năm, sáu ngàn dặm.
Trong lúc đang dự tính đánh Kim Lân, Phạm S Man lâm
bệnh, ông chỉ định con trai trởng là Thái tử Kim Dinh kế vị. Lúc
đó, con trai của ngời bị chị Phạm S Man tên Phạm Chiên đang chỉ
huy 2000 quân lính dùng mu đoạt quyền bính, hạ sát Kim Sinh,rồi
tự xng là vua, niên hiệu Pharanindra-varman. Một ngời con trai
khác của Phạm S Man tên là Phạm Trờng luc đó đang còn bú, phải
sống ẩn nấu trong quần chúng. Đến 20 tuổi,hoàng tử Phạm Trờng
chiêu mộ dũng sĩ trong nớc, nổi dậy giết chết Phạm Chiên giành lại
ngôi báu nhng chẳng bao lâu viên đại tớng Phạm Tâm lại hạ sát
Phạm Trờng tự xng là vua.
Những sự kiện trên đây diễn ra từ năm 225 đến năm 280. Trong
thời gian đó dới triều đại Phạm Chiên, Phù Nam đã đặt quan hệ
ngoại giao với ấn Độ và Trung Hoa. Theo truyện của Khang Thái:
Khi xa dới triều Phạm Chiên là ngời nớc Đàm Dơng tên Gia Tờng
Lê từ ấn Độ, đi từng chặng đến buôn bán ở Phù Nam. Ngời ấy kể

với vua Phạm Chiên về những tập quán, vẻ huy hoàng và trù phú
của của ấn Độ. Phạm Chiên phái Tô Vật đi sứ sang ấn Độ. Tô vật
xuống thuyền ở Đầu Câu Lợi (có thể là Takkola trên bờ biển phía
tây bán đảo Mã lai). Phái bộ đến cửa sông Hằng (Gange), đi ngợc
dòng sông đến tận triều đình Muninda. Quốc vơng cho ngời đa
phái bộ đi thăm thú trong nớc và khi họ về Ông gửi tặng vua Phù
Nam 4 con ngựa của xứ Nguyệt Chi (Indoseythe) và cho một ngời
ấn tên Trần Tống tháp tùng phái bộ đến Phù Nam.Cuộc hành trình
từ ấn Độ đến Phù Nam kéo dài 4 năm.
Năm 243, dới thời Tam Quốc, Phạm Chiên phái sứ bộ qua
triều đình nhà Đông Ngô. Tô vật từ ấn Độ về nớc dới triều đaụi
Phạm Tần( khoảng 250 290).Cũng dới triều đại này, trong
khoang những năm 245 250,dới thời Tôn Quyền, triều đình nhà
Đông Ngô phái Khang Thái( chức trung lang) và Chu ứng(chức
tuyên hóa tùng sự đi sứ Phù Nam). Hai sứ giả Trung Hoa đã gặp
Trần Tống cùng phái bộ, và đã hỏi cặn kẻ về xứ sở và phong tuc tập
quán của nớc ấn Độ.
Những sự kiện trên đây diễn ra từ năm 225 đến năm 280.
Trong thời gian đó dới triều đại Phạm Chiên, Phù Nam đã đặt quan
hệ ngoại giao với ấn Độ và Trung Hoa. Theo truyện của Khang
Thái: Khi xa dới triều Phạm Chiên là ngời nớc Đàm Dơng tên Gia
Tờng Lê từ ấn Độ, đi từng chặng đến buôn bán ở Phù Nam. Ngời
ấy kể với vua Phạm Chiên về những tập quán, vẻ huy hoàng và trù
phú của của ấn Độ. Phạm Chiên phái Tô Vật đi sứ sang ấn Độ. Tô
vật xuống thuyền ở Đầu Câu Lợi (có thể là Takkola trên bờ biển
phía tây bán đảo Mã lai). Phái bộ đến cửa sông Hằng (Gange), đi
ngợc dòng sông đến tận triều đình Muninda. Quốc vơng cho ngời
đa phái bộ đi thăm thú trong nớc và khi họ về Ông gửi tặng vua
Phù Nam 4 con ngựa của xứ Nguyệt Chi (Indoseythe) và cho một
ngời ấn tên Trần Tống tháp tùng phái bộ đến Phù Nam.Cuộc hành

trình từ ấn Độ đến Phù Nam kéo dài 4 năm.
Năm 243, dới thời Tam Quốc, Phạm Chiên phái sứ bộ qua
triều đình nhà Đông Ngô. Tô vật từ ấn Độ về nớc dới triều đaụi
Phạm Tần( khoảng 250 290).Cũng dới triều đại này, trong
khoang những năm 245 250,dới thời Tôn Quyền, triều đình nhà
Đông Ngô phái Khang Thái( chức trung lang) và Chu ứng(chức
tuyên hóa tùng sự đi sứ Phù Nam). Hai sứ giả Trung Hoa đã gặp
Trần Tống cùng phái bộ, và đã hỏi cặn kẻ về xứ sở và phong tuc tập
quán của nớc ấn Độ.
Những tài liệu trên đây cho thấy từ triều đại Phạm Chiên, Phù
Nam đã phát triển ảnh hởng của mình đến n Độ và giữ vai trò
trung gian của con đờng giao thơng hàng hải và ngoại thơng giữa
ấn Độ và miền Đông Nam á.
Sau những sứ bộ đầu tiên của Phù Nam của nhà Ngô, sự bang
giao của Phù Nam và phía Nam Trung Hoa diễn ra đều đặn. Trong
những năm 268, 285, 286, 287, đều có sứ bộ của triều đình Phù
Nam đến nhà Tấn (265- 419). Ba sứ bộ liên tiếp từ 285 đến 287
hiển nhiên là hiệu quả của sự phát triển thơng nghiệp hàng hải sau
khi nhà Tần thống nhất Trung Hoa và gia tăng nhu cầu của phơng
Bắc về sản vật xa xỉ phẩmtừ các nớc phía Nam.
Năm 357, ngôi vua Phù Nam rơi vào tay của một ngời tên là
Trúc Chiên Đàn. Thời kì từ 287 đến 356 không để lại vết tích nào
trong sử liệu. Có lẽ đó là một giai đoan loạn lạc, vì theo Tấn th,
năm 357 Trúc Chiên Đàn tự xng là vua. Ngay trong năm đó, Chiên
Đàn đã phái sứ bộ đem theo một tờ biểu và voi thuần qua cống
triều đình nhà Tấn. Tấn Mục Đế không nhận lễ vật, ra chiếu chỉ:
Ngày xa các đấng tiên vơng đôi khi cho rằng cầm thú là ở các nớc
phơng xa mang tới là nguyên nhân gây ra những điều không lành
cho dân chúng ( ), có thể trả chúng về xứ ( ). Tổn phí cho các vật
nh thế không phải là nhỏ, không nên gửi qua nữa . Đó là một lí do

từ chối khá bất thờng đối với một sứ bộ ngoại giao. Có lẽ đó la thái
độ của triều đình nhà Tấn đối với một ngời soán vị cha đơc công
nhận về mặt ngoại giao. Trúc Chiên Đàn hay Thiên Chúc Chiên
Đàn có lẽ là một ngời xuất phát từ ấn Độ.
Năm 357, dới thời hoàng đế Samudragupta, tất cả vùng phía
Bắc ấn Độ đều thần phục triều đại Gúpta, các tộc Nguyệt Chi đều
bị đẩy lùi. Có thể một nhánh của tộc Kushan bị đẩy ra khỏi lu vc
sông Hằng đã tìm cơ may ở miền Suvarnabhunri ( xứ Kim Lân) và
xa về phía Đông. Triều đại Trúc Chiên Đàn đánh dấu một bớc
chuyển tiếp trong lịch sử Phù Nam. Những chinh phục của triều đại
Gupta đã thúc đẩy nhiều đợt di c của ngời ấn Độ về các vùng đất
phía Đông vịnh Bengal, các vùng hải đảo và nội địa Đông Nam á.
Vua kế vị Trúc Chiên Đàn là Kiều Trần Nh, nguyên là một
giáo sĩ đạo Bàlamôn ở ấn Độ, ông qua đời năm 424. Vua kế vị là
Trì Lê Đà Bạt Ma tiếp tục nối lại quan hệ ngoại giao và thơng mại
với Trung Hoa dới th i nha T ng (420-478), phai cac s b n
tri u c ng nh ng ph m v t a ph ng vao cac nm 434, 435,
438. Vao kho ng n m 431- 432 nc Lõm p mu n ỏnh chi m
đ t Giao Chau, ng ý mấ ỏ ư n quan c a Phu Nam. Phù Nam khợ ủ ư c ớ
t yeu c u ừ ầ đã.
Kiều Trần Như - Đồ Da Bạt Na lên ngôi vào khoảng năm 475.
Ông đã phái các thương gia sang Quảng Châu buôn bán vào cuối
thời nhà Tống (420-478). Dưới triều đại Nam Tề (409-501), vào năm
484, vua Phù Nam uy nhiệm hoà thượng Ấn Độ Sakya Nagasena
(Sa Kỳ Na Già Tiên) đi sứ triều đình Nam Tề, dâng một bản thỉnh cầu
dài gồm mấy đoạn sau:
- Bày tỏ sự ngưỡng mộ và sụ thần phục của nhà vua đối với
vua Nam Tề.
- Phàn nàn việc Lâm Ấp cướp thuyền buôn bán của Phù
Nam- Phàn nàn về việc một bầy tôi của Phù Nam là Cưu Thù La

đánh chiếm Lâm Ấp, tự xưng là vua, không chịu sự thần phục của
triều đình Trung Hoa.
Và đề nghị:
Triều đình Nam Tề trực tiếp cầm quân đi đánh vị vua soán
ngôi, quân Phù Nam sẽ phồi hợp hành động.
Nếu triều đình Nam Tề muốn chủ định người khác lên làm vua Lâm
Ấp, vua Phù Nam sẽ tuân theo chiếu chỉ đó.
Nếu triều đình không muốn trực tiếp hành động binh thì xin cho
Phù Nam mượn quân để dẹp quân phản nghịch. Khi bình định được
giặc sẽ có cống phẩm xứng đáng.
Đồ Da Bạt Ma còn gửi tặng vua Nam Tề một số lễ vật. Vua Phù
Nam từ chối lời thỉnh cầu một cách khéo léo: “Trẫm chỉ lấy việc giáo
hoá và ân đức để thu phục các dân tộc ở xa, không muốn dùng đến
quân lực.Vì nhà vua đã có lòng trung, từ nơi xa xôi đến cầu viện,
trẫm cho chuyển lời thỉnh cầu đó sang toà tam pháp để nơi đây kịp
thời ứng phỏ trừng trị kẻ phản nghịch và xử ôn hoà với những kẻ đã
quy phục.”
Năm 503, Bồ Da Bạt Ma lại phái sứ bộ đem cống phẩm triều
đình nhà Lương (502-556). Nhân dịp này, vua nhà Lương đã phong
Đồ Da Bạt Ma tước An Nam Tướng Quân Phù Nam Vương. Các sứ
bộ được tiếp tục phái sang triều đình Trung Hoa vào những năm 511
và 514. Triều đại Đồ Da Bạt Ma đánh dấu một thời kỳ huy hoàng của
Phự Nam, c bit trong lnh vc ngoi giao v thng mi vi Trung
Hoa.
Da Bt Ma qua i nm 514. Ngi k nhim ca ụng l
thi t Gunavarman, con chỏnh cung hong hu
Kulaprabharati.Theo minh vn Prasỏt Pram Loren tỡm thy ng
Thỏp Mi thỡ thỏi t l ngi dự cũn nh tui, ó c ch nh lónh
o mt a phng sựng o chinh phc t m ly, nh ngi l
ngi anh cựng cha khỏc m git cht cp ngụi. ú l Lu

Bt Ma, con ca mt th phi. õy l thi k u ti trong hong gia Phự
Nam. Hong hu Kulaprabhavati hỡnh nh b tht sng ó i tu.
Hot ng thng mi v ngoi giao ca Phự Nam v Trung
Hoa vn c duy trỡ trong thi gian ny. Lu Bt Ma tip tc
phỏi s b qua triu ỡnh nh Lng vo nhng nm 517, 519, 520,
530, 535 v 53
Thặng d nông phẩm nhiều sản phẩm thủ công nghiệp phong phú đã tạo
điều kiện cho sự phát triển nhanh chóng của thơng nghiệp nội địa cũng nh
với bên ngoài. sách Lơng Tứ Công tử kí (khoảng đầu thế kỉ VI) chép: Một
chiếc thuyền lớn của Phù Nam đến từ miền Tây ấn Độ vào bán một cái kính
bằng pha lê xanh, đờng kính một họ năm ngón, nặng 40 cân 54. Vị trí của
Phù Nam trên thơng trờng Đông Nam á đã đợc chu n bị từ lâu. Các c dân
ven biển châu thổ sông Mê Công đã tiếp xúc với thơng nhân bên ngoài từ
nhiều thé kỉ TCN. Các tàu thuyền của ngời nói tiếng Malayo-polynesien xuất
phát t Đông Nam á đã tiến sang phía Tây đến tận bờ biên châu Phi và phía
Bắc đến tận trung Hoa. Họ đem bán những sản phẩm rất đợc a chuộng trên
thị trờng ấn Độ nh gia vị, hơng liệu và thị trên thị trờng Trung Hoa nh xà cừ,
đồi mồi, ngọc trai, san hô, mật và sáp ong, tổ yến Vào những thế kỉ II và
III, miền Nam Sumatra trở thành một nơi hội tụ các luồng thơng mại trong
vùng biển Java. Từ đó Mã lai lại chuyển hàng đến Oc Eo để gia nhập vào thị
trờng quốc tế.
Phù Nam đợc biết đến trong lịch sử nh một cơng quốc thơng
nghiệp từ giữa thế kỉ thứ III đến đầu thế kỉ VI. Những chinh phục ở bán đảo
Mã lai đã hố trợ việc kiểm soát các lộ giao thơng giữa ấn Độ và vùng Đông
Nam á, cả đơng thuỷ lẫn đờng bộ. Vai trò cờng quốc kinh tế của Phù Nam
từ khi trung tâm thơng nghiệp trong vùng đợc chuyển từ Oc Eo qua vùng
biển Malacca ở phía Nam bán đảo Mã lai từ cuối thế kỉ V về sau.
B - VÀI NÉT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIẾN CỦA QUỐC GIA
CHAM PA
(Theo sử sách Trung Quốc, Lãnh thổ vương quốc Chăm Pa

(Campa) vào khoảng thế kỷ 11. Lúc đó có tên Đại Việt, Lưu Cầu và
Nhật Bản)
Cham Pa được hình thành trên dải đông bằng miền trung các nhà
khoa học tìm thấy dấu vết một nền văn hoá đặc trưng. gọi chung là nền
văn hoá Sa huỳnh. chủ nhân của của văn hoá sa huỳnh thuộc tiểu chủng
Mã lai- đa đảo. định cư trên châu thổ các sông thu Bồn, Trà Khúc các vùng
núi, ven rừng, Trung Bộ và Bắc Trung Bộ.
Sự thống nhất của hai bộ lạc Cau ở Phú yên đến Phan thiết và
Bộ lạc Dừa từ Quảng ngãi đến Bình định. Tù trưởng của hai bộ lạc đó là
KHu LIên. Đó là hai bộ lac sinh sống vào cuối thế kỷ II nhân lúc thời cơ
thuận lợi đó là nhà hán ở Trung Quốc suy yếu thì nhân dân Giao chỉ Cửu
Chân liên tục khởi nghĩa. Nhân dân Tượng Lâm dưới sự lãnh đạo của Khu
Liên đã dành quyền tự chủ vào năm 192. Từ đây Tượng Lâm trở thành 1
quốc Gia hoàn toàn độc lập và sau đó Khu Liên lên làm Vua. Sau nhiều thế
kỉ tồn tại và phát triển vương triều Gangara tên Lâm Ấp được đổi gọi là
Chăm pa. Từ đây lịch sử của vương quốc cham pa bước vào thời kì phát
triển.
Chăm Pa có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế
do nằm ở miền Trung và Trung Nam Bộ nơi có nhiều sản vật và khí hậu
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và giao lưu trao đổi buôn bán với các
nước trong khu vực vơi các ngành nông nghiệp trồng lúa, Chăn nuôi, đánh
bắt thuỷ hải sản và các ngành thủ công nghiệp rất phát triển như kéo tơ dệt
lụa, làm gốm. tài liệu xưa có chép Chăm Pa có một loại vải quý đó là vải
Cát bố:” Cát bố là tên môt loại cây , hoa nở ra giống như lông ngỗng, Rút
lấy sợi , dệt thành một loại vải trắng muốt chắng khác gì vải đay, còn dệt
được năm sắc.
Địa bàn định cư của người Chăm sinh sống còn là một vùng
có nhiều loại gỗ quý như gỗ Trầm.
Bên cạnh đó nghề chế tác đá và làm vật liệu xây dựng rất phát
triển, trạm trổ và trang trí

Với những điều kiện thuận lợi đó tạo ra những điều kiện cho sự
phát triển kinh tế.
II. MỐI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI CỦA VƯƠNG QUỐC CHĂM PA
VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC.
“Trong những điều kiện như trên. Vương quốc chăm pa cón
nền ngoại thương không phát triển mấy. Nền ngoại thương đó nếu có cũng
không phát triển mấy và các nhà nghiên cứu không tìm thấy những cơ sở
vững chắc nào của nó trong tình trạng hầu như hoạt động nội thương
không phát triển và sản phẩm thủ công nghiệp nghèo nàn và gạo không
xuất ra ngoài”.
(Thuỷ Kinh Chú)
Tuy có những đặc điểm trong đời sống là gắn liền với biển bằng cách
mở cửa biển mở rộng quanm hệ trao đổi buôn bán vơi bên ngoài. Tuy
nhiên những nơi được gọi là cảng thì cũng là những bờ biển không sâu, có
khi phải vào một khúc sông không lớn lắm : Sa Huỳnh, Pandủanga, Trà
Kiệu
Trước thế kỉ XI hoạt động trao đổi buôn bán với bên ngoài
chưa nhiều, nhất là bằng đường biển, do điều kiện lúc bấy giờ còn hạn
chế. Quan hệ trao đổi với thuyền bè bên ngoài nếu có thì chắc rằng chỉ
buôn bán trong phạm vi cung cấp cho họ nước uống, thực phẩm và bán
lâm sản nhất là gỗ Trầm để đổi láy nhưng thứ ưa thích hoặc cần dùng
trong sinh hoạt hàng ngày của họ như: Gốm, vàng bạc, đá quý,
.nhưng những việc buôn bán trao đổi nay không phải do thương
nhân mua mà lại chính là do Nhà nước thực hiện và vì mục đích đáp ứng
nhu cầu của Vua và Quý tộc, quan lại,
1, Quan hệ thương mại với các nước trong khu vực từ thế kỉ X –
XV:
a, Sự phát triển của mạng lưới buôn bán gốm Champa.
+ Gốm Chăm Pa:
Về đồ gốm thì hầu như tất cả các ghi chép về Champa trong

Chufanchi (1225), Dauyi Zhilue (giữa thế kỷ XIV) và Yingua Shenglan
(1416) đều chỉ nói đến việc nhập các đồ sứ Trung Quốc. Những tài liệu
trên hầu như không nhắc đến những sản phẩm gốm ở Đông Nam Á.
Dù rằng việc sản xuất gốm để xuất khẩu ở Đông Nam Á ,đặc
biệt là ở Đại Việt và Xiêm, phát triển khá mạnh mẽ vào thế kỷ XIV – XV,
thường là với sự khởi đầu bất ngờ của kỹ thuật Trung Quốc và kết thúc với
kỹ thuật bản địa. Tuy nhiên, lịch sử hải thương của khu vực Đông Nam Á,
kết hợp với những kết quả trong nghiên cứu khảo cổ học ở các quốc gia
Đông Nam Á trong thời gian gần đây, đã phần nào bổ sung cho chúng ta
những tư liệu quan trọng về sự xuất hiện của những sản phẩm gốm
thương mại có nguồn gốc Đông Nam Á .
Buôn bán gốm từ Trung Quốc bị hạn chế lớn trong thời kỳ này.
Gốm Thái Lan, Việt Nam và Champa xuất hiện ở các vùng bờ biển xung
quanh biển nam Trung Quốc như để thay thế đồ gốm Trung Quốc. Di chỉ
tiêu biểu của thời kỳ này là tàu đắm ngoài khơi đảo Palawan, được khai
quật năm 1995. Đồ gốm Champa bao gồm đĩa celadon, bát men nâu với
thân chiết yêu và các vò men nâu của lò Gò Sành.
Trong những năm gần đây, tại các lò gốm Gò Sành và một vài
lò gốm khác, tất cả đều ở quanh thủ đô Vijaya thuộc tỉnh Bình Định ngày
nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những đồ gốm xuất khẩu như đĩa
men và bát men celadon và các hũ sành được sản xuất trong những thế kỷ
XIV-XVII mà không hề có sự phát triển trước đó của kỹ thuật bản địa.
Những mảnh vỡ của đồ gốm Gò Sành đã được khai quật thấy ở Ai Cập,
đảo Tioman ở Ma-lai-xia; Santa Ana và Calatagan ở Phi-lip-pin và
thường được tìm thấy cùng với những đồ sứ Trung Quốc. Có tiếng vang
nhất là việc tìm thấy hàng trăm đồ gốm tráng men celadon của Gò Sành
trong con tàu đắm gần hòn đảo Pandaran ở Phi-lip-pin. Không nghi ngờ gì
nữa, những sản phẩm này bắt đầu có trước khi Đại Việt đánh chiếm
Vijaya, thế nhưng những người thợ thủ công thuộc tộc người nào thì còn
chưa rõ. Chắc hẳn Champa cũng đã bị cuốn vào trào lưu sản xuất đồ gốm

thương mại chung ở Đông Nam Á lục địa vào thời kỳ cuối Nguyên (1260-
1368) và đầu Minh (1368-1644), khi mà việc xuất khẩu đồ sứ Trung Quốc
bị giảm mạnh vì khủng hoảng kinh tế và do lệnh cấm buôn bán với nước
ngoài.
Với việc phân phối rộng khắp bằng đường biển qua Ấn Độ
Dương, đồ gốm Champa được khai quật từ địa điểm A1-Từ trên bán đảo
Sinai ở Hy Lạp, từ thành phố cảng thời trung cổ của Julfar trong phạm vi
của Ras al -Khaimab ở tiểu vương quốc Arập, từ di chỉ Juara trên đảo
Tioman ở đảo Ma-lai-xia và từ di chỉ mộ táng ở bán đảo Calatagan và tàu
đắm ở ngoài biển khơi của đảo Pandanan, Phi-lip-pin. Đồ gốm Champa
được xuất khẩu ra nước ngoài vào khoảng thế kỷ XV và việc sản xuất đồ
gốm ở Gò Sành phát triển rất rực rỡ vào thời gian ấy. Trong bất kỳ trường
hợp nào, thì rõ ràng là kinh đô Champa đã có một mạng lưới buôn bán vào
thế kỷ XV, bao gồm cả Hy Lạp, Các Tiểu vương quốc Arập, Ma-lai-xia,
quần đảo Phi-lip-pin. Thực tế này đã xác nhận sự rộng lớn của mạng lưới
buôn bán của vương quốc Champa trên biển.
Đồ gốm không giống với vải lụa, vẫn tồn tại trong các di chỉ mà
không bị phân hủy và biến mất, thậm chí ngay cả khi chúng bị vỡ thành
từng mảnh nhỏ. Khi các khu vực (lò) và niên đại sản xuất của một số đồ
gốm khai quật đã được xác định, chúng sẽ là tư liệu quý giá để làm rõ niên
đại và đặc trưng của chính các di chỉ
+ Vải lụa
Lệnh cấm hoàn toàn các chuyến đi và buôn bán vải hải ngoại
được ban hành năm 1371 (năm thứ 3 niên hiệu Hồng Vũ) trong thời kỳ đầu
thời nhà Minh. Sau đó, nó lại được tái ban hành vài lần và cuối cùng bị bãi
bỏ năm 1471 (năm thứ 6 niên hiệu Long Khánh). Nó ngăn cấm nghiêm
ngặt những chuyến đi và buôn bán hải ngoại của người Trung Quốc.
+ Với Đại Việt:
Hàng xuất cảu Đại Việt thường là lâm thổ sản và hàng nhập là
các giấy, bút, tơ lụa, vải. Đại Việt mua trầm hương của Chăm Pa rồi mang

về chế biến sau đó bán sang Trung Quốc . Như vậy thương nhân Đại Việt
và thương nhân Chăm Pa đã trao đổi buôn bán với nhau.
Như vậy:
Nằm ở vị trí trung độ trên con đường giao lưu quốc tế đông-tây,
Trung Quốc với Ấn Độ và xa hơn, tới Địa Trung Hải, Đông Nam Á sớm trở
thành một đầu mối mậu dịch hàng hải quốc tế. Từ đầu công nguyên,
những con thuyền của cư dân trong vùng, thuyền của người Ấn, người
Hoa cùng với nền văn hóa của họ đã thường xuyên qua lại vùng Đông
Nam Á. Trên con đường giao lưu đó, Champa chiếm lĩnh một trong những
vị trí quan trọng và thuận lợi nhất. Các cảng của Champa đóng vai trò như
những cảng cuối cùng trước khi những con thuyền vượt qua vịnh Bắc Bộ
vào vùng biển Trung Hoa và là nơi dừng chân đầu tiên khi từ Trung Quốc
đến Malacca, Vịnh Thái Lan hay gần hơn là tới vùng hạ lưu châu thổ sông
Mê Kông mà 7 thế kỷ đầu công nguyên thuộc vương quốc Phù Nam. Có
thể thấy hầu hết các tuyến đường biển đến Trung Hoa hay từ Trung Hoa đi
qua Ấn Độ đều rẽ qua các cảng biển Champa. Từ một đầu mối giao thông
quan trọng, bờ biển Champa đã sớm trở thành một đầu mối giao thương,
nơi trao đổi sản vật và sản phẩm với những thuyền bạn bè qua lại.
Cũng như phần lớn các quốc gia Đông Nam Á khác trong lịch
sử, Champa đã chủ động dự nhập mạnh mẽ vào hệ thống thương mại khu
vực để bù lấp những thiếu hụt của nền kinh tế nước mình, biến tiềm năng
kinh tế bên ngoài thành bộ phận kinh tế quan trọng của mình. Có thể thấy
rằng Champa có những mặt hàng có giá trị, đáp ứng được nhu cầu của
các thị trường Trung Quốc và Tây Á. Champa với các thế mạnh của mình
về vị trí địa lý, cũng như những mặt hàng thương mại có giá trị, không
những đã trở thành một trạm trung chuyển hàng hóa (Entrepôt) cho các thị
trường lớn trên thế giới, mà còn là một nguồn cung cấp hàng hóa quan
trọng cho nền thương mại khu vực và thế giới.
Hoạt động thương mại thực sự trở thành một thế mạnh và là
nền tảng cho toàn bộ nền kinh tế Champa. Với việc khai thác tối đa những

nguồn lợi vốn là thế mạnh của mình, cùng với việc dự nhập mạnh mẽ vào
luồng thương mại khu vực và quốc tế, Champa trong một thời gian dài trở
thành một cường quốc thương mại trong khu vực, đóng vai trò là một trung
tâm liên vùng - trung tâm thu gom và phân phối hàng hóa với chức năng
trung chuyển giữa trung tâm liên thế giới với các vùng.

×