Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Tài liệu Đồ án tốt nghiệp APEC - Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.11 KB, 48 trang )

Đồ án tốt nghiệp
APEC - Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á
Thái Bình Dương
1
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU 3
B.NỘI DUNG 4
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN 4
II) TÔN CHỈ HOẠT ĐỘNG 12
III. CƠ CẤU TỔ CHỨC 14
IV. QUÁ TRÌNH RA NHẬP APEC VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM 26
V. VIỆT NAM – APEC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DOANH
NGHIỆP 34
2
APEC - DIỄN ĐÀN HỢP TÁC KINH TẾ
CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG
LỜI MỞ ĐẦU
Cho tới nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được 12 năm. Trong những năm qua,
Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia các chương trình hợp tác thương mại,
đầu tư trong APEC, mở rộng quan hệ với từng thành viên. Năm 2006, Việt Nam
trở thành nước chủ nhà của APEC với việc tổ chức trên 100 Hội nghị, hội thảo từ
cấp chuyên viên đến cấp Bộ trưởng để chuẩn bị cho Hội nghị các nhà Lãnh đạo
Kinh tế APEC được tổ chức vào tháng 11/2006.
Để có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng theo đường lối của.Đảng
và Nhà nước, đồng thời giúp các doanh nghiệp khai thác các cơ hội kinh
doanh từ việc đăng cai tổ chức APEC 2006, chúng ta đã và đang từng bước khẳng
định vị thế của mình trên trường quốc tế nói chung và trên diễn đàn nói riêng.
Để thấy được tầm quan trọng và ảnh hưỏng của APEC tới các nền kinh tế của
thế giới và đặc biệt là các nền kinh tế thành viên trong diễn đàn ta lần lượt đi tìm hiểu
sơ bộ về cơ cấu tổ chức cũng như hoạt động của diễn đàn.


Biểu tượng của APEC
3
B.NỘI DUNG
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
1. Bối cảnh lịch sử
- Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) ra đời trong
bối cảnh nền kinh tế quốc tế đang đương đầu với những thách thức lớn: chủ nghĩa
toàn cầu vốn phát triển mạnh sau thế chiến thứ hai bắt đầu gặp phải những khó khăn
nan giải với nhiều vấn đề bế tắc trong tiến trình đàm phán Hiệp Uruguay/WTO; chủ
nghĩa khu vực hình thành và phát triển mạnh; khủng hoảng kinh tế trong những năm
1980 đặt ra những đòi hỏi có tính khách quan cần tập hợp lực lượng của những nền
kinh tế trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương để đương đầu với cạnh tranh quốc
tế gay gắt. APEC ra đời là kết quả hội tụ của các yếu tố trên nhằm khắc phục những
khó khăn của chủ nghĩa toàn cầu, đồng thời nhằm liên kết các nền kinh tế phát triển
trong khu vực như Mỹ, Canađa, Australia, Nhật Bản, các nền kinh tế công nghiệp mới
như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và các nước đang phát triển như Trung Quốc,
ASEAN lại với nhau, đưa khu vực này trở thành động lực cạnh tranh mạnh của nền
kinh tế thế giới.
2. Qúa trình hình thành
Ngay từ những năm 1960, ý tưởng về liên kết kinh tế khu vực đã được một số
học giả người Nhật Bản đưa ra. Năm 1965, hai học giả người Nhật Bản Kojima và
Kurimoto đã đề nghị thành lập một "Khu vực mậu dịch tự do Thái Bình Dương" mà
thành viên gồm năm nước công nghiệp phát triển, có thể mở cửa cho một số thành
viên liên kết là các nước đang phát triển ở khu vực lòng chảo Thái Bình Dương. Sau
đó, một số học giả khác như Tiến sĩ Saburo Okita (cựu Ngoại trưởng Nhật Bản) và
Tiến sĩ John Crawford (Đại học Tổng hợp Quốc gia Ôt-xtrây-lia) đã sớm nhận thức
được sự cần thiết phải xây dựng sự hợp tác có hiệu quả về kinh tế ở khu vực. Tư
tưởng này đã thúc đẩy những nỗ lực hình thành Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình
Dương (PECC) năm 1980. Chính PECC sau này đã cùng với ASEAN đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành chế độ tư vấn kinh tế rộng rãi giữa các nền kinh tế

trong khu vực cũng như thúc đẩy ý tưởng thành lập APEC.
- Vào cuối những năm 1980, một số quan chức chính phủ Nhật Bản, đặc biệt Bộ
trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp (MITI) lúc đó là Hajime Tamura, đã gợi ý
4
thành lập một diễn đàn hợp tác có tính chất kỹ thuật về các vấn đề kinh tế khu vực.
Mỹ lúc đầu tỏ ra ít quan tâm đến gợi ý này vì đang tập trung thúc đẩy tiến triển của
vòng đàm phán U-ru-goay của GATT và hình thành Khu vực Mậu dịch Tự do Bắc
Mỹ (NAFTA), trong khi chính phủ Công Đảng của Thủ tướng Bob Hawke ở Ôt-
xtrây-lia lúc đó đã nhận thức được tầm quan trọng thiết yếu của mối quan hệ kinh tế,
thương mại với châu Á đối với Ôt-xtrây-lia nên đã kịp thời nắm bắt và thúc đẩy ý
tưởng về một diễn đàn hợp tác kinh tế.
- Tháng 1 năm 1989, tại Xê-un, Hàn Quốc, Thủ tướng Bob Hawke đã nêu ý
tưởng về việc thành lập một Diễn đàn tư vấn kinh tế cấp Bộ trưởng ở châu Á - Thái
Bình Dương với mục đích phối hợp hoạt đjộng của các chính phủ nhằm đẩy mạnh
phát triển kinh tế ở khu vực và hỗ trợ hệ thống thương mại đa phương. Australia, Nhật
Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Singapore, Brunei, New Zealand,
Indonesia, Canada và Mỹ đã ủng hộ sáng kiến này. Tháng 11 năm 1989, các Bộ
trưởng Ngoại giao và Kinh tế của các nước nói trên đã họp tại Can-bê-ra, Ôt-xtrây-lia
quyết định chính thức thành lập APEC.
- Sau đó, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Công và Đài Loan (với tên gọi
theo tiếng Anh là Chinese Taipei) vào tháng 11 năm 1991; Mexico, Papua New Ghine
tháng 11 năm 1993; Chile tháng 11 năm 1994 và tạm ngừng thời hạn xét kết nạp
thành viên trong ba năm. Đến tháng 11 năm 1998, APEC kết nạp thêm ba thành viên
mới là Peru, Liên bang Nga và Việt Nam, đồng thời quyết định tạm ngừng thời hạn
xem xét kết nạp thành viên mới trong mười năm để củng cố tổ chức.
- Đến nay APEC đã có 21 nước thành viên, bao gồm cả hai khu vực kinh tế
mạnh và năng động nhất thế giới: khu vực Đông Á và khu vực Bắc Mỹ (gồm Mỹ, Ca-
na-đa và Mê-hi-cô) với những nét đặc thù và vô cùng đa dạng về chính trị, xã hội,
kinh tế và văn hóa. Chỉ trong mười năm đầu tồn tại và phát triển, các nền kinh tế
thành viên APEC đã đóng góp gần 70% cho sự tăng trưởng chung của nền kinh tế

toàn cầu.
- So với toàn thế giới, APEC có vị trí quan trọng, diện tích chiếm 46%, dân số
chiếm 41,2%(với khoảng 2,5 tỷ dân), mật độ dân số bằng 89,8%, GDP chiếm
57,7%(19.000 tỷ đô la Mỹ mỗi năm), GDP bình quân đầu người bằng 140,1%, chiếm
47% thương mại thế giới, xuất khẩu chiếm 50,1%, xuất khẩu bình quân đầu người
bằng 121,7%. Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP đạt 19,1%, tuy thấp hơn tỷ lệ 22% của thế
giới, nhưng lại có những thành viên đạt rất cao, như: Singapore 196,5%; Hồng Kông;
163,3%; Malaysia 121,2%; Brunei 74,5%; Thái Lan; 67,7%; Việt Nam 59,6%; Đài
Loan 53%
5
- Trong số 14 nền kinh tế lớn nhất thế giới có GDP lớn hơn 500 tỷ USD (Mỹ,
Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp, Trung Quốc, Italia, Canada, Tây Ban Nha, Mexico, Hàn
Quốc, Ấn Độ, Australia, Hà Lan), thì có 7 là thành viên của APEC, trong đó có 2 nền
kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, Nhật Bản. Đặc biệt, gần đây Trung Quốc với tốc độ
kinh tế liên tục tăng cao và tăng trong thời gian dài kỷ lục…
3. Sự gia nhập của các nền kinh tế thành viên
3.1 Các nền kinh tế thành viên

Thứ tự Ngày Quốc gia Địa điểm Trang chủ
1.
6–7 tháng 11
năm 1989
Úc Canberra
2.
29–31 tháng 7
năm 1990
Singapore
3.
12–14 tháng 11
năm 1991

Hàn Quốc Seoul
4.
10–11 tháng 9
năm 1992
Thái Lan Bangkok
5.
19–20 tháng 11
năm 1993
Hoa Kỳ Seattle
6.
15 tháng 11 năm
1994
Indonesia Bogor
7.
19 tháng 11 năm
1995
Nhật Bản Osaka
8.
25 tháng 11 năm
1996
Philippines
Manila /
Subic
9.
24–25 tháng 11
năm 1997
Canada Vancouver
10.
17–18 tháng 11
năm 1998

Malaysia
Kuala
Lumpur
11.
12–13 tháng 9
năm 1999
New Zealand Auckland
12.
15–16 tháng 11
năm 2000
Brunei
Darussalam
13. 20–21 tháng 10 Cộng hòa Nhân Thượng
6
năm 2001 dân Trung Hoa Hải
14.
25–27 tháng 10
năm 2002
Mexico Los Cabos
15.
20–21 tháng 10
năm 2003
Thái Lan Bangkok
16.
20–21 tháng 11
năm 2004
Chile
Santiago
de Chile


17.
18–19 tháng 11
năm 2005
Hàn Quốc Busan />18.
18-19 tháng 11
năm 2006
Việt Nam Hà Nội
19.
Tháng 11 năm
2007
Úc Sydney />20.
Tháng 11 năm
2008
Peru Lima />21.
Tháng 11 năm
2009
Singapore Singapore />22.
Tháng 11 năm
2010
Nhật Bản Yokohama
23. 2011 Hoa Kỳ Honolulu
24. 2012 Nga
Đảo
Russky

3.2 Đặc điểm của các nền kinh tế thành viên khi gia nhập
1. Australia
- Tốc độ tăng GDP nhỉnh hơn một chút so với Mỹ, Đức, Pháp. Xếp hạng 3 trên
thế giới về tốc độ phát triển con người năm 2007, tài khoản hiện tại âm hơn 7% GDP.
Phát triển ở mức trung bình 3.6% mỗi năm cho hơn 15 năm. Trong thập kỷ vừa qua,

lạm phát thông thường là 2-3 %, lãi suất cơ bản là 5-6%.
- APEC ủng hộ tích cực cho việc mở cửa thương mại và miễn thuế, đầu tư trong
điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế của Australia.
Tổ chức lãnh đạo cấp cao của APEC tập hợp nguồn sức mạnh và là một trong những
cuộc họp quan trọng hàng năm của thế giới, là một phần không thể thiếu bảo đảm cho
sự an ninh và ổn định của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
2. Trung Quốc
7
- Khi “cơn bão” tài chính tiền tệ năm 1997 tác động nặng nề đối với nền kinh tế
của nhiều quốc gia Đông Á, Trung Quốc đã chấp nhận để mức thu ngân sách giảm
xuống còn 14% GDP; cam kết không phá giá đồng NDT, nhờ đó vẫn đảm bảo nhịp
tăng trưởng GDP hàng năm trên 8%. Kết quả, Trung Quốc đã thành công trong việc
tránh được cuộc khủng hoảng này.
Năm 2005 là năm kết thúc Kế hoạch 5 năm lần thứ 10 của Trung Quốc. Kế
hoạch 5 năm lần thứ 11 (2006-2010) đề ra những mục tiêu chủ yếu trong việc phát
triển kinh tế và xã hội như sau: tăng trưởng GDP đạt mức 8%; tạo ra 9 triệu việc làm
mới ở thành thị; tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giữ ở mức 4,6%; chỉ số giá cả không tăng
hơn 4% và giữ cán cân ổn định trong thanh toán quốc tế. Đại hội Đảng Cộng sản
Trung Quốc lần thứ 16 (2002) chỉ rõ: tổng sản phẩm quốc nội đến năm 2020 sẽ tăng
gấp ba Lần so với năm 2000, nâng cao đáng kể vị thế kinh tế và sức cạnh tranh quốc
tế của Trung Quốc.
3. Hong Kong
- Hong Kong có nền kinh tế quốc tế hóa cao độ, môi trường kinh doanh thuận
lợi,thể chế pháp luật kiện toàn, thị trường tự do cạnh tranh, hệ thống mạng lưới tiền tệ,
tài chính,chứng khoán rộng khắp,cơ sở hạ tầng tốt, hệ thống giao thông, dịch vụ hoàn
chỉnh. “Báo cáo tình hình đầu tư của thế giới năm 2004” của Hội nghị Phát triển và
Mậu dịch LHQ xem Hong Kong là hệ thống kinh tế tốt nhất thứ hai của Châu Á về
thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
4. Nhật Bản
- Từ 1974 đến nay tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp tục là một

nước có nền kinh tế công nghiệp, tài chính, thương mại, dịch vụ, khoa học kỹ thuật
lớn đứng thứ hai trên thế giới (chỉ sau Mỹ). Nhưng trong những năm 1997-1998, Nhật
Bản lại gặp khó khăn lớn, tập trung vào các bê bối trong hệ thống ngân hàng và thị
trường địa ốc.
- Khu vực các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn do tính cứng nhắc
trong cơ cấu công ty và thị trường lao động. Sau đó, Nhật Bản xúc tiến 6 chương trình
cải cách lớn; trong đó có cải cách cơ cấu kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách, cải cách
khu vực tài chính và sắp xếp lại cơ cấu Chính phủ Dù diễn ra chậm, nhưng cải cách
đang đi dần vào quỹ đạo, trở thành xu thế không thể đảo ngược ở Nhật Bản và gần
đây đã đem lại kết quả đáng khích lệ.
8
- Cán cân thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ hiện đứng hàng đầu thế giới,
nên nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều. Nhật Bản là nước có nhiều tập đoàn tài
chính, ngân hàng đứng hàng đầu thế giới. Mặc dù vậy, Nhật Bản có 2 vấn đề dài hạn
chính cần được giải quyết sớm là mật độ dân cư quá cao và xu thế lão hoá của dân cư
đang tăng lên.
5. Hàn Quốc
- Bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ XX, kinh tế Hàn Quốc bắt đầu phát triển với
tốc độ nhanh, đến giữa thập niên 80 đã trở thành nước công nghiệp phát triển mới
(NICS). Đặc điểm của nền kinh tế Hàn Quốc là một nền kinh tế thị trường nhưng sự
điều tiết của Nhà nước đóng vai trò quan trọng.
- Tháng 2-2003, Tổng thống Rô Mu Hiên công bố chính sách và mục tiêu kinh tế
mới: về lâu dài, xây dựng ổn định và thịnh vượng trên bán đảo Triều Tiên; biến Hàn
Quốc thành một trung tâm kinh doanh của khu vực Đông Bắc Á; đổi mới quản lý
chính phủ; tăng quyền lực cho chính quyền địa phương; cân bằng sự phát triển giữa
các khu vực địa lý, xây dựng hệ thống phúc lợi tập thể với việc giảm bớt khoảng cách
giàu nghèo; cải cách chế độ lao động; cải cách khu vực nông nghiệp - thủy hải sản;
lấy khoa học và kỹ thuật là trọng tâm; xây dựng thủ đô hành chính mới.
6. Philippines
- Philippines là một nền kinh tế kết hợp giữa nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và

dịch vụ. Từng là quốc gia giàu có thứ hai ở jChâu Á ( sau Nhật Bản), Philippines dần
trở thành một trong những nước nghèo nhất trong vùng từ khi giành lại độc lập năm
1946. Quá trình phục hồi kinh tế của nước này đã diễn ra khá mạnh mẽ, nhưng so với
các nước Đông Á khác, tốc độ này vẫn còn hạn chế.
- Trong thời kỳ đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1998,
kinh tế Philippines đã bị ảnh hưởng rất nhiều. Điều này càng trầm trọng hơn vì giá cả
tăng cao, lạm phát, và thiên tai. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế giảm từ 5% năm 1997 xuống
0,6% năm 1998; sau đó đã hồi phục vào khoảng 3% năm 1999 và 4% năm 2000 và tới
năm 2004, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đạt hơn 6% .
- Đồng Peso Philippines được đánh giá là đồng tiền được quản lý tốt nhất năm
2005. Một luật thuế giá trị gia tăng (E-VAT) mở rộng mới đã được áp dụng từ ngày 1-
9
11-2005, như một biện pháp nhằm cắt giảm nợ nước ngoài và cải thiện các dịch vụ
trong lĩnh vực giáo dục, sức khoẻ, phúc lợi xã hội, và xây dựng đường sá.
7. Russia (LB Nga)
- LB Nga có tiềm năng kinh tế rất lớn. Chiếm 3% dân số thế giới, Nga có nguồn
năng lượng lớn nhất thế giới, chiếm 13% tổng trữ lượng dầu mỏ và 34% trữ lượng khí
đốt của thế giới đã được phát hiện. Nga đứng đầu thế giới về xuất khẩu khí đốt và
đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu dầu mỏ.
- Sản lượng điện của Nga chiếm 12% tổng sản lượng điện toàn cầu. Hiện nay
Tổ hợp nhiên liệu - năng lượng Nga là một trong những tổ hợp quan trọng nhất và
phát triển nhanh nhất trong nền kinh tế Nga, chiếm khoảng 1/4 GDP, 1/3 sản lượng
công nghiệp và 1/2 nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
- Ngoài dầu mỏ, khí đốt và vàng, Nga có sản lượng khai thác kim cương đứng
đầu thế giới. Sản lượng kim cương của Nga đạt 33,019 triệu cara, trị giá 1,676 tỷ
USD. Đặc biệt, đến ngày 21-8-2006, Nga đã trả hết 21,3 tỷ USD nợ của 18 nước
thành viên Câu lạc bộ Paris. Nga dự kiến trả hết số nợ thời Liên Xô cũ trong năm
2006.
- Bên cạnh đó, nhằm tăng vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế,
Chính phủ Nga đang thúc đẩy quá trình tái quốc hữu hóa các doanh nghiệp lớn, trước

hết thuộc khu vực năng lượng từng mang lại gần một nửa lợi nhuận về thuế và giá trị
xuất khẩu. Quá trình tái quốc hữu hóa nền kinh tế Nga tuy có gây tâm lý lo ngại cho
một số người; nhưng cho tới nay vẫn không gây ra tác động tiêu cực nào đối với tăng
trưởng kinh tế Nga cũng như việc các nhà đầu tư phương Tây đang quay trở lại đầu tư
vào Nga.
- Chính phủ LB Nga thông qua Chương trình phát triển kinh tế - xã hội trung
hạn 2006-2008, hướng mạnh vào 4 trọng điểm ưu tiên trong các lĩnh vực y tế, giáo
dục, nhà ở và phát triển nông thôn với tổng số vốn đầu tư của Nhà nước 160 tỷ Rúp,
cùng với những giải pháp tăng thu nhập cho người lao động. Sức mua của người dân
tăng, thị trường tiêu dùng sôi động và các nhà phân tích kinh tế đã nói đến sự bùng nổ
tiêu dùng ở Nga.
8. Singapore
10
- Singapore có nền kinh tế thị trường tự do, Chính phủ nắm vai trò chủ đạo. Là
một trong những nền kinh tế thịnh vượng nhất thế giới, Xingapo trở thành đầu mối
giao lưu thương mại quốc tế quan trọng (cảng biển Singapore là một trong những
cảng biển trọng tải lớn tấp nập nhất thế giới). Sau giai đoạn chịu ảnh hưởng nặng nề
của suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2001-2003, GDP thực tế năm 2004 của
Singapore tăng mức kỷ lục 8%. Chính phủ đang cố gắng hướng đến việc xây dựng
một nền kinh tế ít bị tác động bởi những biến động bên ngoài và trở thành trung tâm
tài chính và công nghệ cao của Đông Nam Á.
9. Thái Lan
- Thái Lan là một nước nông nghiệp truyền thống. Bắt đầu từ năm 1960, Thái
Lan thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội lần thứ nhất và đến nay là kế hoạch
lần thứ chín. Những năm 1970, nước này thực hiện chính sách 'hướng xuất khẩu':
ASEAN, Mỹ, Nhật, Châu Âu là thị trường xuất khẩu chính của Thái Lan. Ngành công
nghiệp và dịch vụ đã dần dần đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và vai trò của
nông nghiệp giảm dần.
- Từ 1988 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan đạt tốc độ tăng trưởng cao từ 8% đến
10%. Nhưng đến năm 1996 tăng trưởng kinh tế giảm xuống còn 5,9% và sau đó là

cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tháng 7-1997 làm cho kinh tế Thái Lan rơi vào tình
trạng khó khăn trầm trọng. Kể từ năm 1999, kinh tế Thái Lan bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi và 5 năm gần đây (2000-2005), tiếp tục quá trình phục hồi nhằm hướng tới
sự phát triển bền vững.
10. United States of America (Hợp chủng quốc Hoa Kỳ)
- Nước Mỹ có một nền kinh tế mạnh, đa dạng và công nghệ tiến tiến hàng đầu
thế giới, với GDP bình quân đầu người đứng đầu trong các quốc gia công nghiệp chủ
chốt.
- Trong nền kinh tế này, các cá nhân và doanh nghiệp tư nhân tự quyết định các
hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ của mình. Chính phủ là người đặt hàng
hoặc mua trực tiếp các loại hàng hoá và dịch vụ cần thiết chủ yếu trên thị trường tư
nhân. Các doanh nghiệp Mỹ có tính thích ứng cao hơn nhiều so với các đối tác của họ
ở Tây Âu và Nhật Bản trong việc quyết định phương án kinh doanh như mở rộng nhà
11
máy, giảm bớt công nhân thừa và triển khai các sản phẩm mới. Các công ty của Mỹ
luôn dẫn đầu trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, y tế, vũ trụ và kỹ thuật quân sự.
- Các vấn đề dài hạn cần xử lý của nước Mỹ bao gồm đầu tư chưa thích đáng
trong cơ sở hạ tầng kinh tế, chi phí y tế tăng nhanh do sự lão hoá của dân cư, thâm hụt
đáng kể về thương mại và sự đình trệ của thu nhập gia đình trong các nhóm dân cư ở
tầng lớp lao động bậc thấp của nền kinh tế.
11. Việt Nam
- Trải qua 20 năm, đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, “công cuộc đối mới đã
đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của
đất nước, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.
- Việt Nam từng bước làm cho nền kinh tế sống động, sức sản xuất phát triển
khá nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải
thiện.
- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%/năm. Cơ cấu kinh tế ngành, vùng
có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng công
nghiệp và xây dựng trong GDP năm 1998 chiếm 21,6%, đến năm 2005 tăng lên 41%;

tỷ trọng nông nghiệp năm 1998 chiếm 43,6%, đến năm 2005 còn 20,5%; tỷ trọng dịch
vụ năm 1998 chiếm 33,1%, đến năm 2005 tăng lên 38,5%. Các thành phần kinh tế
cùng phát triển. Hiện nay, kinh tế Nhà nước đóng góp 8% GDP; kinh tế tư nhân chiếm
37,7% GDP; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15% GDP. Rất nhiều khu công
nghiệp mới, đô thị mới mọc lên. Hạ tầng cơ sở phát triển mạnh; bộ mặt nông thôn và
đô thị thay đổi hàng ngày, hàng giờ. Hàng hóa phong phú, thị trường nhộn nhịp.
II) TÔN CHỈ HOẠT ĐỘNG
- Các thành viên APEC thuộc nhiều khu vực và trình độ phát triển kinh tế khác
nhau. Việc các quốc gia này cùng hợp tác nhằm duy trì và phát triển kinh tế đã phản
ánh xu hướng cùng tiến tới một mục tiêu chung, bất chấp những khác biệt về kinh tế,
chính trị và điạ lý. Trong tuyên bố Seoul 1991, các thành viên đã nhất trí về các mục
tiêu cụ thể cuả APEC, bao gồm:
- Thứ nhất, thúc đẩy sự tự do hóa thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên
thuộc APEC bằng cách các nước sẽ tự nguyện đưa ra chương trình cắt giảm thuế quan và
12
các biện pháp phi thuế, lịch trình cắt giảm muộn nhất là năm 2010 đối với nước công
nghiệp phát triển, năm 2020 đối với các nước chậm và đang phát triển.
- Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và đầu tư phát triển. Các nước
thành viên thuộc APEC thực hiện cuộc cải cách hành chính theo những tiêu chuẩn
chung nhằm thống nhất và công khai thủ tục xuất nhập khẩu, đơn giản hóa thủ tục đầu
tư, thủ tục hải quan tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại và đầu tư phát
triển.
- Thứ ba, đẩy mạnh hợp tác kinh tế và kỹ thuật trên 15 lĩnh vực: Phát triển nguồn
nhân lực; Khoa học kỹ thuật ứng dụng trong công nghiệp; Hỗ trợ phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ; Hỗ trợ đầu tư để phát triển hạ tầng cơ sở về kinh tế, năng lượng;
Vận tải viễn thông và thông tin; Phát triển du lịch; Tạo cơ sở dữ liệu thông tin cho
hoạt động đầu tư và thương mại; Hợp tác nghiên cứu năng lượng mới; Hợp tác bảo
tồn nguồn tài nguyên biển, thúc đẩy nghề cá và kỹ thuật nông nghiệp
Hoạt động của APEC dựa trên 9 nguyên tắc sau:
+ Toàn diện: Tiến trình tự do hoá và thuận lợi hoá trong APEC sẽ được triển khai

trên tất cả các lĩnh vực kinh tế để giải quyết tất cả các hình thức cản trở mục tiêu lâu
dài của APEC là tự do hoá thương mại và đầu tư;
+ Phối hợp với WTO: Các biện pháp áp dụng trong APEC phải phù hợp với những
cam kết đã đạt được của WTO;
+ Đảm bảo môi trường tương xứng: Việc thực hiện tự do hoá, thuận lợi hoá
thương mại và đầu tư có xét đến mức độ tự do hoá, thuận lợi hoá cụ thể ở mỗi nước để
đảm bảo môi trường tương xứng;
+ Thực hiện chủ nghĩa khu vực mở, không phân biệt đối xử
+ Đảm bảo sự công khai rõ ràng mọi luật lệ, chính sách hiện hành tại các nước
thành viên APEC;
+ Lấy mức độ bảo hộ hiện tại làm mốc chỉ giảm chứ không tăng thêm các biện
pháp bảo hộ;
+ Tiến trình tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư của APEC được các
thành viên đồng loạt triển khai thực hiện liên tục, với những thời gian biểu khác
13
nhau. Mọi thành viên APEC đều bình đẳng, mọi quyết định đều đạt được nhờ sự nhất
trí chung, tôn trọng quan điểm của các nước tham gia;
+ Linh hoạt trong việc thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư vì trình độ phát
triển của các nước APEC không bằng nhau;
+ Hợp tác: APEC chủ trương hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật để thúc đẩy kinh
tế tăng trưởng và phát triển bền vững
III. CƠ CẤU TỔ CHỨC
1. Cấp chính sách
a. Hội nghị không chính thức các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC (AELM)
- Hội nghị các nhà Lãnh đạo cao nhất của các thành viên APEC được tổ chức
hàng năm bắt đầu từ năm 1993.Tháng 11 năm 1993 tại Seattle (Mỹ) theo sáng kiến
của Tổng thống Mỹ Bin Clintơn,lần đầu tiên trong lịch sử,14 vị nguyên thủ quốc gia
và đứng đầu chính phủ của các thành viên APEC đã gặp gỡ , trao đổi về các vấn đề
kinh tế. Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ nhất đã nâng vị thế của APEC lên tầm cao
mới trên trường quốc tế, như Tuyên bố chung của các nhà Lãnh đạo khẳng định:

"Cuộc họp của chúng ta phản ánh sự nổi lên của một tiếng nói mới cho khu vực châu
Á - Thái Bình Dương trong các vấn đề quốc tế".
- Để tăng cường hơn nữa cam kết ở cấp Lãnh đạo cao nhất của các thành viên
đối với các mục tiêu và tiến trình của APEC, kể từ năm 1993, các thành viên APEC
đã nhất trí tổ chức Hội nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC mỗi năm một lần vào dịp
cuối năm, năm 2003 là Hội nghị lần thứ 11 được tổ chức tại Băng-cốc, Thái Lan vào
tháng 10. Việc lập ra cơ chế Hội nghị Cấp cao thường niên với tư cách là cơ quan
quyết định chính sách cao nhất của APEC đánh dấu một bước tiến quan trọng trong sự
phát triển của APEC.
b. Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC
- Hội nghị Bộ trưởng APEC họp lần đầu tiên tại Can-bê-ra, Ôt-xtrây-lia tháng 11
năm 1989 với sự tham gia của các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế của 12
nền kinh tế thành viên. Hội nghị Bộ trưởng được tổ chức hàng năm theo nguyên tắc
luân phiên giữa các nước thành viên APEC. Thành viên đăng cai tổ chức Hội nghị Bộ
trưởng hàng năm sẽ giữ ghế Chủ tịch Hội nghị.
14
- Hội nghị Bộ trưởng APEC quyết định phương hướng hoạt động của APEC và
ấn định thời gian thực hiện chương trình hành động cho năm sau. Các quyết định của
Hội nghị được thể hiện trong Tuyên bố chung, bao gồm:
- Quyết định về các vấn đề tổ chức: xác định mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của
APEC; thành lập các uỷ ban, hội đồng ; thành lập quỹ APEC và qui định tỷ lệ đóng
góp của các thành viên; vấn đề kết nạp thành viên mới.
Quyết định nguyên tắc, mục tiêu, nội dung các chương trình hoạt động và
đánh giá tiến trình hợp tác của APEC cũng như công tác của các Uỷ ban, các Nhóm
công tác và các Nhóm đặc trách.
Xem xét , đánh giá việc thực hiện các sáng kiến của Hội nghị Cấp cao Không
chính thức.
Thông qua dự thảo chương trình hành động về tự do hóa thương mại và đầu tư,
sau đó đệ trình lên Hội nghị Cấp cao xem xét và quyết định cuối cùng.
2. Cấp làm việc

a. Hội nghị các Quan chức Cao cấp (SOM)
- Hội nghị này được tổ chức thường kỳ giữa hai Hội nghị Bộ trưởng hàng năm
nhằm chuẩn bị và đưa ra các khuyến nghị trình Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề tổ
chức, chương trình hoạt động của APEC, chương trình hành động tiến tới tự do hóa
thương mại và đầu tư, kế hoạch hành động của các nền kinh tế thành viên và các
chương trình hợp tác kinh tế, khoa học - công nghệ của APEC, xem xét và điều phối
ngân sách và chương trình công tác của các Uỷ ban, các Nhóm công tác và Nhóm đặc
trách.
- Trước Hội nghị Quan chức Cao cấp, sẽ có các cuộc họp của các Nhóm công
tác liên quan gồm đại diện cho các thành viên APEC để chuẩn bị những nội dung cần
thiết báo cáo lên Hội nghị các Quan chức Cao cấp.
- Hội nghị các Quan chức Cao cấp có trách nhiệm thúc đẩy tiến trình APEC phù
hợp với các quyết định của Hội nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế, Hội nghị Bộ trưởng và
chương trình hành động thông qua tại hội nghị này.
b. Uỷ ban Thương mại và Đầu tư
- Uỷ ban Thương mại và Đầu tư (CTI) được thành lập năm 1993 trên cơ sở
Tuyên bố về "Khuôn khổ hợp tác và đầu tư" của Hội nghị Bộ trưởng. Uỷ ban Thương
mại và Đầu tư có nhiệm vụ thúc đẩy hợp tác về tự do hóa thương mại và tạo môi
trường đầu tư cởi mở hơn giữa các nền kinh tế thành viên. Uỷ ban Thương mại và
Đầu tư soạn thảo báo cáo hàng năm trình Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề liên quan
15
tới thương mại và đầu tư trong khu vực đồng thời chỉ đạo các Tiểu ban và Nhóm
chuyên gia trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể. Uỷ ban Thương mại và Đầu tư
là một trong số các cơ quan chủ chốt của APEC giúp thực hiện Kế hoạch Hành động
Ô-xa-ca và Kế hoạch Hành động Manila (MAPA) trong một số lĩnh vực như Thuế
quan và các biện pháp phi quan thuế, Dịch vụ, Giảm bớt các quy định, Hoà giải tranh
chấp, Thực hiện kết quả Vòng đàm phán U-ru-goay, Đầu tư, Thủ tục Hải quan, Tiêu
chuẩn và Hợp chuẩn, Đi lại của Doanh nhân, Sở hữu trí tuệ, Chính sách Cạnh tranh,
Chi tiêu chính phủ, Quy định nguồn gốc xuất xứ. Để có thể thực hiện tốt vai trò của
mình trong 15 lĩnh vực hợp tác quan trọng trên của APEC, mỗi năm Uỷ ban Thương

mại và Đầu tư nhóm họp ba lần và đây đã thực sự trở thành một diễn đàn hiệu quả đối
với các nền kinh tế thành viên để trao đổi các vấn đề về thương mại và chính sách.
c. Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật
- Tiểu ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật (ESC) được thành lập năm 1998
nhằm hỗ trợ Hội nghị Quan chức Cao cấp (SOM) trong việc phối hợp và quản lý các
hoạt động hợp tác kinh tế-kỹ thuật (ECOTECH) và triển khai các sáng kiến hợp tác
trong lĩnh vực này của các nền kinh tế thành viên APEC. Mới đầu đây chỉ là Tiểu ban
về ECOTECH, năm 2002 đổi tên thành Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật
(ESC). Bằng việc thúc đẩy hợp tác và xác định những lĩnh vực ưu tiên trong khuôn
khổ hợp tác ECOTECH, Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật cùng với các diễn
đàn khác trong APEC giữ vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các mục tiêu tăng
trưởng kinh tế và phát triển bền vững của APEC.
- Tại Hội nghị các Quan chức Cao cấp tháng 2 năm 2003, các thành viên APEC
đã nhất trí thông qua bốn lĩnh vực ưu tiên của ECOTECH trong thời gian tới là: Hội
nhập vào nền kinh tế toàn cầu; Xây dựng năng lực chống khủng bố; Đẩy mạnh và
phát triển kinh tế tri thức và Giải quyết những tác động xấu của Toàn cầu hóa.
- Muốn thúc đẩy hợp tác trong khuôn khổ ECOTECH cần có sự hỗ trợ đắc lực
của các thể chế tài chính, bởi vậy Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật đang tiến
hành nghiên cứu cách thức để APEC có thể tăng cường hợp tác cùng có lợi với các tổ
chức tài chính quốc tế cũng như các tổ chức quốc tế khác trong lĩnh vực Hợp tác Kinh
tế-Kỹ thuật, đặc biệt là hợp tác về chuyên gia kỹ thuật và xây dựng năng lực giữa các
thành viên APEC; đồng thời không ngừng tăng cường phối hợp giữa Uỷ ban SOM về
Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật với các diễn đàn khác của APEC.
d. Uỷ ban Kinh tế
- Uỷ ban Kinh tế (EC) được thành lập tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ sáu
tháng 11 năm 1994 để thực hiện việc nghiên cứu các xu hướng và vấn đề kinh tế
16
thông qua các chỉ số kinh tế cơ bản. Uỷ ban Kinh tế là một diễn đàn thúc đẩy đối thoại
giữa các nền kinh tế thành viên về các vấn đề kinh tế, dự báo, xu hướng kinh tế trong
khu vực để tạo ra một khung cảnh rộng hơn cho sự hợp tác trong APEC. Hoạt động

của Uỷ ban đóng vai trò quan trọng, hỗ trợ cho việc soạn thảo chính sách trong các
diễn đàn khác của APEC.
- Trước đây khi chưa có Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật, Uỷ ban
Kinh tế có nhiệm vụ chuẩn bị Báo cáo về Hợp tác kinh tế và kỹ thuật trong APEC, tập
trung vào những vấn đề năng lượng, môi trường, cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân
lực, dân số, phát triển bền vững, thương mại và đầu tư. Trong lĩnh vực tự do hóa
thương mại và đầu tư, các dự án nghiên cứu của Uỷ ban bao gồm: nghiên cứu tác
động về mặt kinh tế của quá trình tự do hóa thương mại, tác động của tự do hóa đầu tư
và các nguyên tắc tự do hóa đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài và các chính sách
cạnh tranh, chính sách sở hữu trí tuệ, hợp tác tiểu khu vực và tác động của nó tới
APEC. Hiện nay, Uỷ ban Kinh tế đang xúc tiến nghiên cứu một số vấn đề kinh tế và
hợp tác kinh tế, trong đó bao gồm triển vọng kinh tế khu vực hàng năm và vai trò của
các thể chế tài chính; thuận lợi và khó khăn cũng như lợi ích của việc cơ cấu nền kinh
tế; các vấn đề liên quan đến Kinh tế mới và Kinh tế tri thức; và một số chương trình
hỗ trợ quá trình Tự do hoá, Thuận lợi hóa Thương mại và Đầu tư trong APEC.
e. Uỷ ban Ngân sách và Quản lý
- Uỷ ban Ngân sách và Quản lý (BMC) được thành lập năm 1993, có chức năng
tư vấn cho các quan chức cao cấp về những vấn đề ngân quỹ, quản lý và điều hành.
Uỷ ban này được trao quyền đánh giá cơ cấu chung của ngân sách hàng năm và xem
xét các ngân sách hoạt động do các Nhóm công tác, các Uỷ ban đưa ra, và ngân sách
hành chính do Ban thư ký đưa ra. Uỷ ban có quyền đánh giá về hoạt động của các
Nhóm công tác và khuyến nghị với các quan chức cao cấp APEC về các biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả; xem xét các khoản chi tiêu của Nhóm công tác và dự án của
các Nhóm đặc trách. Uỷ ban Ngân sách và Quản lý họp mỗi năm hai lần thường vào
cuối tháng ba và tháng bảy.
- Uỷ ban Ngân sách và Quản lý có chức năng giải quyết các vấn đề liên quan
đến ngân sách chung của APEC hay phí đóng góp của mỗi nền kinh tế thành viên. Hội
nghị Bộ trưởng APEC lần thứ tư năm 1992 quyết định thành lập Ban Thư ký APEC
và quỹ tài chính chung do các thành viên đóng góp. Mức đóng góp căn cứ trên GNP
của từng nền kinh tế thành viên và bình quân GNP/người trong ba năm gần nhất. Hiện

trong APEC đang có bốn mức phí đóng góp: đứng đầu là Mỹ và Nhật Bản, đóng góp
tới 18% tổng ngân quỹ; tiếp đến là Xinh-ga-po, Hồng Công, Niu Di-lân đóng 2,75%;
17
xếp hàng thứ ba là Trung Quốc, Ôt-xtrây-lia, Ca-na-đa, Mê-hi-cô, Hàn Quốc, Đài
Loan, Liên bang Nga; đóng góp mức thấp nhất là Chi-lê, Ma-lai-xia, Thái Lan, Phi-
líp-pin, Bru-nây, In-đô-nê-xia, Pa-pua Niu Ghi-nê, Pê-ru, Việt Nam, mỗi thành viên
đóng góp 1,5% ngân quỹ. Cho đến nay, Quỹ chung của APEC gồm ba khoản chính:
(i) Chi phí hành chính cho hoạt động của APEC, cụ thể là chi phí cho hoạt động của
Ban Thư ký; (ii) Chi phí cho các dự án của APEC; (iii) Quỹ đặc biệt để thúc đẩy Tự
do hóa và Thuận lợi hóa Thương mại và Đầu tư trong APEC, quỹ này do Nhật Bản
đóng góp (năm 1995, Nhật Bản cam kết sẽ đóng góp 10 tỷ yên để hỗ trợ cho việc thúc
đẩy Tự do hóa và Thuận lợi hóa Thương mại và Đầu tư).
f. Các Nhóm công tác
- Các Nhóm công tác có chức năng thực hiện nhiệm vụ do các nhà Lãnh đạo, Bộ
trưởng và quan chức cao cấp giao cho. Cho tới nay trong APEC đã lập ra 11 Nhóm
công tác phụ trách các lĩnh vực sau: Hợp tác Kỹ thuật Nông nghiệp, Năng lượng,
Nghề cá, Phát triển Nguồn nhân lực, Khoa học và công nghệ, Bảo vệ tài nguyên biển,
Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Thông tin và Viễn thông, Du lịch, Xúc tiến thương mại,
Vận tải. Phần lớn hoạt động của các Nhóm là khảo sát tiềm năng phát triển và thúc
đẩy sự tăng trưởng trong các lĩnh vực do từng Nhóm phụ trách. Thông qua các hoạt
động này, các thành viên APEC xây dựng những mối liên hệ thực sự giữa các đại diện
chính giới, giới doanh nghiệp và học giả.
- Hoạt động của các Uỷ ban chuyên đề, các Nhóm đặc trách của SOM và các
Nhóm công tác là nền tảng chủ yếu của diễn đàn APEC. Thực tế, đây là những diễn
đàn nhỏ để các thành viên thảo luận, tư vấn chính sách và hợp tác trên các lĩnh vực cụ
thể. Những nghiên cứu của các Nhóm đặc trách, các chương trình hợp tác do các
Nhóm công tác soạn thảo là cơ sở chủ yếu để Hội nghị Bộ trưởng đưa ra các quyết
định liên quan đến phương hướng hoạt động của APEC.
g. Các Nhóm đặc trách của SOM
- Bên cạnh các Nhóm công tác, Hội nghị Quan chức Cao cấp (SOM) đã lập ra

ba Nhóm đặc trách nhằm xác định các vấn đề và đưa ra khuyến nghị về những lĩnh
vực quan trọng cần xem xét trong khuôn khổ hợp tác của APEC. Hiện đang có ba
Nhóm đặc trách của SOM là: Nhóm đặc trách về Mạng các điểm liên hệ về giới
(Gender Focal-Points Network), Nhóm chỉ đạo về thương mại điện tử (Electronic
Commerce Steering Group) và Nhóm đặc trách về Chống khủng bố (Counter-
Terroism Task Force).
- Nhóm đặc trách về Mạng các điểm liên hệ về giới được thành lập từ năm 2003
nhằm tiếp tục các chương trình về hội nhập giới và thúc đẩy sự tham gia của nữ giới
18
vào các hoạt động thương mại trong khu vực APEC. Tiền thân của nhóm đặc trách
này là Nhóm Tư vấn Ad Hoc của SOM về Hội nhập giới (the SOM Ad Hoc Advisory
Group on Gender Integration - AGGI) tồn tại từ năm 1999 đến năm 2002.
- Nhóm đặc trách về thương mại điện tử được thành lập từ tháng 2 năm 1999
với vai trò phối hợp và thúc đẩy các hoạt động hợp tác thương mại điện tử của APEC
thông qua hệ thống các quy định, luật lệ, chính sách minh bạch và nhất quán. Những
nỗ lực của Nhóm đặc trách về thương mại điện tử trong thời gian vừa qua đã góp phần
nâng cao lòng tin của các nền kinh tế thành viên vào lĩnh vực thương mại điện tử, và
qua đó khuyến khích việc sử dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử như In-
tơ-nét để tiến hành trao đổi thương mại, làm đơn giản hóa cách thức trao đổi giữa các
nền kinh tế.
- Nhóm đặc trách về Chống khủng bố được thành lập tại Hội nghị các Quan
chức Cao cấp tháng 2 năm 2003, nhằm triển khai Tuyên bố của các nhà Lãnh đạo về
Chống khủng bố và Thúc đẩy tăng trưởng được thông qua tháng 10 năm 2002 tại Mê-
hi-cô. Nhóm đặc trách về Chống khủng bố có chức năng giúp đỡ các nền kinh tế
thành viên trong việc xác định và đánh giá những biện pháp cần thiết để chống khủng
bố, phối hợp các chương trình hỗ trợ về kỹ thuật và năng lực, và thúc đẩy quan hệ hợp
tác giữa APEC với các tổ chức quốc tế và khu vực trong các vấn đề liên quan đến
chống khủng bố. Các lĩnh vực ưu tiên trong chương trình hoạt động của Nhóm đặc
trách về Chống khủng bố là: Sáng kiến về Bảo đảm An ninh Thương mại trong khu
vực APEC (the Secure Trade in the APEC Region - STAR); ngăn cấm việc hỗ trợ tài

chính cho các hoạt động khủng bố; tăng cường an ninh mạng; sáng kiến an ninh năng
lượng; và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
3. Ban thư ký APEC
- Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ tư ở Băng Cốc năm 1992 nhận thấy cần
phải có một cơ chế giúp việc hiệu quả để hỗ trợ và phối hợp các hoạt động trong
APEC nhằm tăng cường vai trò và hiệu quả của APEC trong xúc tiến hợp tác kinh tế
khu vực, đã nhất trí thành lập Ban Thư ký APEC, đặt trụ sở tại Xinh-ga-po, và lập một
quỹ chung của APEC.
- Ban Thư ký APEC đứng đầu là một Giám đốc Điều hành, do nước giữ ghế
Chủ tịch APEC cử với thời hạn một năm. Một phó giám đốc điều hành do nước sẽ giữ
chức Chủ tịch APEC vào năm tiếp theo cử. Đây là các quan chức của Chính phủ
mang hàm Đại sứ. Ngoài ra, Ban Thư ký APEC hiện có khoảng 20 Giám đốc chương
19
trình do các nền kinh tế thành viên tiến cử, 25 nhân viên chuyên nghiệp (cũng được
biệt phái từ các nước thành viên) và các nhân viên phục vụ.
- Ban Thư ký làm việc dưới sự chỉ đạo của Hội nghị Quan chức cao cấp và có
quan hệ thông tin trực tiếp thường xuyên với các thành viên, các Uỷ ban, các Nhóm
công tác và các Nhóm đặc trách của APEC. Mới đây, Ban Thư ký APEC quyết định
nâng cấp trang Mạng (website) của mình nhằm giới thiệu về APEC, giúp cho việc tiếp
cận các thông tin về hoạt động của APEC được dễ dàng hơn.
- Ban Thư ký APEC giữ vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của APEC,
có chức năng tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật, phối hợp các hoạt động của APEC; điều hành
ngân sách hàng năm của APEC; cũng như quản lý thông tin và các dịch vụ thông tin
tuyên truyền. Từ năm 1993, do vấn đề tài chính và ngân sách trở nên phức tạp, chức
năng điều hành tài chính được chuyển giao cho Uỷ ban Ngân sách và Quản lý.
Ban Thư ký APEC đồng thời là cơ quan chủ chốt trong việc quản lý các dự án
của APEC. Hiện Ban Thư ký APEC đang hỗ trợ các nền kinh tế thành viên và các
diễn đàn trong khuôn khổ APEC quản lý hơn 230 dự án lấy kinh phí từ quỹ của APEC
4.Hội nghị thường niên
Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao không chính thức : 6–7 tháng 11năm 1989 tại,

Canberra (Úc), các Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế của 12 nước Australia, Nhật Bản,
Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Singapore, Brunei, New Zealand,
Indonesia, Canada và Mỹ đã họp quyết định chính thức thành lập APEC.(cụ thể như
phần trên trình bày)
Các cuộc họp cấp bộ trưởng: lần lượt diễn ra vào 29–31 tháng 7 năm 1990, tại
Singapore; 12–14 tháng 11 năm 1991 tại Seoul( Hàn Quốc); 10–11 tháng 9 năm 1992
tại Bangkok ( Thái Lan).Vào tháng 11/1991, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng
Công và Đài Loan.
Hội nghị APEC 1: 19-20 tháng 11 năm 1993 tại đảo Blech thuộc bang Settle (Mỹ)
Lần đầu tiên các nhà lành đạo APEC họp mặt và đề ra viễn cảnh của APEC
"Tinh thần cộng đồng khu vực châu Á - Thái Bình Dương" về một khu vực “ổn định,
an ninh và thịnh vượng cho cho các nền kinh tế thành viên” thông qua hợp tác và
quyết định đặt trụ sở của APEC tại Singapore. Hội nghị kết nạp thêm Mexico, Papua
New Guinea, nâng số thành viên của APEC lên đến 17 thành viên. Hội nghị quyết
định từ đây sẽ tổ chức Hội nghị cấp cao APEC hàng năm theo hình thức luân phiên.
20
Hội nghị APEC 2 : 15 tháng 11 năm 1994 tại Bogo, Indonesia.
Các nền kinh tế thành viên APEC tại hội nghị APEC lần thứ 2 đề ra "Mục tiêu
Bogo" với nội dung: Mở cửa, tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực châu Á -
Thái Bình Dương vào năm 2010 đối với các nền kinh tế phát triển và vào năm 2020
đối với các nền kinh tế đang phát triển. APEC có 18 thành viên sau khi Chile được kết
nạp làm thành viên.
Hội nghị APEC 3 : 19 tháng 11 năm 1995 tại Osaka, Nhật Bản.
APEC thông qua kế hoạch hành động Osaka (Osaka Action Agenda – OAA)
với ba nội dung chính: Tự do hóa thương mại và đầu tư, Thuận lợi hóa thương mại,
Hợp tác kinh tế kỹ thuật để thực hiện các mục tiêu Bogo;thành lập Hội đồngTư vấn
Kinh doanh APEC (ABAC), trong đó mỗi nền kinh tế thành viên đóng góp ba doanh
nhân.
Hội nghị đã xác định 15 lĩnh vực cụ thể liên quan đến việc thực hiện tự do hoá
và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư mà các nền kinh tế APEC phải báo cáo trong

kế hoạch hành động riêng (IAP).
Hội nghị APEC 4 : 25 tháng 11 năm 1996 tại Manila, Philippin.
APEC thông qua kế hoạch hành động Manila (Manila Action Plan - MAPA),
với các biện pháp tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư nhằm đạt được các
mục tiêu Bogo và kế hoạch hành động cá nhân (IAP) và tập thể (CAP) được tập hợp
lại với các bước đi cụ thể và cách thức các nền kinh tế đạt được các mục tiêu về tự do
thương mại được đề ra tại Hội nghị Bogo.
Hội nghị APEC 5 : 24–25 tháng 11 năm 1997 tại Vancouver, Canada.
APEC xây dựng “Tầm nhìn thế kỉ XXI”, thông qua đề nghị về tự do hoá lĩnh
vực tự nguyện sớm (Early Voluntary Sedtoral Liberalization - EVSL) hơn 2 năm so
với mục tiêu Bogo trong 15 lĩnh vực và quyết định cập nhật hàng năm các Kế hoạch
hành động riêng của từng nền kinh tế thành viên.
Hội nghị APEC 6 : 17–18 tháng 11 năm 1998 tại Kuala Lumpur, Malaixia.
CÁc nền kinh tế APEC chỉ nhất trí được về 9 lĩnh vực đầu tiên trong 15 lĩnh
vực của kế hoạch EVSL và tìm kiếm thoả thuận với các nước không phải thành viên
APEC trong WTO về vấn đề này. Hội nghị kết nạp thêm ba thành viên mới là Peru,
Liên bang Nga và Việt Nam, đồng thời quyết định tạm ngừng thời hạn xem xét kết
nạp thành viên mới trong mười năm.
Hội nghị APEC 7 : 12–13 tháng 9 năm 1999 tại Auckland, New Zealand.
21
APEC cam kết giảm bớt các thủ tục giấy tờ trong hoạt động thương mại đối với
các nền kinh tế phát triển vào năm 2005 và các nền kinh tế đang phát triển vào năm
2010. APEC cũng thông qua kế hoạch thẻ thông hành dành cho doanh nhân (Business
Travel Card) và thoả thuận công nhận lẫn nhau về các thiết bị điện tử và Cơ cấu thúc
đẩy sự tham gia của phụ nữ trong APEC. Hội nghị tán thành vòng đàm phán mới của
WTO bắt đầu từ năm 2000 và kéo dài 3 năm, ủng hộ các thành viên APEC chưa phải
là thành viên của WTO sớm gia nhập tổ chức này.
Hội nghị APEC 8 : 15–16 tháng 11 năm 2000 tại Bandar Seri Begawan, Brunei.
APEC thiết lập kế hoạch hành động điện tử riêng (e-IAP), đưa ra các thông tin
về IAPs trên mạng và cam kết thực hiện kế hoạch hành động xây dựng Nền kinh tế

mới với mục tiêu là tăng đáng kể sự tiếp cận Internet trong các nền kinh tế thành viên
APEC vào năm 2005.
Hội nghị APEC 9 : 20–21 tháng 10 năm 2001 tại Thượng Hải, Trung Quốc.
APEC thông qua Thoả thuận Thượng Hải (Shanghai Accord), với trọng tâm là
mở rộng APEC, làm rõ các Lộ trình thực hiện các mục tiêu Bogo và củng cố các cơ
chế để thực hiện ác mục tiêu này. Chiến lược APEC điện tử ( e – APEC) cũng được
thông qua và chiến lược này đã đề ra các chương trình nghị sự để tăng cường các cơ
cấu và các thiết chế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư vào cơ sở hạ
tầng và công nghệ cho các giao dịch trên mạng và thúc đẩy tinh thần doanh nghiệp
cũng như xây dựng nguồn nhân lực. Lần đầu tiên, các nhà lãnh đạo kinh tế APEC đã
thông qua Tuyên bố chống khủng bố.
Hội nghị APEC 10 : 25–27 tháng 10 năm 2002 tại Los Cabos, Mexico.
APEC thông qua Kế hoạch hành động thuận lợi hoá thương mại (Trade Facili
tation Action Plan), Các danh sách chính về thương mại, nền kinh tế số và các tiêu
chuẩn minh bạch. APEC cũng nêu ra các sáng kiến cụ thể để giảm các chi phí trong
giao dịch thương mại xuống còn khoảng 5% trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương
vào năm 2006.
Hội nghị cấp cao APEC lần này cũng thông qua Tuyên chống khủng bố lần thứ
2, cùng với việc thông qua Sáng kiến thương mại an toàn ở khu vực châu Á- Thái
Bình Dương (STAR). Cũng tại hội nghị này, các nhà lãnh đạo kinh tế APEC đã ra 1
tuyên bố về tình hình trên bán đảo Triều Tiên.
Hội nghị APEC 11 : 20–21 tháng 10 năm 2003 tại Bangkok, Thái Lan.
22
APEC đã đưa ra biện pháp hành động từ “ở biên giới” (measure at the boder)
sang các biện pháp “phía trong đường biên” (measure behind the boder). Các nhà lãnh
đạo kinh tế APEC cũng khẳng định quyết tâm về việc mỗi nền kinh tế sẽ thực hiện cải
cách về cơ cấu nhất trí thông qua nghị quyết để đạt được tăng trưởng kinh tế trong
toàn khu vực APEC. APEC cũng nhất trí tái khởi động vòng đàm phán Doha của
WTO về chương trình nghị sự về phát triển ( WTO Dohar Development Agenda).
Một mặt APEC thúc đẩy sự thịnh vượng chung trong khu vực, mặt khác

APEC cũng khẳng định sự cần thiết phải cải thiện tình hình an ninh trong khu vực
châu Á- Thái Bình Dương. Các thành viên APEC đã được sự nhất trí cao về các hành
động nhằm ngăn chặn các mối đe doạ khủng bố do hệ thống tên lử vác vai
(MANPADS), phối hợp tốt hơn các hoạt động chống khủng bố và thực hiện Kế hoạch
hành động của APEC về chống dịch SARS và sáng kiến về an ninh y tế.
Hội nghị APEC 12 : 20–21 tháng 11 năm 2004 tại Santiago de Chile, Chile.
Các nhà lãnh đạo kinh tế APEC đã thông qua chương trình nghị sự thực hiện
các cải cách mang tính cơ cấu (APEC Leaders’ Agenda to Implement Structural
Refom - LAISR), trong đó nêu ra những ưu tiên mà các nền kinh tế APEC cần đạt
được trong việc thúc đẩy các cải cách cơ cấu trong tương lai. Đồng thời các nhà lãnh
đạo kinh tế APEC đã đưa ra một tuyên bố mạnh mẽ để ủng hộ các tiến bộ đạt được
trong Vòng đàm phán Doha của WTO về Chương trình nghị sự về phát triển và đặt ra
thời hạn để đạt được bước đột phá trong các cuộc thương lượng là Cuộc họp cấp Bộ
trưởng lần thứ 6 của WTO tháng 12 năm 2005 tổ chức tại Hongkong.
APEC thông qua các biện pháp tốt nhất để thực hiện các Hiệp định thương mại
khu vực ( RTAs) và các Hiệp định thương mại tự do (FTAs), Sáng kiến Sangtiago về
thương mại mở rộng và Khuôn khổ về bí mật thông tin. APEC cũng nhắc lại quyết
tâm của mình trong việc đối phó với mối đe doạ khủng bố, đồng thời đưa ra cam kết
chính trị đẻ chống tham nhũng và đảm bảo sự minh bạch đồng thời thông qua một loạt
các hành động cụ thể để thực hiện mục tiêu này.
Hội nghị APEC 13 : 18–19 tháng 11 năm 2005 tại Busan, Hàn Quốc.
Chủ đề: "Hướng tới một cộng đồng: đối phó thách thức, tạo ra thay đổi" .
APEC thông qua lộ trình Busan, hoàn thành Bản kiểm điểm giữa kì và thấy rằng
APEC vẫn đang tiến đến việc thực hiện các mục tiêu Bogo, tuy rằng cần phải cập nhật
cho phù hợp với tình hình hiện tại, và Khuôn khổ bí mật thông tin trong APEC. Các
nhà lãnh đạo kinh tế APEC cũng đưa ra tuyên bố độc lập ủng hộ việc kết thúc thành
công Hội nghị lần thứ 6 cấp Bộ trưởng của WTO tại Hongkong và thống nhất với việc
23
đối phó với các mối đe doạ dịch bệnh và tiếp tục cuộc chiến chống khủng bố vì nguy
cơ này có thể gây ra sự bất ổn kinh tế sâu sắc đối với toàn khu vực.

Hội nghị APEC 14 : 18-19 tháng 11 năm 2006 tại Hà Nội, Việt Nam.
Chủ đề của năm APEC 2006 Việt Nam là “Hướng tới một cộng đồng năng
động vì sự phát triển bền vững và thịnh vượng”. Các thành viên APEC xác định rõ
rằng đây là mục tiêu lâu dài mà APEC cần phải nỗ lực hơn nữa để phấn đấu thực hiện.
Việc thực hiện các mục tiêu Bogo, mà trước mắt là Lộ trình Busan, là ưu tiên hàng
đầu và nó sẽ góp phần thực hiện mục tiêu lớn và lâu dài hơn là xây dựng cộng đồng
châu Á- Thái Bình Dương. Tại diễn đàn này, các nhà lãnh đạo APEC đã thảo luận hai
nội dung chính: (1) Đẩy mạnh thương mại và đầu tư trong một thế giới đang thay đổi.
(2) Những nhân tố cơ bản bảo đảm tính năng động, sự tăng trưởng và phát triển bền
vững trong APEC.
Hội nghị APEC 15 : Tháng 11 năm 2007 tại Sydney, Úc.
Chủ đề Hội nghị cấp cao APEC 15 và năm APEC 2007 là “Củng cố cộng đồng
của chúng ta, xây dựng một tương lai bền vững”. Hội nghị sẽ tập trung vào 6 vấn đề
quan trọng:
1-Thay đổi khí hậu và phát triển sạch,
2- ủng hộ của APEC đối với Hệ thống thương mại đa biên và WTO,
3- Hội nhập Kinh tế khu vực, trong đó bao gồm nghiên cứu thành lập Khu vực Mậu
dịch tự do châu Á - Thái Bình Dương.
4- An ninh con người,
5- Cải cách APEC,
6- Kết nạp thành viên mới.
Hội nghị đã ra ba tuyên bố quan trọng:
(1) Tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo APEC.
(2) Tuyên bố Sydney của các nhà lãnh đạo APEC về biến đổi khí hậu an ninh năng
lượng và phát triển sạch.
(3) Tuyên bố về đàm phán WTO
Hội nghị APEC 16 : 22-23 Tháng 11 năm 2008 tại Lima, Peru.
Hội nghị cấp cao APEC 16- 2008 có chủ đề “Một cam kết mới đối với sự phát
triển của khu vực châu Á-Thái Bình Dương”. Theo đó, các nhà lãnh đạo APEC tập
trung thảo luận 7 vấn đề quan trọng, gồm:

24
(1) Khủng hoảng tài chính toàn cầu;
(2) Đối phó với việc tăng giá lương thực và hàng hóa;
(3) Vòng đàm phán Doha;
(4) Hội nhập kinh tế khu vực;
(5) Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp;
(6) Biến đổi khí hậu
(7) An ninh con người.
Theo nhận định, đây là kì hội nghị quy mô nhất từ trước đến nay. Trong khuôn khổ
Hội nghị APEC 2008, Hội nghị lần thứ 4 Hội đồng tư vấn doanh nghiệp APEC
(ABAC) cũng diễn ra từ 17-20/11/2008 tại thủ đô Lima, Peru. Các đại biểu ABAC
đại diện cho 21 quốc gia thành viên APEC đưa ra các khuyến nghị cho các nguyên thủ
của thành viên APEC nhằm hướng tới việc đạt được một khu vực tự do thương mại
trong khuôn khổ các thành viên APEC.
Cuộc gặp thượng đỉnh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) của Diễn đàn
hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương diễn ra vào ngày 17/11 nhằm tìm ra các
giải pháp để giúp SME đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế và toàn cầu.
Với chủ đề “Các cơ hội và thách thức đối với SME trong khuôn khổ APEC”, hội nghị
thượng đỉnh SME tập hợp hơn 800 đại diện doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực châu Á
- Thái Bình Dương cùng thảo luận và thiết lập một bước tiến tích cực nhằm giúp SME
giải quyết tình hình khó khăn tài chính hiện nay. Một trong các trọng điểm được quan
tâm là giảm chi phí buôn bán giao dịch cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh
đó, Hội nghị SME cũng làm cho lãnh đạo các doanh nghiệp hiểu rằng thị trường của
họ là không biên giới và tầm quan trọng của việc sử dụng công nghệ tiến hành kinh
doanh với các thị trường nước ngoài vì đó là công cụ thúc đẩy hoạt động kinh doanh.
Tại APEC 2008, một số hội nghị quan trọng khác cũng diễn ra như Hội nghị các tổng
giám đốc tập đoàn hàng đầu thế giới, Diễn đàn đầu tư vào Peru
Hội nghị APEC 17 : Tháng 11 năm 2009 tại Singapore.
Ngày 14/01/2009, Singapore đã công bố chủ đề của năm APEC 2009 sẽ diễn ra
tại Singapore là “Phát triển bền vững, Liên kết khu vực” (Sustaining Growth,

Connecting Region), nhằm phản ánh các nỗ lực không mệt mỏi của APEC kiến tạo
các điều kiện thuận lợi cho thương mại và đầu tư tại khu vực Châu Á – Thái Bình
dương. Mục tiêu của Hội nghị thượng đỉnh APEC năm 2009 là bàn thảo các biện pháp
nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đối phó với khủng hoảng tài chính thế giới, đẩy
nhanh hội nhập kinh tế khu vực và ngăn ngừa chủ nghĩa bảo hộ.
25

×