Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Tài liệu Nhập môn AJAX pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.4 KB, 37 trang )






Nhập môn AJAX
Created by TempAIDS
Nhập môn AJAX (1)
I, Quá trình phát triển công nghệ Web - Nguyên nhân xuất hiện công nghệ AJAX.
Trước khi tìm hiểu về Ajax, chúng ta cùng xem xét quá trình phát triển các công nghệ Web, nguyên
nhân và hoàn cảnh xuất hiện công nghệ Ajax.
Quá trình phát triển các công nghệ trong ứng dụng Web
Ban đầu, các trang Web là tĩnh; người dùng gửi yêu cầu một tài nguyên nào đó, và server sẽ trả về tài
nguyên đó. Các trang Web không có gì hơn là một văn bản được định dạng và phân tán. Đối với các
trình duyệt, thì các trang Web tĩnh không phải là các vấn đề khó khăn, và trang Web lúc đầu chỉ để
thông tin về các sự kiện, địa chỉ, hay lịch làm việc qua Internet mà thôi, chưa có sự tương tác qua các
trang Web. Năm 1990, Tim Berners-Lee, tại CERN, đã sáng chế ra HTML (Hyper Text Markup
Language), ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản. HTML rất đơn giản và dễ dùng, và nó trở thành một ngôn
ngữ rất phổ biến và cơ bản.
Tuy nhiên, không lâu sau đó, nhu cầu về các trang Web động, có sự tương tác ngày một tăng, chính vì
thế sự ra đời các công nghệ Web động là một điều tất yếu. Sau đây là một số công nghệ Web động cơ
bản:
1. CGI
Giải pháp đầu tiên để làm các trang Web động là Common Gateway Interface (CGI). CGI cho phép tạo
các chương trình chạy khi người dùng gửi các yêu cầu. Giả sử khi cần hiển thị các các mục để bán trên
Web site – với một CGI script ta có thể truy nhập cơ sở dữ liệu sản phẩm và hiển thị kết quả. Sử dụng
các form HTML đơn giản và các CGI script, có thể tạo các “cửa hàng” ảo cho phép bán sản phẩm cho
khách hàng qua một trình duyệt. CGI script có thể được viết bằng một số ngôn ngữ từ Perl cho đến
Visual Basic.
Tuy nhiên, CGI không phải là cách an toàn cho các trang Web động. Với CGI, người khác có thể chạy
chương trình trên hệ thống. Vì thế có thể chạy các chương trình không mong muốn gây tổn hại hệ


thống. Nhưng dù vậy, cho đến hôm nay thì CGI vẫn còn được sử dụng.
2. Applet
Tháng 5/1995, John Gage của hãng Sun và Andressen (nay thuộc Netscape Communications
Corporation) đã công bố một ngôn ngữ lập trình mới có tên Java. Netscape Navigator đã hỗ trợ ngôn
ngữ mới này, và một con đường mới cho các trang Web động được mở ra, kỷ nguyên của applet bắt
đầu.
Applet cho phép các nhà phát triển viết các ứng dụng nhỏ nhúng vào trang Web. Khi người dùng sử
dụng một trình duyệt hỗ trợ Java, họ có thể chạy các applet trong trình duyệt trên nền máy ảo Java
Virtual Machine (JVM). Dù rằng applet làm được nhiều điều song nó cũng có một số nhược điểm:
thường bị chặn bởi việc đọc và ghi các file hệ thống, không thể tải các thư viện, hoặc đôi khi không thể
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
thực thi trên phía client. Bù lại những hạn chế trên, applet được chạy trên một mô hình bảo mật kiểu
sandbox bảo vệ người dùng khỏi các đoạn mã nguy hiểm.
Có những lúc applet được sử dụng rất nhiều, nhưng nó cũng có những vấn đề nảy sinh: đó là sự phụ
thuộc vào máy ảo Java JVM, các applet chỉ thực thi khi có môi trường thích hợp được cài đặt phía
client, hơn nữa tốc độ của các applet là tương đối chậm vì thế applet không phải là giải pháp tối ưu cho
Web động.
3. JavaScript
Cùng thời gian này, Netscape đã tạo ra một ngôn ngữ kịch bản gọi là JavaScript. JavaScript được thiết
kế để việc phát triển dễ dàng hơn cho các nhà thiết kế Web và các lập trình viên không thành thạo Java.
(Microsoft cũng có một ngôn ngữ kịch bản gọi là VBScript). JavaScript ngay lập tức trở thành một
phương pháp hiệu quả để tạo ra các trang Web động.
Việc người ta coi các trang như là một đối tượng đã làm nảy sinh một khái niệm mới gọi là Document
Object Model (DOM). Lúc đầu thì JavaScript và DOM có một sự kết hợp chặt chẽ nhưng sau đó chúng
được phân tách. DOM hoàn toàn là cách biểu diễn hướng đối tượng của trang Web và nó có thể được
sửa đổi với các ngôn ngữ kịch bản bất kỳ như JavaScript hay
Nhập môn AJAX (2)
Monday, 05.03.2007, 09:48am (GMT7)
II, Công nghệ Web thế hệ thứ hai – Web 2.0

Được xem là một cuộc cách mạng trên thế giới mạng, thế hệ web mới có những thay đổi quan trọng
không chỉ ở nền tảng công nghệ mà còn cả ở cách thức sử dụng - hình thành nên môi trường cộng
đồng, ở đó mọi người cùng tham gia đóng góp cho xã hội "ảo" chứ không chỉ "duyệt và xem".
Web 2.0 là gì? Làm sao phân biệt đâu là Web 1.0 đâu là Web 2.0? Thuật ngữ "Web 2.0" đang trở nên
thịnh hành. Thực chất, Web 2.0 có nghĩa là sử dụng web đúng với bản chất và khả năng của nó.
Mục tiêu đầu tiên của những người tiên phong xây dựng Internet là nhằm kết nối các nhà nghiên cứu và
các máy tính của họ với nhau để có thể chia sẻ thông tin hiệu quả. Khi bổ sung World Wide Web (năm
1990), Tim Berners-Lee cũng nhằm mục tiêu tạo phương tiện cho phép người dùng tự do đưa thông tin
lên Internet và dễ dàng chia sẻ với mọi người (trình duyệt web đầu tiên do Berners-Lee viết bao gồm cả
công cụ soạn thảo trang web). Tuy nhiên, sau đó web đã phát triển theo hướng hơi khác mục tiêu ban
đầu.
Tuy có một số ngoại lệ nhưng thế giới Web 1.0 (thế hệ web trước Web 2.0) chủ yếu gồm các website
"đóng" của các hãng thông tấn hay các công ty nhằm mục đích tiếp cận độc giả hay khách hàng hiệu
quả hơn. Nó là phương tiện phát tin hơn là phương tiện chia sẻ thông tin. Chỉ đến gần đây, với sự xuất
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
hiện của nhiều kỹ thuật mới như blog (hay weblog), wiki web mới trở nên có tính cộng đồng (và
cộng tác) hơn và trở nên gần hơn với sự kỳ vọng và khả năng thực sự của nó.
Khái niệm Web 2.0 đầu tiên được Dale Dougherty, phó chủ tịch của O’Reilly Media, đưa ra tại hội
thảo Web 2.0 lần thứ nhất do O’Reilly Media và MediaLive International tổ chức vào tháng 10/2004.
Dougherty không đưa ra định nghĩa mà chỉ dùng các ví dụ so sánh phân biệt Web 1.0 và Web 2.0:
"DoubleClick là Web 1.0; Google AdSense là Web 2.0. Ofoto là Web 1.0; Flickr là Web 2.0. Britannica
Online là Web 1.0; Wikipedia là Web 2.0. v.v ".
Sau đó Tim O’Reilly, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành O’Reilly Media, đã đúc kết lại 7 đặc tính
của Web 2.0:

1. Web có vai trò nền tảng, có thể chạy mọi ứng dụng
2. Tập hợp trí tuệ cộng đồng
3. Dữ liệu có vai trò then chốt
4. Phần mềm được cung cấp ở dạng dịch vụ web và được cập nhật không ngừng

5. Phát triển ứng dụng dễ dàng và nhanh chóng
6. Phần mềm có thể chạy trên nhiều thiết bị
7. Giao diện ứng dụng phong phú
Thoạt đầu, Web 2.0 được chú trọng tới yếu tố công nghệ, nhấn mạnh tới vai trò nền tảng ứng dụng.
Nhưng đến hội thảo Web 2.0 lần 2 tổ chức vào tháng 10/2005, Web 2.0 được nhấn mạnh đến tính chất
sâu xa hơn – yếu tố cộng đồng.
Thực tế, ứng dụng trên web là thành phần rất quan trọng của Web 2.0. Hàng loạt công nghệ mới được
phát triển nhằm làm cho ứng dụng trên web mạnh hơn, nhanh hơn và dễ sử dụng hơn, được xem là nền
tảng của Web 2.0.
Kiến trúc công nghệ của Web 2.0 hiện vẫn đang phát triển nhưng cơ bản bao gồm: phần mềm máy chủ,
cơ chế cung cấp nội dung, giao thức truyền thông, trình duyệt và ứng dụng.
Cung cấp nội dung
Bước phát triển đầu tiên và quan trọng nhất hướng đến Web 2.0 đó là cơ chế cung cấp nội dung, sử
dụng các giao thức chuẩn hoá để cho phép người dùng sử dụng thông tin theo cách của mình (nghĩa là
có khả năng tùy biến thông tin). Có nhiều giao thức được phát triển để cung cấp nội dung như RSS,
RDF và Atom, tất cả đều dựa trên XML. Ngoài ra còn có các giao thức đặc biệt như FOAF và XFN
dùng để mở rộng tính năng của website hay cho phép người dùng tương tác.
Dịch vụ web
Các giao thức truyền thông 2 chiều là một trong những thành phần then chốt của kiến trúc Web 2.0. Có
hai loại giao thức chính là REST và SOAP. REST (Representation State Transfer) là dạng yêu cầu dịch
vụ web mà máy khách truyền đi trạng thái của tất cả giao dịch; còn SOAP (Simple Object Access
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
Protocol) thì phụ thuộc máy chủ trong việc duy trì thông tin trạng thái. Với cả hai loại, dịch vụ web đều
được gọi qua API. Ngôn ngữ chung của dịch vụ web là XML, nhưng có thể có ngoại lệ.
Một ví dụ điển hình của giao thức truyền thông thế hệ mới là Object Properties Broadcasting Protocol
do Chris Dockree phát triển. Giao thức này cho phép các đối tượng ảo (tồn tại trên web) tự biết chúng
"là gì và có thể làm gì”, nhờ vậy có thể tự liên lạc với nhau khi cần.
Phần mềm máy chủ
Web 2.0 được xây dựng trên kiến trúc web thế hệ trước nhưng chú trọng hơn đến phần mềm làm việc ở

background. Cơ chế cung cấp nội dung chỉ khác phương thức cấp phát nội dung động (của Web 1.0) về
danh nghĩa, tuy nhiên dịch vụ web yêu cầu tiến trình làm việc và dữ liệu chặt chẽ hơn.
Các giải pháp phát triển theo hướng Web 2.0 hiện nay có thể phân làm hai loại: hoặc xây dựng hầu hết
tính năng trên một nền tảng máy chủ duy nhất; hoặc xây dựng ứng dụng "gắn thêm" cho máy chủ web,
có sử dụng giao tiếp API.
AJAX là gì ?
Sau đây là định nghĩa của Garrett về Ajax:
AJAX là tập hợp của nhiều công nghệ với thế mạnh của riêng mình để tạo thành một sức mạnh mới.
AJAX bao gồm:
 Thể hiện web theo tiêu chuẩn XHTML và CSS, các chuẩn của W3C, được Firefox (Mozilla),
Safari (Apple), Opera, Netscape 8.0 (nhân Firefox) hỗ trợ rất tốt.
 Nâng cao tính năng động và phản hồi bằng DOM (Document Object Model); một chuẩn của
W3C
 Trao đổi và xử lý dữ liệu bằng XML và XSLT; cũng là một chuẩn của W3C
 Truy cập dữ liệu theo kiểu bất đồng bộ (asynchronous) bằng XMLHttpRequest
 Và tất cả các công nghệ trên được liên kết lại với nhau bằng JavaScript.
Các vấn đề nảy sinh và sự ra đời của AJAX
Trước khi tìm hiểu tại sao Ajax lại được xem là "cứu tinh" của các ứng dụng Web, hãy thử phân tích
những giới hạn của các ứng dụng web hiện tại khiến nó chưa thể thay thế cho các phần mềm phía client
truyền thống.
Chỉ cách đây vài năm, khi mà các dịch vụ web bùng nổ, người ta đã nghĩ đến một lúc nào đó tất cả các
ứng dụng mà ta sử dụng sẽ là các ứng dụng Web thay vì các phần mềm chạy độc lập trên các máy tính
đơn lẻ. Quả thật, với sự phát triển chóng mặt của mạng Internet cùng với những ưu điểm của các ứng
dụng Web (truy cập tại mọi nơi, không cần nâng cấp,…), tương lai của các phần mềm chắc chắn sẽ gắn
chặt với các ứng dụng Web, nếu không muốn nói là có thể sẽ bị thay thế. Tuy nhiên, cho đến giờ, giấc
mơ đó vẫn chưa thành sự thật và người ta bắt đầu nghĩ rằng, có lẽ nó sẽ không bao giờ trở thành sự
thật.
Tại sao vậy? Bởi vì một trong những giới hạn quan trọng của các ứng dụng Web hiện tại là cách thức
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS

nó tương tác với người dùng. Khác với các phần mềm chạy độc lập ở máy khách có những khả năng
dường như vô tận trong cách thức tương tác với người dùng, các ứng dụng Web bị giới hạn bởi chính
nguyên lý hoạt động của nó: tất cả các giao dịch phải thực hiện thông qua phương thức giao dịch HTTP
(HyperText Transport Protocol - Giao thức truyền tải qua các siêu liên kết).
Để hiểu tại sao tính chất này lại trở thành một rào cản của các ứng dụng web, hãy phân tích cách thức
hoạt động của các dịch vụ web hiện tại xử lý một tác vụ đơn giản như xóa email trong YahooMail. Ta
đang duyệt qua hòm thư “Inbox” của Yahoo!Mail. Khi chọn một số email và nhấn nút Delete để xóa
chúng (chuyển vào thùng rác). Yahoo!Mail trước hết sẽ lấy danh sách các email được chọn (quá trình
này chạy trên máy local), sau đó gửi danh sách này cùng với mã lệnh qua một siêu liên kết đến server
của Yahoo, yêu cầu server thực hiện tác vụ xóa đối với các email đó và gửi lại trang web Yahoo!Mail
với nội dung mới, rồi cập nhật để trình duyệt hiển thị. Việc gửi nhận yêu cầu này mất một khoảng thời
gian trễ, nếu ta sử dụng ADSL thì thời gian này cũng không quá lâu, còn nếu dùng dịch vụ dial-up thì
thời gian chờ đợi là rất lớn. Ta cũng sẽ phải trải qua một quá trình tương tự đối với các tác vụ khác, ví
dụ như chuyển từ thư mục “Inbox”(hòm thư đến) sang “Sent” (hòm thư đi).
Ta sẽ không bao giờ phải trải qua việc chờ đợi trên khi sử dụng các phần mềm chạy trên máy tính đơn
lẻ: không bao giờ thấy phần mềm một khi đã được mở ra lại phải “vô hiệu” trong vài giây để cập nhật
dù chỉ là một tác vụ đơn giản nhất, và ngay cả khi phần mềm cần thời gian xử lý một tác vụ nào đó thì
ta vẫn thấy nó vẫn tương tác với người dùng. Nếu xét về khía cạnh khả năng ứng dụng trong các tác vụ
hàng ngày thì hạn chế trên của các ứng dụng web là không thể chấp nhận được.
Tất nhiên, bên cạnh rào cản về cách thức tương tác, các ứng dụng Web còn vấp phải nhiều giới hạn
khác (ví dụ như bản thân việc phải hoạt động dựa trên các trình duyệt đã là một rào cản quan trọng)
nhưng một khi chưa giải quyết được vấn đề trên thì các ứng dụng web sẽ không bao giờ có thể thay thể
cho các phần mềm độc lập.
Ajax ra đời là một giải pháp cho các ứng dụng Web hiện nay, và như ta nói, nó là một trong số các công
nghệ Web thế hệ thứ hai.
Nhập môn AJAX (3)
Tuesday, 06.03.2007, 09:01am (GMT7)
III,Các thế mạnh của AJAX:
Bài này bắt đầu đi vào những cái nền tảng nhất, cần học chậm và hiểu được vấn đề cốt yếu:
Ajax là viết tắt của Asynchronous JavaScript and XML – công nghệ kết hợp hai tính năng mạnh của

JavaScript được các nhà phát triển đánh giá rất cao:
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS

 Gửi yêu cầu (request) đến server
 Phân tách và làm việc với XML
Các ứng dụng Ajax xoay quanh một tính năng có tên là XMLHttpRequest.
Ở các ứng dụng web truyền thống, khi người dùng có một cần thay đổi dữ liệu trên trang Web, yêu cầu
thay đổi được gửi về server dưới dạng HTTP request (hay còn gọi postback), server sẽ xử lý yêu cầu
này và gửi trả response chứa các thông tin dưới dạng HTML và CSS, trang HTML này sẽ thay thế trang
cũ. Qui trình này được mô tả là nhấp-chờ và tải lại (click-wait-and-refresh): ví dụ người dùng sau khi
nhấn một nút “Submit” trên trang web phải chờ cho đến khi server xử lý xong mới có thể tiếp tục công
việc.
Dưới đây là: Mô hình tương tác trong một ứng dụng Web truyền thống:
Ajax cho phép tạo ra một Ajax Engine nằm giữa giao tiếp này. Khi đó, các yêu cầu gửi resquest và
nhận response do Ajax Engine thực hiện. Thay vì trả dữ liệu dưới dạng HTML và CSS trực tiếp cho
trình duyệt, web server có thể gửi trả dữ liệu dạng XML và Ajax Engine sẽ tiếp nhận, phân tách và
chuyển hóa thành XHTML + CSS cho trình duyệt hiển thị.
Việc này được thực hiện trên client nên giảm tải rất nhiều cho server, đồng thời người sử dụng cảm
thấy kết quả xử lý được hiển thị tức thì mà không cần nạp lại trang. Mặt khác, sự kết hợp của các công
nghệ web như CSS và XHTML làm cho việc trình bày giao diện trang web tốt hơn nhiều và giảm đáng
kể dung lượng trang phải nạp. Đây là những lợi ích hết sức thiết thực mà Ajax đem lại.
Có thể nhìn vào 2 hình vẽ để so sánh hai mô hình ứng dụng Web: truyền thống và sử dụng Ajax.
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS

Còn đây là mô hình tương tác trong một ứng dụng Web dùng Ajax:
Rõ ràng điểm khác biệt là thay vì phải tải cả trang web thì với AJAX ta chỉ cần tải về phần của trang
Web muốn thay đổi. Điều này giúp cho ứng dụng web của phản hồi nhanh hơn, thông minh hơn. Ngoài
www.my-ebooks.tk

Created by TempAIDS
ra, điểm đặc biệt quan trọng trong công nghệ Ajax nằm ở chỗ Asynchronous - bất đồng bộ - tức là gửi
yêu cầu của mình tới server và tiếp tục thực thi tác vụ hiện tại mà không cần chờ trả lời. Khi nào server
xử lý xong yêu cầu của, nó sẽ báo hiệu và ta có thể đón để thể hiện những thay đổi cần thiết
Nhập môn AJAX (4)
Wednesday, 07.03.2007, 09:34am (GMT7)
IV, Các công nghệ trong AJAX - CSS - Giới thiệu
Từ bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu các công nghệ trong AJAX và mối liên hệ giữa chúng.
AJAX là một tập hợp các công nghệ bổ sung lẫn nhau. JavaScript có vai trò chất keo kết dính các ứng
dụng lại với nhau. Giao diện người dùng được tạo và tái nạp bằng cách dùng JavaScript để điều khiển
Document Object Model, tạo và tổ chức biểu diễn dữ liệu cho người dùng, đồng thời xử lí các tương
tác trên chuột và bàn phím.
Cascading Style Sheets (CSS) cung cấp một sự nhất quán trên cảm quan “look and feel” cho ứng dụng
và khả năng thao tác mạnh mẽ với DOM. Đối tượng XMLHttpRequest (hay một cơ chế tương đương
nào đó) được dùng để liên lạc một cách bất đồng bộ với server, đảm bảo việc gửi yêu cầu người dùng
và tái nạp dữ liệu trong khi người dùng vẫn làm việc.
Cascading Style Sheet – CSS
Cascading Style Sheet – tạm dịch là bảng kiểu xếp chồng - là một phần không thể thiếu trong thiết kế
Web, nó được dùng rất nhiều trong các ứng dụng Web truyền thống cũng như trong Ajax. Một
stylesheet đưa ra cách kiểm soát các loại định dạng trực quan, nó có thể được áp dụng cho các thành
phần riêng lẻ trên các trang.
Hơn nữa, cho các thành phần định dạng trực quan như màu sắc, lề, hình nền, tính trong suốt, kích cỡ,
stylesheet có thể xác định cách mà các phần tử được bố trí quan hệ với các phần tử khác và tương tác
với người dùng, cho phép các hiệu ứng khá mạnh mẽ.
Trong ứng dụng Web truyền thống, stylesheet cung cấp một cách hiệu quả để xác định cách thể hiện vị
trí và có thể được dùng lại trong nhiều trang web khác nữa.Với AJAX, stylesheet cung cấp một “kho
chứa” các giao diện xác định trước có thể áp dụng cho các phần tử động với độ dài các đoạn mã nguồn
là nhỏ nhất.
CSS định dạng một trang web theo ba cách :
1. Sử dụng trực tiếp kèm với các thẻ HTML (Inline Style Sheet)

2. Định nghĩa trong một trang web (Internal Style Sheet).
3. Định nghĩa thành một file CSS riêng (External Style Sheet). Trang web của chúng ta sẽ tham
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
chiếu đến file CSS này.
Một quy tắc định dạng và bố trí gồm có hai phần: thành phần lựa chọn - selector và phần khai báo -
style declaration. Selector đặc tả các phần tử được định dạng và bố trí, và style declaration khai báo các
thuộc tính định dạng sẽ được áp dụng. Giả sử muốn tạo ra các dòng text trong level-1 heading trong tài
liệu (đó là đoạn nằm trong thẻ <h1>) có màu đỏ.
Có thể khai báo thuộc tính CSS như sau:
h1 {color: red}
Chúng ta cũng nên phân tích:
Các ưu điểm của CSS trong thiết kế web
a. CSS giúp tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức cho việc thiết kế web.
Style trong phiên bản HTML 4.0 qui định cách thức thể hiện các thẻ. Style thường được lưu trong các
file nằm ngoài trang web. Chúng giúp thay đổi cách thức định dạng và cách bố trí các trang web chỉ
bằng cách thay đổi riêng file CSS.
b. CSS cho phép điều khiển cách định dạng và cách bố trí của cùng lúc nhiều trang web với chỉ duy
nhất một lần thay đổi tại một vị trí.
c. Có thể định nghĩa nhiều style vào một thẻ HTML .
CSS cho phép đưa các thông tin định nghĩa thẻ thông qua nhiều con đường khác nhau. Style có thể
được qui định ở trong chỉ một thẻ HTML, được qui định trong một trang web hoặc ở trong một file
CSS bên ngoài.
d. Thứ tự áp dụng các định dạng
Như trên đã nói, có thể sử dụng nhiều cách khác nhau để làm CSS. Điều gì sẽ xảy ra nếu áp dụng nhiều
cách định dạng cho một thẻ HTML? Theo một cách chung nhất ra có thể nói các style sẽ được "xếp
tầng" (cascade). Việc xếp tầng này tuân theo thứ tự ưu tiên giảm dần như sau:
 Inline Style (Style được qui định trong một thẻ HTML cụ thể)
 Internal Style (Style được qui định trong phần của một trang HTML)
 External Style (style được qui định trong file CSS ngoài

 Browser Default (thiết lập mặc định của trình duyệt
Bài sau chúng ta sẽ đi vào: Cú pháp cơ bản của CSS.
Nhập môn AJAX (5)
Thursday, 08.03.2007, 10:41am (GMT7)
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
V,Công nghệ trong AJAX - Javascript
JavaScript là một ngôn ngữ lập trình đa năng, nó tương đối giống C. JavaScript được biết dưới dạng
một ngôn ngữ có kiểu tự do, thông dịch, ngôn ngữ kịch bản đa năng.
Kiểu tự do nghĩa là các biến không được khai báo cụ thể như string, integer, hay object, và các biến
giống nhau có thể được gán bới các kiểu khác nhau. Ví dụ, đoạn mã sau là hợp lệ:
var x=3.1415926;
x='pi';
Biến x lúc đầu được định nghĩa là giá trị số và sau đó được gán lại bởi giá trị xâu kí tự.
Thông dịch nghĩa là các mã nguồn không được biên dịch thành các đoạn mã nhị phân có thể thực thi
được, và nó được thực thi trực tiếp, cụ thể là qua các trình duyệt. Khi triển khai một ứng dụng
JavaScript, ta đặt mã nguồn trên web server, và mã nguồn này được truyền trực tiếp qua Internet tới
web browser.
Đa năng nghĩa là ngôn ngữ này thích hợp để lập trình theo hầu hết các thuật toán và các tác vụ.
JavaScript cơ bản hỗ trợ các kiểu số - number, string, date và time, array, các biểu thức toán học được
xử lí trong văn bản, và các hàm toán học như các hàm lượng giác và bộ tạo số ngẫu nhiên. Hoàn toàn
có thể định nghĩa cấu trúc một đối tượng bằng JavaScript, điều này mang đến nguyên lý cơ bản cho lập
trình và để viết lên nhưng đoạn mã phức tạp.
Trong môi trường trình duyệt web, các chức năng cơ bản của trình duyệt, gồm CSS, DOM, và các đối
tượng XMLHttpRequest, được coi là các phương tiện của JavaScript, cho phép các nhà phát triển điều
khiển các trang ở các mức độ khác nhau.
Trong chồng công nghệ của Ajax, JavaScript là chất kết dính các thành phần lại với nhau.
Bạn có thể tải về tài liệu học JavaScript tại đây
Nhập môn AJAX (6)
Friday, 09.03.2007, 10:20am (GMT7)

VI, Các công nghệ trong AJAX - CSS - Cú pháp & thuộc tính
CSS Style.
Cú pháp cơ bản của CSS
Cú pháp của CSS gồm ba thành phấn:
• Thành phần lựa chọn (thường là một thẻ HTML) (Selector)
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
• Thuộc tính (Property)
• Giá trị (Value)
Thể hiện của cú pháp CSS
Selector {
Property1: Value1;
Property2: Value2;
}
Selector có thể là các thẻ/nhóm thẻ HTML, các lớp khai báo, hay bằng định danh duy nhất của phần tử.
Khi chèn các đoạn mã CSS vào trang web, trình duyệt sẽ hiển thị trang web theo cách CSS đã qui định
cho nó, có ba cách để chèn CSS vào trang web.
a. External Style Sheet (sử dụng file CSS được định nghĩa thành trong file riêng)
Mỗi trang web sử dụng file CSS ngoài này đều phải sử dụng thẻ <LINK>. Thẻ <LINK> được đặt bên
trong thẻ <HEAD>.
<head>
<link rel="stylesheet" type="text/css"
href="mystyle.css" />
</head>
b. Internal Style Sheet (định nghĩa các style sheet ngay trong trang web)
Trong trường hợp mỗi trang web của sử dụng các định dạng khác nhau, dùng Internal Style Sheet. Để
định nghĩa Internal Style Sheet, sử dụng thẻ <STYLE> đặt bên trong thẻ <HEAD>.
<head>
<style type="text/css">
hr {color: sienna}

p {margin-left: 20px}
body {background-image: url("images/back40.gif")}
</style>
</head>
c. Internal Style Sheet (style được qui định ngay trong mỗi thẻ HTML)
Đây là phương pháp kém hiệu quả nhất, không nên sử dụng phương pháp này vì đã làm mất các ưu
điểm của CSS.
<p style="color: sienna; margin-left: 20px">
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
This is a paragraph
</p>
Các thuộc tính của CSS Style
Mỗi phần tử trong trang HTML có thể được qui định theo nhiều kiểu. Một phần text của một phần tử
có thể được quy định theo các thuộc tính color, font size, độ đậm của phông, và kiểu chữ sử dụng. Có
rất nhiều tùy chọn được áp dụng cho thuộc tính trên. Ví dụ để qui định cho một paragraph:
.robotic{
font-size: 14pt;
font-family: courier new, courier, monospace;
font-weight: bold;
color: gray;
}
Nhập môn AJAX (7)
Monday, 12.03.2007, 08:27am (GMT7)
VII, Các công nghệ trong AJAX - DOM
A, Document Object Model.
Document Object Model (DOM) giúp phân tích một tài liệu (một trang web chẳng hạn) phục vụ cho
cơ chế của JavaScript. Sử dụng DOM, cấu trúc của tài liệu có thể được phân rã theo cấu trúc cây và
thao tác theo các nút. Đây là một khả năng đặc biệt hữu ích để viết một ứng dụng Ajax. Trong các ứng
dụng web truyền thống, trình duyệt phải tái nạp các trang HTML theo một luồng từ server.

Trong một ứng dụng AJAX, sự thay đổi giao diện người dùng chủ yếu được tạo ra bởi DOM. Các thẻ
HTML trong trang web được tổ chức theo cấu trúc cây. Gốc của cây là thẻ <HTML>, để biểu diễn tài
liệu. Trong đó thẻ <BODY> biểu diễn phần thân của tài liệu, là gốc của phần hiển thị của tài liệu.
Trong thân của tài liệu, có các bảng, paragraph, list, và các loại thẻ khác với các thẻ ở mức thấp hơn
nữa.
Một biểu diễn theo mô hình DOM của một trang web là một cấu trúc cây, có các phần tử là các nút, rồi
nó chứa các nút con trong nó, và cứ tiếp tục một cách đệ qui như thế. JavaScript làm việc với nút gốc
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
của trang web hiện thời qua một biến toàn cục gọi là document, biến này là điểm bắt đầu của mọi thao
tác trên DOM. Phần tử DOM đã được đặc tả bởi W3C. Mỗi phần tử DOM có một phần tử cha duy
nhất, có hoặc không có các phần tử con, và có một số bất kỳ các thuộc tính, chúng được lưu trữ trong
mảng móc nối.
Mối quan hệ giữa các phần tử DOM có thể được đối chiếu bởi danh sách các thành phần HTML. Mối
quan hệ này là hai chiều. Sửa đổi mô hình DOM sẽ thay đổi cấu trúc HTML và dẫn đến thay đổi cách
biểu diễn một trang web.
B, Làm việc với DOM bằng JavaScript.
Trong một ứng dụng bất kỳ, nếu muốn thay đổi giao diện người dùng khi họ đang làm việc, thì phải
cung cấp các phản hồi lại khi người dùng gửi các yêu cầu. Để hiểu rõ cơ chế làm việc với DOM bằng
JavaScript, chúng ta cùng xét một ví dụ về một trang HTML đơn giản.
<html>
<head>
<link rel='stylesheet' type='text/css' href='hello.css' />
<script type='text/javascript' src='hello.js'></script>
</head>
<body>
<p id='hello'>hello</p>
<div id='empty'></div>
</body>
Ta đã thêm vào các tham chiếu đến các file hello.css (dùng Cascading Style Sheet) và một file chứa mã

nguồnJavaScript là hello.js. Ở đây cũng đồng thời khai báo một thẻ <div> với một ID.
Còn đây là file hello.css chứa stylesheet để áp dụng cho các mục trong file HTML:
.declared{
color: red;
font-family: arial;
font-weight: normal;
font-size: 16px;
}
.programmed{
color: blue;
font-family: helvetica;
font-weight: bold;
font-size: 10px;
}
Chúng ta định nghĩa hai style, để mô tả gốc của các nút DOM (tên của các style là tùy chọn). Các style
này không dược dùng trong file HTML, nhưng chúng sẽ được áp dụng qua file JavaScript.
window.onload=function(){
var hello=document.getElementById('hello');
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
hello.className='declared';
var empty=document.getElementById('empty');
addNode(empty,"reader of");
addNode(empty,"Ajax in Action!");
var children=empty.childNodes;
for (var i=0;i<children.length;i++){
children[i].className='programmed';
}
empty.style.border='solid green 2px';
empty.style.width="200px";

}
function addNode(el,text){
var childEl=document.createElement("div");
el.appendChild(childEl);
var txtNode=document.createTextNode(text);
childEl.appendChild(txtNode);
}
Hàm window.onload() sẽ được gọi khi trang web được nạp. Tại thời điểm này, cấu trúc cây DOM sẽ
được thiết lập.
C, Tìm kiếm một DOM Node
Yêu cầu đầu tiên để làm việc trên DOM với JavaScript là đi tìm kiếm một phần tử để thay đổi. Trước
hết cần bắt đầu tham chiếu qua nút gốc - root node, nút này thể hiện qua biến toàn cục document. Mỗi
nút trong DOM là một nút con (hoặc nút con cấp hai, ba…) của document, nhưng cứ đi dần vào cây
DOM, sẽ thấy một tài liệu phức tạp được biểu diễn bởi DOM, và việc tìm kiếm là rất khó khăn. Vì thế
có các cách sau để tìm kiếm một nút nhanh chóng hơn. Mỗi phần tử HTML có một thuộc tính ID, ví dụ
như,
<p id='hello'>
hay
<div id='empty'></div>
Mỗi một nút DOM có thể có một ID gán cho nó, và ID này có thể được dùng để tham chiếu tới nút qua
hàm :
Trong một số trường hợp, cần duyệt qua cấu trúc cây từng bước một, mỗi nút DOM có một nút cha và
nhiều nút con. Chúng có thể được truy cập bởi các thuộc tính parentNode và childNodes, thuộc tính
parentNode trả về một đối tượng DOM node khác, trong khi childNodes trả về một mảng javascript:
var children=empty.childNodes;
for (var i=0;i<children.length;i++){

}
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS

Một cách khác để tìm kiếm là dựa trên loại thẻ HTML, dùng phương thức getElementsByTagName().
Ví dụ, document.getElementsByTagName("UL") sẽ trả về chuỗi tất cả các thẻ <UL> trong tài liệu.
Tạo DOM Node
Trong nhiều trường hợp cần tạo các nút mới và thêm nó vào tài liệu. JavaScript cung cấp một số
phương thức để làm điều đó. Các phương thức chuẩn để tạo nút mới là document.createElement() và
document.createTextNode(), phương thức createElement() có thể được dùng để tạo ra bất kỳ phần tử
HTML nào, tham số là kiểu của loại thẻ HTML;
var childEl=document.createElement("div");
createTextNode() tạo một nút thể hiện qua một đoạn text, thường được tìm thấy trong các thẻ về
heading, div, paragraph, và list item.
var txtNode=document.createTextNode("some text");
Chuẩn DOM coi các text node tách rời khỏi biểu diễn HTML. Chúng không có các stye để áp đặt cho
trực tiếp và vì thế chúng yêu cầu ít bộ nhớ hơn.
Một nút khi được tạo ra phải được gắn vào tài liệu trước khi hiển thị trên trình duyệt, phương thức
appendChild() được dùng để thực hiện điều này el.appendChild(childEl);
Ba phương thức createElement(), createTextNode(), và appendChild() cho phép thực hiện hầu hết
các thao tác để thêm một nút vào tài liệu.
D, Thêm style vào tài liệu
DOM cũng cung cấp các phương thức để chỉnh sửa style của các phần tử và tạo định dạng lại cho cấu
trúc đã được định nghĩa trong stylesheet. Mỗi phần tử trong trang web có thể có nhiều giao diện trực
quan có thể được áp đặt qua DOM, như vị trí, chiều dài và rộng, mằu sắc, canh lề và đường viền. Các
trình duyệt ngày nay đều cung cấp các ràng buộc JavaScript cho phép thay đổi giao diện mức thấp và
áp đặt các định dạng một cách nhất quán và dễ dàng với các lớp CSS. Thuộc tính className Ví dụ
đoạn code sau sẽ áp đặt các quy tắc biểu diễn của lớp declared cho một nút:
hello.className='declared';
với hello tham chiếu tới một nút DOM.
Thuộc tính style
Ví dụ, đoạn mã sau bổ sung các thuộc tính style cho nút empty
empty.style.border="solid green 2px";
empty.style.width="200px";

Sử dụng thuộc tính innnerHTML
Các phần tử DOM của các trình duyệt web đều hỗ trợ một thuộc tính gọi là innerHTML, cho phép các
nội dung kiểu string tùy ý được gán cho các phần tử theo thuộc tính này, như trong đoạn mã sau:
function addListItemUsingInnerHTML(el,text){
el.innerHTML+="<div class='programmed'>"+text+"</div>";
}
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
Trên đây ta vừa xét một cách sơ lược về JavaScript, CSS, và DOM. Chúng được tập hợp trong một
công nghệ gọi là Dynamic HTML (DHTML), và có thể thấy Ajax sử dụng rất nhiều kỹ thuật DHTML.
Như vậy, các bạn đã nắm được 2 công nghệ dùng trong AJAX: CSS và DOM. Trong các phần tiếp theo
chúng ta cùng nhau thảo luận về: XML và việc truyền dữ liệu bất đồng bộ (Giới thiệu về XML và XSLT,
XMLHttpRequest) và có lẽ cũng nên nói qua một chút về JS (JavaScript).
Nhập môn AJAX (8)
Tuesday, 13.03.2007, 11:26am (GMT7)
VIII, Các công nghệ trong AJAX - XML và việc truyền dữ liệu
bất đồng bộ - XML.
XML là gì?
Năm 1969, IBM đã cho ra đời ngôn ngữ đánh dấu đầu tiên của mình với tên gọi Generalized Markup Language (GML).
GML là một ngôn ngữ tự đặc tả sử dụng cho việc đánh dấu cấu trúc của một tập dữ liệu nhất định đồng thời GML được định
hướng để trở thành một meta language (siêu ngôn ngữ) – nghĩa là ngôn ngữ dùng để đặc tả cho ngôn ngữ khác.
Về sau GML phát triển thành SGML (Standard Generalized Markup Language). Vào năm 1986, SGML được tổ chức ISO
công nhận là chuẩn lưu trữ và chuyển đổi dữ liệu. SGML được sử dụng để xây dựng những tài liệu như sách vở, báo cáo,
hay cẩm nang tham khảo….Những tài liệu này sẽ được chuyển thành dạng thức biểu diễn được và sau đó gởi chúng ra thiết
bị xuất như máy in, màn hình
Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất đối với người dùng SGML là chúng quá phức tạp và tiêu tốn nhiều công sức trong việc hiện
thực. Vì vậy hầu hết người dùng cá nhân và doanh nghiệp đều không thể đáp ứng những yêu cầu để sử dụng công nghệ hữu
dụng này.
Năm 1996, Word Wide Web Consortium (W3C) khởi động kế hoạch xây dựng một ngôn ngữ được gọi là XML (eXtensible
Markup Language – ngôn ngữ đánh dấu mở rộng) kết hợp được sức mạnh của SGML và tính phổ dụng của HTML. Sự xuất

hiện của XML mang lại cho người dùng sức mạnh của SGML với tốn kém ít hơn và không phải đối mặt với sự phức tạp của
SGML. Hơn nữa việc viết parser (bộ phân tích từ vựng và cú pháp) cho tài liệu XML cũng đơn giản hơn. Ngoài ra, XML
tương thích với các giao thức Internet và phần mềm xử lý, chuyển đổi dữ liệu. XML được xem là một tập con của SGML, vì
vậy XML có được khả năng tương thích với những hệ thống dựa trên SGML, giúp nhà phát triển vẫn có thể duy trì được
những hệ thống đã được xây dựng trên nền tảng SGML mà không phải tốn kém trong việc chuyển đổi.
(đoạn trên là copy n paste)
Các đặc điểm của XML
1. XML tương thích với SGML
2. Dễ dàng viết được những chương trình xử lý tài liệu XML
3. Tài liệu XML dễ đọc và có tính hợp lý cao
4. XML được xây dựng với sự giảm thiểu những thuộc tính tùy chọn
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
5. XML dễ dàng được sử dụng trên Internet
6. XML hỗ trợ nhiều ứng dụng
7. Không đặt nặng tính hình thức trong nội dung thẻ đánh dấu XML
Cấu trúc một tài liệu XML
Tài liệu XML chỉ chứa đựng dữ liệu và cách lưu trữ dữ liệu mà không hề đề cập tới cách thức trình bày dữ liệu.
Một tài liệu XML sẽ chứa những đặc tả về cấu trúc dữ liệu. Mỗi cấu trúc gồm nhiều phần tử (element), mỗi thành
phần được bắt đầu với một thẻ bắt đầu (Start–tag) và kết thúc với một thẻ kết thúc (End–tag). Giữa Start–tag và
End–tag là nội dung của phần tử này. Nội dung có thể bao gồm dữ liệu văn bản hay có thể là một phần tử khác.
Dưới đây là một file XML:
<?xml version="1.0"?>
<Catalog>
<Product>
<ProductID>F10</ProductID>
<ProductName>Shimano Calcutta </ProductName>
<ListPrice>47.76</ListPrice>
</Product>
<Product>

<ProductID>F20</ProductID>
<ProductName>Bantam Lexica</ProductName>
<ListPrice>49.99</ListPrice>
</Product>
</Catalog>
Một tài liệu HTML có thể tồn tại một số thẻ không đúng quy định (trình biên dịch sẽ bỏ qua những thẻ này). Tuy
nhiên với một tài liệu XML thì điều này không thể xảy ra. Khi xây dựng một tài liệu XML, nó phải tuân thủ theo
một số quy luật nào đó. Những tài liệu XML tuân thủ đúng những quy luật này được gọi là well-formed (tạm dịch
là định dạng đúng). Với một tài liệu không phải là well–formed, Internet Explorer sẽ thông báo lỗi khi nạp tài liệu
này.
Một tài liệu XML well–formed chưa chắc là một tài liệu hợp lệ. Một tài liệu XML được xem là hợp lệ nếu nó đảm
bảo những quy tắc đặc tả trong tài liệu Document Type Definition (DTD) hay giản đồ (schema). Một DTD hay
schema sẽ định nghĩa mọi thứ từ cấu trúc dữ liệu tới kiểu dữ liệu, những thuộc tính được yêu cầu, và những
ràng buộc về thành phần và thuộc tính được kết hợp trong tài liệu. Phương thức kiểm tra tài liệu này thường
được sử dụng trong giao tiếp giữa ứng dụng - ứng dụng, đảm bảo dữ liệu trao đổi hợp lệ tránh dẫn tới những
ảnh hưởng của dữ liệu không hợp lệ trên toàn hệ thống.
XSLT - (eXtensible Style Language Transforming)
XSLT là một phần của XSL (eXtensible Style Language). XSL là một ngôn ngữ nền tảng XML và ra đời với mục
đích chuyển đổi một tài liệu XML thành một tài liệu XML khác hay chuyển một tài liệu XML thành những đối
tượng có thể thể hiện được. Internet Explorer được tích hợp XSL transformer giúp tự động chuyển đổi tài liệu
XML thành tài liệu HTML. Để sử dụng XSLT, chúng ta phải xây dựng tài liệu XSL chứa những template. Trong
những template chúng ta sẽ kết hợp những phần tử HTML sẽ được xuất ra.
Công nghệ trong AJAX - XML và việc truyền dữ liệu bất đồng bộ - XMLHttpRequest
Các ứng dụng web truyền thống đều phải tái nạp toàn bộ trang web khi gửi yêu cầu đến server, điều này
thường dẫn đến một sự ngắt quãng cho công việc của người dùng. Vì thế yêu cầu đặt ra là làm cho các request
của server không đồng bộ và người dùng vẫn có thể làm việc trong khi đợi tín hiệu trả lời từ server. Giải pháp
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
đầu tiên để giải quyết vấn đề này là dùng IFrame. Cho đến gần đây, XMLHttpRequest đã được đưa ra như là
một giải pháp mạnh mẽ và hiệu quả.

XmlDocument và XMLHttpRequest
Các đối tượng XmlDocument và XMLHttpRequest không phải là các chuẩn DOM mở rộng của trình duyệt web
nhưng vẫn được hỗ trợ bởi rất nhiều trình duyệt. Các đối tượng đều dựa trên ActiveX hay các đối tượng
JavaScript. Các trình duyệt khác đều có thực thi các đối tượng trên có các chức năng tương đương và các lời
gọi hàm API.
Một ví dụ sử dụng XmlDocument:
function getXMLDocument(){
var xDoc=null;
if(document.implementation&&document.implementation.
createDocument){
xDoc=document.implementation.createDocument("","",null);
}else if (typeof ActiveXObject != "undefined"){
var msXmlAx==null;
try{
msXmlAx=new ActiveXObject("Msxml2.DOMDocument");
}catch (e){
msXmlAx=new ActiveXObject("Msxml.DOMDocument");
}
xDoc=msXmlAx;
}
if (xDoc==null || typeof xDoc.load=="undefined"){
xDoc=null;
}
return xDoc;
}
Hàm vừa thực hiện trên sẽ trả về một đối tượng XmlDocument với các hàm API giống nhau trong các trình
duyệt hiện nay.
Ví dụ sau có chức năng tương tự nhưng dùng cho đối tượng XMLHttpRequest.
function getXMLHTTPRequest() {
var xRequest=null;

if (window.XMLHttpRequest) {
xRequest=new XMLHttpRequest();
}else if (typeof ActiveXObject != "undefined"){
xRequest=new ActiveXObject("Microsoft.XMLHTTP");
}
return xRequest;
}

Gửi một yêu cầu đến server
Gửi một yêu cầu đến server từ một đối tượng XMLHttpRequest rất dễ dàng. Tất cả những việc ta cần làm là
truyền cho nó địa chỉ URL của server. Ta sẽ làm như sau:
function sendRequest(url,params,HttpMethod){
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
if (!HttpMethod){
HttpMethod="POST";
}
var req=getXMLHTTPRequest();
if (req){
req.open(HttpMethod,url,true);
req.setRequestHeader("Content-Type","application/
x-www-form urlencoded");
req.send(params);
}
}
XMLHttpRequest hỗ trợ một miền rất rộng các lời gọi HTTP, gồm các tham số truy vấn cho các trang web động.
Dùng các hàm callback để giám sát các yêu cầu
Các hàm callback đón bắt các sự kiện trong cách tiếp cận lập trình hướng sự kiện trong hầu hết các bộ công cụ
UI hiện nay – như nhấn bàn phím, click chuột, vì không thể biết được các sự kiện nào sẽ xảy ra, nên các lập
trình viên phải đón bắt các sự kiện có thể xảy ra. Khi tạo các giao diện người dùng UI bằng JavaScript, ta gán

các hàm onkeypress, onmouseover, và đặt tên tương tự cho các thuộc tính tương đương cho các đối tượng.
Khi lập trình cho các yêu cầu cho server, chúng ta gặp các thuộc tính tương tự onload và onreadystatechange.
Nhập môn AJAX (9)
Friday, 16.03.2007, 01:42pm (GMT7)
Đối tượng XMLHttpRequest - Giới thiệu.
Bây giờ ta sẽ xét vấn đề trọng tâm của Ajax: đối tượng XMLHttpRequest. XMLHttpRequest được đưa
ra ban đầu trong Internet Explorer 5 như là một ActiveX component. Nó chỉ hoạt động trong Internet
Explorer điều này làm cho số ít các nhà phát triển làm việc với XMLHttpRequest, cho tới khi nó trở
thành một chuẩn không chính thức trong Mozilla 1.0 và Safari 1.2. Một điều rất quan trọng cần chú ý là
XMLHttpRequest không là chuẩn của W3C, mặc dù rất nhiều chức năng của nó được đề xuất trong các
đặc tả: DOM Level 3 Load and Save Specification.
Vì XMLHttpRequest không phải là một chuẩn, nên có những sự khác biệt nhỏ trong các trình duyệt về
hỗ trợ đối tượng này, tuy nhiên hầu hết các phương thức và thuộc tính của nó đều được hỗ trợ. Hiện
thời, Firefox, Safari, Opera, Konqueror, và Internet Explorer tất cả đều hỗ trợ XMLHttpRequest tương
tự nhau. Nếu một số lượng người dùng đáng kể vẫn truy cập website với các trình duyệt phiên bản cũ,
thì phải cân nhắc về sự lựa chọn công nghệ sẽ ứng dụng.
Giới thiệu về XMLHttpRequest
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
Trước tiên cần tạo một đối tượng XMLHttpRequest bằng JavaScript trước khi sử dụng đối tượng này
để gửi request và xử lý các response. XMLHttpRequest chưa là chuẩn của W3C, vì thế phải dùng
JavaScript theo nhiều cách để tạo một thể hiện của của XMLHttpRequest. Internet Explorer thực thi
XMLHttpRequest như một đối tượng ActiveX, và các trình duyệt khác như Firefox, Safari, và Opera
thực thi nó như một đối tượng JavaScript nguyên thủy. Vì sự khác nhau này, đoạn mã JavaScript phải
chứa các cấu trúc logic để tạo một thể hiện của XMLHttpRequest dùng kỹ thuật ActiveX hay đối tượng
JavaScript nguyên thủy.
Rất may mắn, trong trường hợp này không cần phải viết mã một cách tỉ mỉ để xác định kiểu trình duyệt
và làm thế nào để tạo một thể hiện của đối tượng XMLHttpRequest. Công việc chỉ đơn giản là kiểm tra
sự hỗ trợ đối tượng ActiveX của trình duyệt. Nếu hỗ trợ ActiveX, thì tạo một đối tượng
XMLHttpRequest dùng ActiveX. Trường hợp khác, tạo đối tượng này bằng kỹ thuật tạo đối tượng

JavaScript nguyên thủy. Đoạn mã JavaScript sau dễ dàng tạo ra các thể hiện của đối tượng
XMLHttpRequest mà không quan tâm tới trình duyệt.
Tạo một thể hiện của đối tượng XMLHttpRequest:
var xmlHttp;
function createXMLHttpRequest() {
if (window.ActiveXObject) {
xmlHttp = new ActiveXObject("Microsoft.XMLHTTP");
}
else if (window.XMLHttpRequest) {
xmlHttp = new XMLHttpRequest();
}
}
Việc tạo một đối tượng XMLHttpRequest khá là đơn giản. Trước tiên, tạo một biến toàn cục (giả sử có
tên là) xmlHttp để lưu trữ một tham chiếu đến đối tượng. Phương thức createXMLHttpRequest thực
hiện việc tạo một thể hiện của XMLHttpRequest. Đoạn chương trình này chứa một câu lệnh rẽ nhánh
đơn giản để xác định cách thức tạo một đối tượng.
Lệnh gọi window.ActiveXObject sẽ trả về một biến kiểu object hay giá trị null, tương đương với điều
kiện true hay false của câu lệnh if, đây là dấu hiệu chỉ ra cho ta biết trình duyệt hỗ trợ ActiveX control,
đó là Internet Explorer. Nếu thế, XMLHttpRequest được tạo ra là một thể hiện của ActiveXObject,
truyền một chỉ báo kiểu string để xác định loại đối tượng ActiveX cần tạo. Trong thể hiện này, ta cung
cấp tham số Microsoft.XMLHTTP cho hàm tạo, để chỉ ra rằng cần tạo một thể hiện của
XMLHttpRequest.
Nếu lệnh gọi tới window.ActiveXObject không được thực thi (điều kiện false của lệnh if), lệnh
JavaScript sẽ rẽ nhánh tương ứng với lệnh else, để xác định rằng trình duyệt thực thi XMLHttpRequest
dưới dạng một đối tượng JavaScript nguyên thủy. Nếu window.XMLHttpRequest tồn tại, sau đó một
thể hiện của XMLHttpRequest được tạo ra.
Kiểu dữ liệu XMLHttpRequest của JavaScript tương thích với rất nhiều trình duyệt khác nhau, có thể
truy cập các thuộc tính và phương thức của một thể hiện của XMLHttpRequest mà không cần quan tâm
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS

tới cách tạo các thể hiện này. Điều này làm cho việc phát triển các ứng dụng đơn giản hơn và làm cho
JavaScript không phụ thuộc vào trình duyệt cụ thể.
Nhập môn AJAX (10)
Monday, 19.03.2007, 08:48am (GMT7)
Đối tượng XMLHttpRequest - Phân tích các đặc tính - Phương
thức và thuộc tính
Phân tích các đặc tính của XMLHttpRequest:
Các phương thức và thuộc tính
Danh mục sau chỉ ra các phương thức điển hình của đối tượng XMLHttpRequest:
abort() Hủy request hiện thời.
getAllResponseHeaders() Trả về tất cả các response header cho HTTP request dưới dạng cặp
key/value.
getResponseHeader("header") Trả về giá trị kiểu string của header xác định.
open("method", "url") Thiết lập giai đoạn cho một lời gọi tới server. Tham số của method có thể là
GET, POST, hay PUT. Tham số url có thể là quan hệ hay trực tiếp. Phương thức này còn có 3 tham số
tùy chọn.
send(content) Gửi request tới server.
setRequestHeader("header", "value") Thiết lập header xác định cho giá trị cung cấp. open() phải
được gọi trước khi cố gắng thiết lập bất kỳ một header nào.
Bây giờ ta xét cụ thể các phương thức này:
 void open(string method, string url, boolean asynch, string username, string password):
Phương thức này thiết lập một phiên gọi tới server. Ý nghĩa của nó này là khởi tạo một request.
Nó có hai tham số yêu cầu và ba tham số tùy chọn; ta phải cung cấp đặc tả của phương thức
được triệu gọi (GET, POST, hay PUT) và địa chỉ URL của tài nguyên được gọi. Cũng có thể
truyền một biến chỉ báo kiểu Boolean, xác định việc truyền là bất đồng bộ - giá trị mặc định là
true, nghĩa là các request luôn bất đồng bộ theo mặc định. Nếu truyền một giá trị false, quá trình
xử lí sẽ phải đợi cho đến khi có phản hồi từ server. Việc truyền dữ liệu bất đồng bộ là một lợi
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
thế của việc dùng Ajax, vì vậy thiết lập tham số này ở giá trị false đã thay đổi mục đích việc sử

dụng XMLHttpRequest. Ta thấy nó rất hữu ích trong một số trường hợp chẳng hạn như chứng
thực người dùng (validating user) trong khi trang web của không hề bị thay đổi. Hai tham số
cuối tùy chọn, cho phép sử dụng username và password.
 void send(content): Phương thức này thực hiện gửi request tới server. Nếu request được khai
báo bất đồng bộ, kết quả được trả về ngay, còn không nó sẽ đợi cho tới khi nhận được response
từ server. Tham số có thể là một thể hiện của một đối tượng DOM, một luồng dữ liệu vào (input
stream), hay một kiểu string. Nội dung truyền cho phương thức này được gửi đi như một phần
trong request.
 void setRequestHeader(string header, string value): Phương thức thiết lập giá trị cho phần
header đã cho trong HTTP request. Tham số bao gồm một biến kiểu string biểu thị header được
thiết lập và một string khác biểu diễn giá trị để thay thế trong header. Chú ý là nó cần phải được
gọi trước khi gọi đến open(). Trong hầu hết các phương thức thì cặp open() và send() thường
xuyên được gọi.
 void abort(): Phương thức này rất dễ hiểu, nó sẽ hủy request.
 string getAllResponseHeaders(): Trả về một biến kiểu string chứa response header của HTTP
request. Header bao gồm các trường Content-Length, Date, và URI.
 string getResponseHeader(string header): Phương thức này tương tự như
getAllResponseHeaders(); ngoại trừ việc nó nhận một tham số biểu diễn giá trị xác định header
mà ta cấn đón bắt, giá trị trả về cũng có kiểu string.
Ngoài những phương thức chuẩn này, đối tượng XMLHttpRequest còn có các thuộc tính được liệt kê
sau đây. Anh em chú ý ta sẽ phải sử dụng các thuộc tính mở rộng này khi làm việc với
XMLHttpRequest.
onreadystatechange Bộ xử lý sự kiện cho một sự kiện phát sinh mỗi khi có sự thay đổi trạng thái.
readyState Trạng thái của request. Có 5 giá trị là
0 = uninitialized,1 = loading, 2 = loaded, 3 = interactive, và 4 = complete.
responseText Response trả về từ server dưới dạng string.
responseXML Response trả về từ server dưới dạng XML. Đối tượng này có thể được phân tách và
khảo sát như một đối tượng tài liệu DOM.
status Mã trạng thái HTTP từ server (chẳng hạn 200 nếu không có lỗi, 404 cho lỗi Not Found, …).
statusText Thông điệp của mã trạng thái HTTP (chẳng hạn OK hay Not Found, …).

www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
Nhập môn AJAX (11)
Wednesday, 21.03.2007, 08:38am (GMT7)
Đối tượng XMLHttpRequest - Phân tích các đặc tính - Sự tương
tác
Sự tương tác
Ta xét một ví dụ để tìm hiểu các tương tác của Ajax. Hình sau cho thấy mô hình tương tác chuẩn trong một ứng
dụng Ajax.
Không giống như các cách tiếp cận kiểu request/response thông thường trong các chuẩn Web client, một ứng
dụng Ajax có những khác biệt, sau đây là mô tả quá trình tương tác:
1. Một event client-side gây ra một sự kiện - Ajax event. Bất kỳ một tác động nào cũng có thể gây ra Ajax event,
từ một sự kiện onchange đơn giản cho đến một số tác động của người dùng. Ví dụ với đoạn mã sau:
<input type="text" id="email" name="email" onblur =
"validateEmail()";>
2. Một thể hiện của XMLHttpRequest được tạo ra. Dùng phương thức open(), tạo lời gọi hàm - địa chỉ URL
được thiết lập cùng với phương thức HTTP yêu cầu, thông thường là GET hay POST. Request được tạo ra qua
việc gọi phương thức send(). Đoạn mã nguồn sau thể hiện điều đó:
var xmlHttp;
function validateEmail() {
var email = document.getElementById("email");
var url = "validate?email=" + escape(email.value);
www.my-ebooks.tk
Created by TempAIDS
if (window.ActiveXObject) {
xmlHttp = new ActiveXObject("Microsoft.XMLHTTP");
}
else if (window.XMLHttpRequest) {
xmlHttp = new XMLHttpRequest();
}

xmlHttp.open("GET", url);
xmlHttp.onreadystatechange = callback;
xmlHttp.send(null);
}
3. Một request được tạo và gửi đến server. Có thể là một lời gọi tới một servlet, một CGI script, hay một công
nghệ phía server nào đó tương tự như ASP.NET, JSP, hay PHP…
4. Server xử lí các yêu cầu, chẳng hạn như truy cập cơ sở dữ liệu hay một tác vụ hệ thống nào đấy.
5. Response được trả về cho trình duyệt. Trường Content-Type được thiết lập ở dạng text/xml; XMLHttpRequest
chỉ có thể xử lí kết quả dạng text/html. Trong các thể hiện phức tạp hơn, response khá rắc rối và bao gồm
JavaScript, các thao tác trên đối tượng DOM, hoặc các công nghệ liên quan khác. Chú ý là cũng cần thiết lập
header vì thế trình duyệt sẽ không lưu kết quả một cách cục bộ. Ta sẽ làm như sau:
response.setHeader("Cache-Control", "no-cache");
response.setHeader("Pragma", "no-cache");
6. Trong ví dụ sau, cấu hình XMLHttpRequest để gọi hàm callback() khi kết quả xử lí được trả về. Hàm này kiểm
tra thuộc tính readyState trên đối tượng XMLHttpRequest và sau đó xem xét mã trạng thái trả về từ server. Mọi
thứ hoàn toàn bình thường, hàm callback() có thể làm nhiều việc trên phía client. Một phương thức callback
thường có dạng sau:
function callback() {
if (xmlHttp.readyState == 4) {
if (xmlHttp.status == 200) {
//do something interesting here
}
}
}
Có một số khác biệt với mô hình request/response thông thường nhưng không quá lạ lẫm đối với các lập trình
viên Web. Rõ ràng, phải xem xét thêm về việc tạo và thiết lập một đối tượng XMLHttpRequest và sau đó (hàm)
callback sẽ kiểm tra các trạng thái. Thường thì các lời gọi chuẩn này được đóng gói vào một thư viện để dùng
trong ứng dụng, hay nói cách khác là dùng một thư viện có sẵn để thực thi Ajax cho ứng dụng Web (có rất nhiều
thư viện như thế, ta sẽ xét trong các phần sau). Ajax là vấn đề tuy còn mới mẻ, nhưng đã có một lượng đáng kể
các thư viện và ứng dụng mã nguồn mở được công bố.

Hầu hết các framework và toolkit Ajax trên các trang Web đều dùng các kĩ thuật cơ bản và trừu tượng hóa các
trình duyệt, và thêm vào một số component giao diện người dùng (UI). Một số là các framework thuần client;
còn lại làm việc trên server. Nhiều framework trong số này mới được bắt đầu xây dựng, nhưng chúng liên tục có
www.my-ebooks.tk

×