Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tài liệu Thảo luận " Cơ hội và thách thức của sinh viên khi Việt Nam gia nhập WTO" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.62 KB, 11 trang )

Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Học viện ngân hàng
~~~~~~*****~~~~~~
BÀI THẢO LUẬN
Môn: Quản trị doanh nghiệp
Đề tài:
“Cơ hội và thách thức của sinh viên khi Việt
Nam gia nhập WTO”
Giáo viên hướng dẫn:
Nhóm thực hiện: lớp TTQTD – K10
Khoa: Ngân hàng

Hà Nội – 2009
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
Nhóm thực hiện
1. Lê Văn Khanh
2. Nguyễn Hùng Sơn
3. Nguyễn Văn Hộ
4. Nguyễn Ngọc Hiếu
5. Nguyễn Thị Thân Thương
6. Trần Minh Khôi
7. Hồ Văn Báo
8. Vũ Quang Huy
9. Khổng Thế Anh
TỔNG QUAN NGÀNH GIÀY DÉP VIỆT NAM NĂM 2008 VÀ TRIỂN
VỌNG 2009
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tác động
rất lớn tới mọi ngành kinh tế của nước ta, kể cả ngành da giày. Gia nhập
WTO có nghĩa là chúng ta bước sâu hơn vào sân chơi kinh tế thế giới, tạo ra
cho chúng ta nhiều cơ hội để phát triển ngành da giày, đặc biệt là cánh cửa


xuất khẩu được mở rộng hơn.
Bước vào sân chơi WTO tạo ra những cơ hội lớn song nhiều người đã
lo ngại việc xuất khẩu của Việt Nam nói chung và ngành da giày nói riêng sẽ
gặp nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp xuất khẩu da giày Việt Nam sẽ gặp
khó khăn khi cạnh tranh với các doanh nghiệp xuất khẩu cuả nước ngoài,
đặc biệt là các quốc gia có thế mạnh trong lĩnh vưc này. Bởi vậy ngành xuất
khẩu da giày Việt Nam cần phải nhận thức rõ những cơ hội và thách thức đó
cũng như hướng đi trong tương lai.
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU
Việt Nam được xếp hạng là một trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu
trên thị trường quốc tế hiện nay về da giày (xếp thứ 4 về xuất khẩu giày
dép), riêng ở thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai sau Trung Quốc.
Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam có mức tăng trưởng
trung bình hàng năm 16%, đạt 3,96 tỉ USD năm 2007, đứng thứ 3 sau ngành
dệt may và dầu khí. Kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại năm 2008 đạt
4,7 tỉ USD. Dự báo đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm
ngành da giày Việt Nam sẽ đạt 6,2 tỉ USD.
Số liệu kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam năm 2008
Về năng lực sản xuất, năng lực sản xuất của toàn ngành đạt:
- Năm 2007:
+ Giày dép các loại: 680 triệu đôi
+ Cặp túi xách các loại: 88 triệu chiếc
+ Da thuộc thành phẩm: 150 triệu feet vuông
- Năm 2008:
+ Giầy dép các loại: 750,00 triệu đôi
+ Cặp túi xách: 88,00 triệu chiếc
+ Da thành phẩm: 130,00 triệu feet vuông
Năng lực sản xuất của ngành năm 2007 đã đạt trên 90% mức năng lực
được đầu tư, có mức tăng trưởng mạnh trong 7 năm liên tiếp với mức tăng

trung bình đạt 10%/năm trên 2 loại sản phẩm chính là giày dép và túi cặp
các loại. Riêng sản phẩm da thuộc đạt mức tăng trưởng trung bình khoảng
20%/năm. Mặt hàng chủ lực của ngành vẫn tập trung chủ yếu vào giày thể
thao, chiếm khoảng 51% năng lực sản xuất các sản phẩm giày dép của
ngành, phù hợp với xu thế tiêu dùng của thị trường xuất khẩu.
Theo thống kê của LEFASO thì hiện tại có 185 hội viên là các doanh
nghiệp (DN) đang kinh doanh các mặt hàng về da giày (bao gồm giầy, thuộc
da, nguyên phụ liệu, cặp, túi xách, sữa chữa máy móc thiết bị) trong nước,
trong đó có 3 DN nhà nước, 103 DN ngoài quốc doanh, 9 DN liên doanh với
nước ngoài, 20 DN 100% vốn nước ngoài, 47 công ty cổ phần và 3 công ty
TNHH Nhà nước một thành viên.
Ngành da giày thế giới tiếp tục có xu hướng chuyển dịch sản xuất
sang các nước đang phát triển, đặc biệt hướng vào các nước có môi trường
đầu tư thuận lợi, chính trị ổn định và an toàn. Khi Việt Nam chính thức gia
nhập tổ chức thương mại thế giới, hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ, cùng
với các chính sách thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu của Chính phủ, Việt Nam sẽ
trở thành một địa điểm đầu tư lý tưởng cho các nhà sản xuất da giày
Hiện nay, giày dép của Việt Nam đã có mặt trên hơn 50 nước trên
khắp châu lục. Thị trường xuất khẩu tiềm năng của nhóm mặt hàng này là
các nước phát triển có sức mua lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc,
Hồng Kông, Hàn Quốc, Canada, Australia. Bên cạnh đó, còn có thể khai
thác các thị trường có sức mua không lớn nhưng chấp nhận hàng hoá phù
hợp với năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam như Indonesia,
Malayxia, Trung Đông, Châu Phi, Nam Á, Nga, các nước Đông Âu cũ…
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng năng lực xuất
khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn
chưa cao do mẫu mã chưa đẹp, chưa tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong
nước, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế,
giá thành chi phí sản xuất cao, ưu thế về nhân công lao động tuy vẫn là nhân
tố cạnh tranh, nhưng không còn thuận lợi như trước đây. Theo nhận định của

các chuyên gia kinh tế thì dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng lợi
nhuận thu về từ ngành này chỉ đạt mức 25% giá trị gia tăng, vì ngành này
chủ yếu vẫn là lấy công làm lãi.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đối với
sự phát triển của ngành da giày:
Gia nhập WTO tạo cho ngành da giày Việt Nam gia tăng các luồng chuyển
giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy giao lưu văn hoá, trí tuệ,
củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, phát triển văn minh vật chất và
tinh thần tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển thị trường quốc tế. Song,
hội nhập cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Các doanh nghiệp
sản xuất giày da Việt Nam đang gặp phải cạnh tranh gay gắt từ các thế lực
kinh tế mạnh trong khu vực và quốc tế như Brazil, Trung Quốc và một số
nước ASEAN.
CƠ HỘI
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần thúc đẩy các cơ hội phát triển
ngành da giày, việc chuyển giao công nghệ theo chu kỳ nhanh hơn phù hợp
với yêu cầu khắt khe của thị trường. Việc gia nhập tổ chức mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) tạo điều kiện việc giao lưu hàng hoá thông suốt, ít cản trở,
xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, ưu đãi về thuế quan tạo điều kiện cho ngành
hàng da giày thâm nhập vào thị trường khu vực.
Các thị trường XK giày dép VN năm 2008
EU 54%
Mỹ 23%
Đông Á 8%
Các nước khác 15%
Ngành da giày là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội. Tính đến hết
năm 2008, toàn ngành đã thu hút 610.000 lao động (chưa kể số lao động sản
xuất trong lĩnh vực nguyên phụ liệu và lao động tại các cơ sở nhỏ, các hộ gia
đình và các làng nghề có thể lên tới hơn 1 triệu lao động) chiếm 9% lực
lượng lao động công nghiệp. Đây có thể được coi là lợi thế so sánh với mức

chi phí nhân công thấp.
Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu
được chú trọng. Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng
cường tuyên truyền và quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như
một quốc gia sản xuất và xuất khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực
hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá
giá và vận dụng luật để đấu tranh trong các vụ tranh chấp thương mại.
Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có nhiều đổi mới, hình thành
nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh phân phối của các
tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện tử.
Với dân số trên 80 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng cho thị
trường nội địa. Mặt khác, với đời sống ngày càng được nâng cao, khả năng
mua sắm của xã hội ngày càng được cải thiện, đất nước ngày càng hội nhập
sâu rộng vào thế giới làm cho ngành du lịch phát triển là những cơ hội để
ngành da giày phát triển theo hướng xuất khẩu trực tiếp ngay trên sân nhà.
Chế độ xã hội ổn định và đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho doanh
nghiệp phát triển thông qua cơ chế chính sách phù hợp với tình hình trong
nước và thông lệ quốc tế.
Về thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu da giày Việt Nam ngày
càng được mở rộng và ổn định cụ thể:
Thị trường EU:
Trong những năm vừa qua, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng
trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hết năm 2008, EU vẫn
là thị trường lớn nhất tiêu thụ giày dép của Việt Nam với doanh thu 2,5 tỉ
USD, tăng 33,9% so với năm 2006 và chiếm 54% tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng giày dép của Việt Nam.
Thị trường Mỹ:
Năm 2004, Việt Nam đã vượt Italia và trở thành nhà cung cấp lớn thứ
tư sau Trung Quốc, Brazil, Indonesia. Trong năm 2008, xuất khẩu vào Mỹ 1
tỉ USD, tăng 30% so với năm 2006. Tháng 1/2009, xuất khẩu giày dép vào

Mỹ giảm 0,07% so với năm 2008, đạt 86,3 triệu USD, mặc dù vậy, đây vẫn
là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của toàn ngành. Hiện nay và trong những
năm tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu đối với sản phẩm giày dép
của Việt Nam và các sản phẩm xuất khẩu chính sẽ là giày thể thao, giày da
nam nữ.
Thị trường các nước Đông Á:
Đây là khu vực thị trường có những phong tục tập quán tương đối
giống Việt Nam, cùng nằm ở khu vực châu Á. Các sản phẩm chủ yếu xuất
khẩu từ Việt Nam sang các thị trường này là giày thể thao, giày da nam nữ,
dép đi trong nhà. Năm 2008, xuất khẩu vào: Nhật Bản đạt 137,6 triệu USD,
Trung Quốc đạt 107,2 triệu USD, Hàn Quốc đạt 64,3 triệu USD.
KHÓ KHĂN
Thách thức trước hết phải kể đến là sự cạnh tranh khốc liệt của Trung
Quốc, một đất nước có thế mạnh về mặt hàng giày dép. Gần đây Trung
Quốc là có thêm lợi thế với việc gia WTO. Mặt hàng giày dép xuất khẩu của
Trung Quốc có ưu thế hơn giày dép xuất khẩu của Việt Nam do trình độ
công nghệ của Trung Quốc tiên tiến hơn, mẫu mã của họ đẹp và đa dạng
hơn.
Tuy sức mua của thị trường truyền thống (EU) vẫn giữ ở mức ổn định
nhưng Việt Nam bị chịu nhiều sức ép hơn về thuế và các rào cản so với một
số nước như Brazil, Indonesia đặc biệt từ ngày 6 tháng 10 năm 2006, EU
áp thuế chống bán phá giá giày mũ da sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu sang
EU là 10%.
Xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng mạnh trong những năm gần đây
nhưng thị phần của Việt Nam cũng mới chỉ chiếm 2,1% về số lượng so với
83,5% của Trung Quốc.
Đối với các thị trường xuất khẩu khác như Liên bang Nga, các
nước Đông Âu, Trung Đông, châu Phi, tuy không yêu cầu cao về mẫu mã và
chất lượng nhưng hàng Việt Nam vẫn không thể thâm nhập mạnh vào thị
trường các nước này. Nhiều nước châu Phi đánh thuế nhập khẩu rất cao

thậm chí là cấm các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam làm cho
ngành da giày khó có thể thâm nhập vào thị trường này.
Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giày chiếm đến 80% giá trị
của sản phẩm trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Theo
Hiệp hội da giày Việt Nam, nhu cầu da thuộc năm 2007 của toàn ngành
khoảng 350 triệu feet vuông, trong khi đó các nhà máy thuộc da của Việt
Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam mới chỉ sản xuất và đáp ứng được
khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước, 80% còn lại phải nhập khẩu.
Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt
Nam mới chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây
giày nhưng lại “bỏ ngỏ” những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm
nhựa có xi mạ như khoen, móc, cườm, các vật trang trí trên giày, đặc biệt là
giày nữ và giày trẻ em.
Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc
doanh và có yếu tố nước ngoài, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành,
chứng tỏ năng lực ngành phụ thuộc hoàn toàn vào làn sóng đầu tư của tư bản
tư nhân trong nước và quốc tế.
Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi
dào do dân số trẻ, nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp,
trung bình trên 1 dây chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000
đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất lao động của người Nhật, 1/30 củaThái
Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của Indonesia.
Hiện nay trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở
mức trung bình và trung bình khá, song khá lệ thuộc vào nước ngoài về
trang bị máy móc. Khả năng đầu tư và chuyển giao công nghệ mới phụ
thuộc vào nguồn tài chính hạn hẹp, đội ngũ chuyên gia hiểu biết sâu và cập
nhật công nghệ còn quá ít và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của
doanh nghiệp, kinh nghiệm và khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng về công
nghệ còn hạn chế Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng
suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành trong thời gian

trước mắt cũng như lâu dài. Điều này còn dẫn đến việc ngành có nguy cơ
mất khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
TRIỂN VỌNG NĂM 2009 VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Dự báo kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sẽ tiếp tục tốc
độ tăng trên 10% mỗi năm, từ 4,7 tỷ USD năm 2008 lên 6,2 tỉ USD năm
2010.
Để phát triển tốt trong những năm tới, ngành da giày nên nghiên cứu
một số giải pháp như sau:
Hình thành chợ nguyên phụ liệu cho ngành dệt may và da giày để
phục vụ tốt cho hoạt động sản xuất của hai ngành này. Xem xét việc cho
phép các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư xây dựng và kinh doanh chợ
nguyên phụ liệu cho dệt may, da giày.
Tăng cường tìm kiếm bạn hàng, mở rộng thị trường ra những thị
trường mới, tăng cường ký kết hợp đồng xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở tăng
cường năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm và gia tăng tỷ lệ nguyên phụ liệu
trong nước tự đáp ứng được. Đẩy mạnh khai thác những thị trường ngách,
thị trường nhỏ nhưng chấp nhận mức giá cao và ưa thích các sản phẩm đặc
thù.
Đầu tư cho việc nghiên cứu mẫu, mã, mốt thời trang quốc tế, nắm bắt
kịp thời xu thế lớn trong ngành thời trang. Nhà sản xuất phải thể hiện được
phong cách riêng với khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm, phương thức kinh
doanh.
www.lefaso.org.vn/default.aspx

×