Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp "Rủi Ro Tín Dụng & Những Biện Pháp Hạn Chế Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Việt Nam" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.85 KB, 92 trang )

Luận văn tốt nghiệp
"Rủi Ro Tín Dụng & Những Biện Pháp Hạn Chế Rủi Ro Tín Dụng Tại
Ngân Hàng Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Việt Nam"
MỤC LỤC
Luận văn tốt nghiệp 1
"Rủi Ro Tín Dụng & Những Biện Pháp Hạn Chế Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Nông
Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Việt Nam" 1
MỤC LỤC 2
NỘI DUNG LUẬN VĂN

CHƯƠNG 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1 Khái niệm về Tín dụng và TDNH:
1.1.1.1. Khái niệm vế Tín dụng:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế nó ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự
phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì tín dụng là sự
vay mượn, trong đó hai chủ thể là người đi vay và người cho vay sẽ thoả thuận
một mức lãi suất và một thời hạn nợ nhất định. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì tín
dụng là sự vận động các nguồn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn sản xuất.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm tổng quan về tín dụng như sau: tín
dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả (cả vốn và lãi) sau
một khoản thời gian nhất định.
Ban đầu quan hệ tín dụng chủ yếu thể hiện bằng hiện vật và tồn tại dưới
tên gọi là tín dụng nặng lãi. Cho đến khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
ra đời, các quan hệ tín dụng mới có điều kiện phát triển. Tín dụng bằng hiện vật
đã nhường chổ cho tín dụng bằng hiện kim, tín dụng nặng lãi phi kinh tế đã
nhường chổ cho hình thức tín dụng khác như: tín dụng Ngân hàng, tín dụng Nhà
nước…
Mặc dù tín dụng có quá trình tồn tại và phát triển lâu dài qua nhiều hình
thái kinh tế xã hội, với nhiều hình thức khác nhau, song đều có 3 đặc điểm sau:
 Tín dụng trước hết là sự chuyển giao quyền sử dụng một số tiền


(hiện kim) hoặc tài sản (hiện vật) từ chủ thể này sang chủ thể khác, chứ không
làm thay đổi quyền sở hữu chúng.
 Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải được hoàn trả.
 Người sở hữu vốn tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình
thức lợi tức.
1.1.1.2. Khái niệm về Tín dụng Ngân hàng:
Tín dụng Ngân Hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân Hàng, các tổ chức
tín dụng với các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư như: các doanh
nghiệp, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình… trong đó Ngân Hàng đóng vai trò là
tổ chức trung gian đứng ra huy động vốn và sử dụng số vốn huy động được để
cho vay đối với các đối tượng nói trên.
Như vậy trong mối quan hệ trên, Ngân hàng vừa là người đi vay vừa là
người cho vay.
Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng nhận tiền gửi hoặc phát hành
các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu,… để tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi trong xã hội làm nguồn vốn hoạt động của mình.
Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các
thành phần kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau như cho vay, chiết khấu giấy
tờ có giá trị, bảo lãnh, cho thuê tài chính,… thông qua các hoạt động này, Ngân
hàng có thể cung ứng vốn kịp thời cho nền kinh tế đồng thời tối đa hóa hiệu quả
sử dụng vốn của mình.
1.1.2. Vai trò của TDNH:
1.1.2.1 Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì sự hoạt động liên tục đòi
hỏi vốn của các xí nghiệp phải tạm thời tồn tại ở cả ba giai đoạn: dự trữ, sản
xuất và lưu thông nên hiện tượng thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xãy ra ở
các doanh nghiệp. Từ đó tín dụng đã góp phần điều tiết các nguồn vốn tạo điều
kiện sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn.
Mặt khác, với mục tiêu mở rộng sản xuất kinh doanh đối với từng doanh
nghiệp thì yêu cầu về nguồn vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu

được đặt ra. Bởi lẽ, đẩy mạnh tiến độ sản xuất không chỉ trông chờ vào nguồn
vốn tự có mà doanh nghiệp phải biết tận dụng những dòng chảy khác của vốn
trong xã hội. Từ đó, tín dụng với với chức năng là nơi tập trung đại bộ phận vốn
nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Như
vậy, vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích lũy vốn, nhanh
chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung
vốn và tích lũy vốn cho nền kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay cùng với sự phân phối và hợp tác quốc tế ngày
một sâu rộng thì quá trình điều tiết vốn không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc
gia mà hình thành các quan hệ trên cả thế giới.
1.1.2.2. Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả:
Khi thực hiện chức năng trên, tận dụng những nguồn vốn nhàn rỗi trong
xã hội, tín dụng đã làm giảm khối lượng tiền mặt tồn đọng trông lưu thông. Do
đó tín dụng được xem là một trong những biện pháp hữu hiệu góp phần làm
giảm lạm phát và ổn định tiền tệ. Mặt khác do cung cấp vốn tín dụng cho nền
kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh
doanh, làm cho sản xuất ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hóa làm ra ngày
càng nhiều đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Chính nhờ đó mà tín
dụng góp phần ổn định thị trường giá cả trong nước.
Bên cạnh đó tín dụng đã tạo điều kiện mở rộng thanh toán không dùng
tiền mặt. Đây là một trong những nhân tố tích cực làm giảm việc sử dụng tiền
mặt trong nền kinh tế, là bộ phận lưu thông tiền mà Nhà nước rất khó quản lý và
nhạy cảm với biến động của nền kinh tế.
Trong những thập niên gần đây, ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát
triển, trong công tác quản lí vĩ mô của Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu chính
sách tiền tệ trong từng thời kỳ nhất định, lãi suất tín dụng đã trở thành một trong
những công cụ điều tiết nhạy bén và linh hoạt để đưa thêm tiền vào lưu thông
hay rút tiền ra khỏi lưu thông. Từ đó tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng tiền tệ
với yêu cầu tăng trưởng của nền kinh tế.
Như vậy tín dụng đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định tiền tệ tạo

điều kiện ổn định giá cả, đây là tiền đề quan trọng để sản xuất và lưu thông phát
triển.
1.1.2.3.Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm, ổn
định trật tự xã hội:
Đây là hệ quả tất yếu của hai vai trò tín dụng nêu trên: nền kinh tế phát
triển trong một môi trường ổn định về tiền tệ là điều kiện để nâng cao đời sống
của các thành viên trong xả hội từ đó rút ngắn sự chênh lệch giữa các giai cấp.
Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức cho vay, tín dụng không chỉ đáp
ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp dân cư
trong xã hội. Hiện nay, ngoài việc phát triển các loại hình tín dụng dân cư, Nhà
nước còn thành lập các quỹ xoá đói giảm nghèo, cho vay theo chương trình tín
dụng… nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý của các cá nhân như phát triển
kinh tế gia đình, mua sắm nhà cửa thiết bị sinh hoạt… từ đó tạo công ăn việc
làm và mức sống ổn định cho cá nhân, gia đình góp phần ổn định xã hội.
1.1.2.4. Tạo điều kiện phát triển mối quan hệ kinh tế với nước ngoài:
Trong điều kiện hiện nay, phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền
với thị trường thế giới, kinh tế “đóng” đã nhường bước cho nền kinh tế “mở”.
Và tín dụng đã trở thành một trong những biện pháp nối liền quan hệ kinh tế
giữa các nước với nhau.
Đối với các nước đang phát triển và nước ta nói riêng, tín dụng đóng vai
trò rất quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hoá, đồng thời nhờ nguồn
tín dụng bên ngoài để công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế.
1.1.3.Các hình thức của TDNH:
1.1.3.1.Căn cứ vào mục đích sủ dụng: theo tiêu thức này tín dụng ngân
hàng có thể phân chia thành các loại sau:
• Cho vay phục vụ SXKD công thương nghiệp
• Cho vay tiêu dùng cá nhân
• Cho vay bất đông sản
• Cho vay nông nghiệp
• Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu

1.1.3.2.Dựa vào thời hạn tín dụng: theo tiêu thức này tín dụng có thể phân
chia thành các loại sau:
• Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn dưới một năm. Mục
đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu
động.
• Cho vay trung hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
Mục đích của loại cho vay này là thường là nhằm tài trợ đầu tư vào tài sản cố
định.
• Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của
loại cho vay này là thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các danh mục đầu tư.
1.1.3.3. Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng: theo tiêu thức này
tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:
• Cho vay không có đảm bảo: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách
hàng vay vốn để quyết định cho vay.
• Cho vay có đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên cơ sở có tài sản đảm
bảo cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào
khác.
1.1.3.4. Dựa vào phương thức cho vay: theo tiêu thức này tín dụng có thể
chia thành các loại sau:
• Cho vay theo món hay còn gọi là cho vay từng lần.
• Cho vay theo hạn mức tín dụng.
1.1.3.5. Dựa vào phương thức hoàn trả nợ gốc: theo tiêu thức này tín
dụng có thể được chia thành các loại sau:
• Cho vay chỉ có một kỳ trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi
đáo hạn.
• Cho vay có nhiều kỳ trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp.
• Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể mà tùy
khả năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất kỳ lúc nào.
1.1.4. Nguyên tắc của TDNH

1.1.4.1. Vốn vay luôn được đảm bảo bằng các nguồn vốn tương đương:
Nguyên tắc này xuất phát từ sự yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ
nhằm làm cho sự vận động của tiền tệ gắn liền với sự vận động của vật tư hàng
hóa giữ vững sức mua của tiền.
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi ngay từ khi nhận tiền vay và trong
suốt quá trình sử dụng vốn vay đơn vị phải có một số hàng hóa tương đương làm
đảm bảo cho khoảng vay đó.
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo hiệu quả của vốn vay tạo điều kiện thực
hiện việc hoàn trả nợ vay của đơn vị. Mặt khác, mục đích cho vay là nhằm bổ
sung vốn lưu thông trong quá trình SXKD. Nó được xác định trước khi cho vay
và kiểm soát trong quá trình sủ dụng vốn vay.
1.1.4.2. Sữ dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng
tín dụng:
Cho vay đúng mục đích không những là nguyên tắc má còn là phương
châm hoạt động của tín dụng ngân hàng, đối với ngân hàng bất kỳ nột khoản cho
vay nào đối với nền kinh tế cũng phải luôn hướng đến mục tiêu và yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Đối với khách hàng vay vốn
cũng phải đáp ứng các mục đích cụ thể trong quá trình hoạt động để thúc đẩy
đơn vị hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Khi khoản vay được ngân hàng chấp nhận thì mục đích sử dụng vốn vay
cũng sẽ được ghi vào trong hợp đồng tín dụng, ngân hàng có trách nhiệm thường
xuyên kiểm tra tình hình sủ dụng vốn vay của khách hàng nếu phát hiện khách
hàng sủ dụng vốn sai mục đích thì ngân hàng có thề sử dụng các biện pháp phù
hợp để xử lý.
Thực hiện nguyên tắc này, không những là thực hiện nguyên tắc vốn có
của tín dụng nói chung mà cón có tác dụng lớn trong tín dụng đấu tư, tác dụng
đó thể hiện trên hai mặt sau:
• Một là: việc sủ dụng tiền vay đúng mục đích là yêu cầu cơ bản để hoàn
thành kế hoạch xây dựng cơ bản chung của xã hội cũng như kế hoạch xây dựng
của Nhà nước, của các chủ thể đầu tư…

• Hai là: sử dụng tiền vay đúng mục đích, phù hợp với khối lượng và chi
phí đầu tư theo luận chứng kinh tế kỹ thuật sẽ cho phép đảm bảo tiến độ thi công
và hoàn thành từng hạn mục công trình hay toàn bộ công trình, vừa là nhân tố để
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
1.1.4.3. Hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn:
Đây là nguyên tắc không thể thiếu của của tín dụng ngân hàng nó được
đặc trên các cơ sở sau:
• Xuất phát từ chức năng trung gian tín dụng ngân hàng thực hiện đi vay
để cho vay nhằm đảm bảo khả năng thanh toán đồng thời tạo thêm nguồn thu để
duy trì sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thì việc thực hiện nguyên tắc hoàn
trả là rất cần thiết đối với mỗi NHTM.
• Trong nền kinh tế thị trường tín dụng hoạt động trên cơ sở kinh doanh,
cho nên ngoài việc hoàn trả vốn vay đơn vị vay phải trả một số tiền ứng với lãi
suất vay.
Tuy nhiên, trên thực tế do tác động của nhiều nguyên nhân khiến cho
đơn vị vay vốn không trả được nợ vay. Để đảm bảo nguyên tắc này, tổ chức tín
dụng buộc đơn vị phải thế chấp tài sản và tiến hành phát mãi tài sản thế chấp để
thu hồi vốn trong trường hợp đơn vị vay không trả được nợ vay. Đối với Ngân
hàng Nông nghiệp tài sản thế chấp thường là quyền sủ dụng đất mà hộ sản xuất
đang canh tác.
1.2. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Về nhận thức thực tiễn cũng như về lí luận, nếu như nâng cao chất lượng
tín dụng là mục tiêu quan trọng trong hoạt động tín dụng, thì phòng ngừa rủi ro
có thể coi như một giải pháp quan trọng có tính chất quyết định để nâng cao chất
lượng tín dụng. Hai nội dung này tất nhiên có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Đây là vấn đề luôn luôn thời sự đối với hoạt động Ngân Hàng ở nước ta, nhất là
trong bối cảnh hiện nay ở nước ta khi tín dụng có xu hướng tăng trưởng nhanh,
lãi suất cho vay cao, doanh nghiệp thành lập nhiều, thị trường diễn biến phức
tạp, nhiều vụ việc xảy ra đối với doanh nghiệp có liên quan đến pháp luật,… thì
lại càng phải quan tâm đồng thời đến mở rộng tín dụng, gắn với nâng cao chất

lượng tín dụng. Khi viết về rủi ro tín dụng là tác giả đứng về phía Ngân Hàng là
chính, rủi ro tín dụng là rủi ro NHTM.
Trong kinh doanh của Ngân Hàng tại Việt Nam lợi nhuận từ hoạt động
tín dụng chiếm tỷ trọng thu nhập chủ yếu của các NHTM, tuy nhiên hoạt động
này luôn tiềm ẩn rủi ro cao. Đặc biệt là các nước có nền kinh tế mới phát triển
như Việt Nam bởi hệ thống thông tin thiếu minh bạch trình độ quản lý rủi ro còn
hạn chế, tính chuyên nghiệp của Ngân Hàng chưa cao nói cách khác rủi ro là
một tất yếu trong hoạt động kinh doanh tín dụng. P.Volker cựu Chủ tịch Cục dự
trữ Liên bang Mỹ nói “Nếu Ngân Hàng không có rủi ro và các khoản nợ xấu thì
không phải là hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng” điều đó cho thấy rủi ro tín
dụng luôn tồn tại và nợ xấu là một thực tế hiển nhiên ở bất cứ Ngân Hàng nào kể
cả các Ngân Hàng hàng đầu trên thế giới bởi có những rủi ro nằm ngoài khả
năng kiểm soát của con người. Tuy nhiên sự khác biệt cơ bản của các Ngân
Hàng có năng lực quản trị rủi ro tín dụng để mở rộng và nâng cao chất lượng tín
dụng là khả năng khống chế rủi ro và nợ xấu ở một tỷ lệ nhờ xây dựng một mô
hình quản trị rủi ro hiệu quả phù hợp với môi trường hoạt động để hạn chế rủi ro
tín dụng.
Như trên đã nói muốn nâng cao và mở rộng tín dụng thì phải giảm thiểu
rủi ro. Như vậy ta phải nhận biết rủi ro:
1.2.1. Các loại rủi ro trong kinh doanh của Ngân Hàng
Trong hoạt động của Ngân hàng có rất nhiều loại rủi ro sau: rủi ro tín
dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối doái, rủi ro môi trường, rủi ro
công nghệ và hoạt động, rủi ro quốc gia và rủi ro khác…Trong đó rủi ro tín dụng
đóng vai trò quan trọng nhất vì nó có ảnh hưởng đến khả năng sinh lời cuối
cùng, sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng .
1.2.1.1. Rủi ro Tín dụng:
Là loại rủi ro phát sinh khi một trong các bên tham gia hợp đồng tín
dụng không có khả năng chi trả cho các bên còn lại. Đối với NHTM rủi ro tín
dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu đủ cả gốc và lãi của các
khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn. Nếu tất cả các

khoản cho vay của ngân hàng đều được thanh toán đầy đủ và đúng hạn cả gốc và
lãi thì ngân hàng không bị rủi ro tín dụng. Ngược lại, nếu người vay tiền không
có khả năng trả nợ hoặc cố ý không trả nợ thì rủi ro nảy sinh.
Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm
nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của NHTM như: hoạt động bảo
lãnh, tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính…
1.2.1.2. Rủi ro Lãi suất:
Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của lãi suất hoặc những yếu
tố liên quan đến lãi suất làm tổn thất về tài sản và thu nhập của ngân hàng.
Loại rủi ro này phát sinh trong quan hệ tín dụng của tổ chức tín dụng có
những khoản đi vay hoặc cho vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường
tăng khiến chi phí trả lãi của ngân hàng tăng theo. Ngược lại, nếu ngân hàng cho
vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường xuống thấp khiến thu nhập lãi
cho vay của ngân hàng giảm. Rủi ro lãi suất đặc biệt quan trọng khi ngân hàng
huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, hoặc đầu tư tài chính khá lớn và
theo lãi suất thị trường.
Mặt khác, ngân hàng còn có thể gặp rủi ro giảm giá trị tài sản khi lãi
suất thị trường thay đổi. Như chúng ta đã biết, giá thị trường của tài sản Có hay
tài sản Nợ là dựa trên khái niệm giá trị hiện tại của tiền tệ. Do đó, nếu lãi suất thị
trường tăng lên thì mức chiếc khấu giá trị tài sản cũng tăng lên, và do đó giá trị
hiện tại của tài sản Có và tài sản Nợ giảm xuống. Ngược lại, nếu lãi suất thị
trường giảm thì giá trị của tài sản Có và tài sản Nợ sẽ tăng lên. Do đó, nếu kỳ
hạn của tài sản Có và tài sản Nợ không cân xứng với nhau. Ví dụ tài sản Có có
kỳ hạn dài hơn tài sản Nợ, thì lãi suất thị trường tăng, giá trị tài sản Có sẽ giảm
nhanh hơn nhiếu so với sự giảm của giá trị tài sản Nợ. Rủi ro giảm giá trị tài sản
khi lãi suất thị trường thay đổi thuộc loại rủi ro về lãi suất có thể dẫn đến thiệt
hại về tài sản cho ngân hàng.
Ngoài ra rủi ro lãi suất còn có thể xảy ra do các nguyên nhân khác như:
Do bất lợi trong cạnh tranh buộc ngân hàng phải tăng lãi suất huy động và hạ lãi
suất cho vay để thu hút khách hàng do đó đã làm tăng chi phí và giảm thu nhập

của ngân hàng; do cung tiền tệ nhỏ hơn cầu tiền tệ nên ngân hàng phải tăng lãi
suất để huy động vốn; do chính sách ưu đãi trong cho vay của Nhà nước nên
ngân hàng phải giảm lãi suất cho vay.
1.2.1.3. Rủi ro thanh khoản:
Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro chỉ xuất hiện trong trường hợp ngân hàng
mất khả năng thanh toán các khoản nợ khi những người gửi tiền có nhu cầu rút
tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Rủi ro thanh khoản là rủi ro nguy hiểm nhất
của ngân hàng có liên quan đến sự sống còn của ngân hàng. Một ngân hàng hoạt
động bình thường phải đảm bảo được các nhu cầu thanh toán trong hiện tại,
tương lai và các nhu cầu thanh toán đột xuất. Nếu không đáp ứng được các nhu
cầu thanh toán đó ngân hàng có thể bị mất khả năng thanh toán và có nguy cơ
phá sản. Trong những trường hợp như vậy thì ngân hàng phải đi vay bổ sung
nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản có của mình để đáp ứng nhu cầu rút
tiền của người gửi tiền.
Đặc trưng cơ bản của rủi ro thanh toán là tính lỏng của tài sản Có thấp
hơn so với tài sản Nợ, nên Ngân hàng có thể không đáp ứng được đầy đủ các
yêu cầu thanh toán. Rủi ro thanh toán xuất hiện do hai nguyên nhân chính đó là
nguyên nhân từ phía tài sản Nợ và nguyên nhân từ phía tài sản Có.
• Nguyên nhân từ phía tài sản Nợ phát sinh do Ngân hàng không đáp
ứng được các nhu cầu thanh toán buộc phải nhượng bán các tài sản khác với giá
thấp hơn giá thị trường. Để có thu nhập cao hầu hết các Ngân hàng đều giảm dự
trữ tiền mặt và tăng đầu tư vào những tài sản có tính thanh khoản thấp và có thời
hạn dài, do vậy khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền ngay lập
tức thì ngân hàng rất dễ bị rủi ro.
• Nguyên nhân từ phía tài sản Có phát sinh trong trường hợp một số các
khoản tín dụng đã cấp không được hoàn trả đúng hạn, trong khi vốn huy động đã
đến hạn thanh toán và các hợp đồng tín dụng đã ký đến hạn giải ngân. Trong
trường hợp này, Ngân hàng phải tìm ngay những nguồn vốn khác để tài trợ. Để
đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh toán phát sinh buộc ngân hàng phải sử dụng
tiền mặt dự trữ, hoặc bán tài sản Có khác hoặc đi vay từ bên ngoài. Điều này có

thể dẫn đến những rủi ro về tài sản Nợ cho ngân hàng, hoặc làm giảm thu nhập
của ngân hàng , hoặc làm tăng rủi ro về tài sản Nợ cho ngân hàng.
• Ngoài ra còn có thể do kẻ gian cố ý làm chứng từ giả, truy cập vào
mạng của ngân hàng để ăn cắp tiền nếu không được phát hiện kịp thời thì rủi ro
thanh toán nảy sinh.
1.2.1.4.Rủi ro hối đoái:
Rủi ro hối đoái là rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái gây nên.
Những rủi ro này có thể phát sinh trong tất cả các nghiệp vụ có liên quan đến
ngoại ngoại tệ của ngân hàng như: cho vay , huy động vốn bằng ngoại tệ, mua
bán ngoại tệ, đầu tư chứng khoán bằng ngoại tệ…
Trong các giao dịch ngoại hối và trong cân đối tài sản bằng ngoại tệ của
ngân hàng, bất cứ một trạng thái ngoại hối “trường” hay “đoản” đều có thể gặp
rủi ro hối đoái khi tỷ giá ngoại tệ thay đổi. Nếu ngân hàng ở trạng thái ngoại tệ
trường thì khi ngoại tệ tăng giá ngân hàng sẽ có lãi, ngược lại ngân hàng sẽ bị lỗ
khi ngoại tệ đó xuống giá. Nếu ngân hàng ở trạng thái đoản về một loại ngoại tệ
nào đó, khi ngoại tệ tăng giá ngân hàng sẽ bị lỗ và ngược lại.
Như vậy việc tạo ra các trạng thái ngoại tệ “trường” hay “đoản” chính là
nguyên nhân gây rủi ro hối đoái cho ngân hàng. Đây chính là kết quả của việc
ngân hàng thực hiện các giao dịch ngoại tệ phục vụ cho khách hàng và cho
chính bản thân mình hoặc ngân hàng huy động vốn bàng ngoại tệ và đầu tư vào
các tài sản Có bằng ngoại tệ.
1.2.1.5. Rủi ro khác:
Ngoài những rủi ro cơ bản trên trong hoạt động của ngân hàng còn chịu
những rủi ro khác như:
• Rủi ro môi trường: là rủi ro do môi trường hoạt động của ngân hàng gây
nên, bao gồm: rủi ro do sự biến động của thiên nhiên ( lũ lụt, động đất ), rủi ro
về kinh tế ( khủng hoảng, suy thoái kinh tế ), rủi ro do sự thay đổi chính sách
pháp luật của Nhà nước gây bất lợi cho ngân hàng. Rủi ro môi trường là những
rủi ro mà ngân hàng khó liểm soát được, chúng có thể làm suy yếu khả năng
chịu đựng rủi ro của ngân hàng hoặc gây cho ngân hàng những thiệt hại về tài

chính.
• Rủi ro về công nghệ: loại rủi ro này thường xảy ra trong các trường hợp:
ngân hàng đã đầu tư rất lớn vào phát triển công nghệ nhưng hiệu quả sủ dụng
không cao không tiết kiệm chi phí cho ngân hàng theo như mong muốn. Hoặc hệ
thống công nghệ của ngân hàng trục trặc làm ảnh hưởng đến việc điều hành hoạt
động kinh doanh của ngân hàng gây ra những tổn thất nhất định.
• Các rủi ro khác: rủi ro hoạt động, rủi ro quốc gia, rủi ro pháp lý…thay
đổi thuế đột ngột, ảnh hưởng của chiến tranh làm cho các điều kiện của thị
trường tài chính thay đổi đột biến không dự tính trước, sự sụp đổ đột ngột của
thị trường chứng khoán, rủi ro trộm cắp, lừa đảo…
1.2.2. Khái niệm về Rủi ro Tín dụng Ngân hàng:
1.2.2.1. Khái niệm về rủi ro:
Rủi ro (risk) là một sự không chắc chắn (uncertainty) hay một tình trạng
bất ổn một biến cố có khả năng xảy ra và cũng có khả năng không xảy ra. Tuy
nhiên, không phải sự không chắc chắn nào cũng là rủi ro. Chỉ có những tình
trạng không chắc chắn nào có thể ước đoán được xác xuất sảy ra mới được xem
là rủi ro.
1.2.2.2. Khái niệm về rủi ro Tín dụng Ngân hàng:
Rủi ro tín dụng là sự xuất hiện những biến cố không bình thường do chủ
quan hay khách quan khiến cho khách hàng không hoàn trả được nợ cho ngân
hàng cả gốc và lãi khi đến hạn.
Trước đây, với cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp ít có tổ chức kinh
doanh nào để ý đến rủi ro trong hoạt động mà họ chỉ thực hiện một cách máy
móc theo quyết định, chỉ thị, chỉ tiêu của cấp trên giao, bởi vì lời hay lỗ họ vẫn
được hưởng một mức hưởng thụ như nhau đây là một thiệt hại lớn cho nền kinh
tế đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường tự do thời mở cửa, tự do cạnh tranh như
hiện nay, tất cả mọi thành phần kinh tế dù quốc doanh hay ngoài quốc doanh
cũng đều chú trọng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình, luôn tìm cách
nâng cao lợi nhuận để đứng vững trên thị trường, nếu không sẽ bị đào thải.

Chính vì lẽ đó mà rủi ro luôn được quan tâm xem xét và quản lý một cách đặc
biệt để nhằm khắc phục hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra trong
hoạt động kinh doanh của mình nhằm nâng cao hiệu quả và lợi nhuận. Đặc biệt,
hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường hiện nay đã phát sinh nhiều rủi
ro. Bởi vì, Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, luôn
phụ thuộc vào khách hàng, rủi ro của khách hàng vay vốn cũng kéo theo rủi ro
của ngân hàng.
1.2.3. Đặc điểm của rủi ro tín dụng:
Nghiên cứu những đặc điểm cơ bản của rủi ro tín dụng có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc xác định, đo lường, quản lý và kiểm soát nó. Rủi ro tín dụng
có những đặc điểm sau:
• Rủi ro tín dụng có tính tất yếu tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động
của NHTM. Tính tất yếu có ý nghĩa là ngân hàng có thể phòng ngừa tốt để hạn
chế đến mức thấp nhất rủi ro tín dụng chứ không thể loại bỏ nó được.
• Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp. Bởi vì ngân nàng là một định chế tài
chính trung gian, có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường, nó là một
tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền
gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay.
Bởi vậy, khi người vay gặp rủi ro trong sản xuất kinh doanh như: hỏa hoạn, lũ
lụt, chiến tranh, sự đổ vỡ của đối tác, khách hàng tẩy chay sản phẩm của công
ty…dẫn đến thua lỗ, phá sản thì sẽ tác động gián tiếp rủi ro đó cho NHTM, cho
nên nói rủi ro tín dụng mang tính chất gián tiếp.
• Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp. Tính đa dạng và phức
tạp của rủi ro tín dụng có thể chia làm nhiều loại như: rủi ro về đạo đức; rủi ro
cơ chế; rủi ro công tác kiểm tra, kiểm soát…
1.2.4. Nguyên nhân phát sinh rủi ro Tín dụng.
1.2.4.1. Nguyên nhân chủ quan:
a. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng: Ngân hàng là một ngành kinh
doanh đặc biệt đi vay với lãi suất thấp và sau đó cho vay lại với lãi suất cao hơn
để hưởng chênh lệch lãi suất. Dó đó, ngân hàng luôn xem xét rất cẩn thận trước

khi cho vay để đạt hiệu quả tránh rủi ro mất vốn. Vì thế rủi ro tín dụng do
nguyên nhân từ phía ngân hàng thường chiếm tỷ lệ nhỏ và do những nguyên
nhân sau:
 Do Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu
để phân tích và đánh giá khách hàng,…dẫn đến việc xác định sai hiệu quả
phương án xin vay, hoặc xác định thời hạn cho vay và trả nợ không phù hợp với
phương án kinh doanh của khách hàng.
 Sự lơi lỏng trong quá trình kiểm tra, giám sát sau khi cho vay nên
không phát hiện kịp thời hiện tượng sữ dụng vốn vay không đúng mục đích.
 Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm coi đó là vật
chất đảm bảo chắc chắn cho sự thu hồi nợ gốc và lãi tiền vay.
 Chạy theo số lượng (theo kế hạch) mà sao lãng việc coi trọng chất
lượng khoản vay, lạc quan, tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh
doanh.
 Ngân hàng có thể thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý
rủi ro, quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành
nghề, sản phẩm từng địa phưng khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần
thiết trong từng thời kỳ.
 Do cán bộ tín dụng thực hiện không đúng quy trình cho vay hay do
quy trình tín dụng thiếu chặc chẽ và không phù hợp.
 Ngân hàng phạm vi các nguyên tắc trong cho vay, cho vay vượt tỷ lệ
an toàn, hoặc thiếu tài sản thế chấp, cầm cố.
 Do chất lượng cán bộ tín dụng thấp nên thẩm định khách hàng để cho
vay thiếu chính xác hoặc cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức trong cho vay, cấu
kết với khách hàng để cho vay không đúng quy định của ngân hàng, hoặc cán bộ
tín dụng chiếm dụng vốn vay dẫn đến các khoản nợ quá hạn, nợ xấu gia tăng.
 Do cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt nên ngân hàng nới
lõng về điều kiện cần có của khách hàng để cho vay nhằm thu hút khách hàng.
b. Nguyên nhân từ phía khách hàng: Rủi ro từ phía khách hàng là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Việc phòng tránh rất khó khăn và phức tạp nó do thường những nguyên nhân
sau:
* Đối với khách hàng là cá nhân:
 Thiếu năng lực tài chính: khách hàng vay vốn không đủ khả năng tài
chính để trả nợ, dẫn đến việc thu hồi nợ của Ngân Hàng gặp khó khăn.
 Thiếu năng lực pháp lý: Khi khách hàng thiếu năng lực pháp lý thì
việc thu hồi nợ của ngân hàng cũng gặp khó khăn do cản trở về thủ tục và thời
gian.
 Sử dụng vốn sai mục đích: Đó là việc khách hàng dùng vốn vay của
mình không đúng mục đích theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Từ đó dẫn
đến khách hàng có thể làm ăn thua lỗ và không có khả năng trả nợ cho ngân
hàng.
 Do ý muốn chủ quan của người đi vay cố tình không trả nợ: Đây là
trường hợp xấu nhất trong các nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tín dụng.
Loại nguyên nhân này được xếp vào nguyên nhân rủi ro về đạo đức của người đi
vay. Trên thực tế cho thấy yếu tố đạo đức là nguyên nhân rất quan trọng trong
việc trả nợ vay, người đi vay có thể có khả năng nhưng cố tình không trả nợ, lừa
đảo chiếm đoạt tiền vay của bên cho vay.
 Do hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn như: bị sa thải, thất nghiệp, tai
nạn lao động…dẫn đến mất đi nguồn thu nhập để trả nợ ngân hàng.
* Đối với khách hàng là doanh nghiệp:
 Doanh nghiệp bị mất năng lực pháp lý: Do trong quá trình hoạt động
kinh doanh doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép kinh doanh, dẫn đến sản xuất kinh
doanh không được và không có khả năng trả nợ ngân hàng.
 Năng lực chuyên môn và uy tín lãnh đạo của doanh nghiệp bị giảm
thấp, đạo đức nghề nghiệp yếu kém, thiếu quan tâm để thực hiện tốt các khâu
của quá trình tổ chức, điều hành sản xuất kinh doanh hay do sự hạn chế về nghề
nghiệp chuyên môn của nhân viên doanh nghiệp dẫn đến doanh nghiệp làm ăn
yếu kém thua lỗ.
 Do doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích.

 Do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ( như gia nhập tổ chức WTO,
AFTA), các doanh nghiệp trong nước không cạnh tranh lại với các công ty nước
ngoài dẫn đến giảm sút thị trường tiêu thụ, giá thành sản phẩm làm ra phải hạ
thấp để cạnh tranh từ đó các doanh nghiệp làm ăn thua lổ và mất khả năng trả nợ
ngân hàng.
 Do doanh nghiệp không mua bảo hiểm như: bảo hiểm hỏa hoạn, bảo
hiểm tài sản, bảo hiểm thiên tai,…nên khi có biến cố xảy ra thì doanh nghiệp bị
tổn thất lớn và không có khả năng trả nợ vay.
 Sự thay đổi trong chính sách của nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến khả năng thu
hồi nợ của ngân hàng.
1.2.4.2. Nguyên nhân khách quan: Nguyên nhân này là tác nhân gây ra
rủi ro tín dụng bất khả kháng, xảy ra ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của con
người trong một thời điểm nào đó.
 Có thể xuất phát từ môi trường kinh tế, trong một nền kinh tế tăng
trưởng lành mạnh tiềm năng sản xuất và tiêu dùng của xã hội còn lớn thì hoạt
động sản xuất kinh doanh còn có nhiều cơ hội để phát triển và ngược lại, khi nền
kinh tế có hiện tượng lạm phát tăng vọt kéo theo đồng tiền nội địa bị mất giá,
dẫn đến kinh doanh trong nước bị trở ngại và khó khăn khiến cho khả năng thu
hồi vốn tín dụng trở nên phức tạp.
 Có thể xuất phát từ gốc độ của môi trường pháp lý, đây là một nhân
tố cũng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh rủi ro tín dụng, cũng là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp.
 Bên cạnh đó, trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế các nước trên
thới giới có mối quan hệ mật thiết với nhau về kinh tế, cho nên sự bất ổn về kinh
tế của nước này sẽ ảnh hưỡng đến nền kinh tế của nước khác. Do đó, các cuộc
khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài chính trên thới giới xảy ra dây chuyền từ
một hay một vài nước sau đó lan sang nhiếu nước, đây cũng là nguyên nhân làm
phá sản các NHTM.
Cần lưu ý dù nguyên nhân từ phía khách hàng hay từ phía ngân hàng,

nguyên nhân chủ quan hay khách quan đều dẫn đến hậu quả là khách hàng
không trã được nợ. Tuy nhiên, việc phân tích và phân định rỏ ràng nguyên nhân
sẽ giúp ngân hàng có biện pháp xử lý thích hợp để đạt được kết quả tốt hơn.
1.2.5. Hậu quả của rủi ro Tín dụng:
1.2.5.1. Đối với Ngân hàng:
• Về mặt tài chính: do không thu được nợ (gốc và lãi), Ngân hàng bị
giảm doanh thu trong khi vẫn trả tiền lãi (lãi đầu vào) gây mất cân đối trong thu
chi nghiệp vụ. Nợ quá hạn chính là hậu quả Ngân hàng gánh chịu, không thu
được nợ vòng quay vốn tín dụng không thực hiện được, Ngân hàng không có
khả năng đảm bảo vốn lưu động, hạn chế cả vai trò phục vụ lẫn khả năng kinh
doanh của Ngân hàng.
• Về mặt xã hội: từ rủi ro tín dụng dẫn đến rủi ro thanh khoản làm mất
lòng tin trong nhân dân gây ảnh hưởng đến tâm lý khách hàng gửi tiền. Một khi
xảy ra trường hợp này khách hàng sẽ đồng loạt đến rút tiền một cách ồ ạt tại
Ngân hàng và làm xáo trộn hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nếu Ngân
hàng không có biện pháp đối ứng kịp thời thì sẽ làm cho toàn bộ hệ thống của
Ngân hàng sụp đỗ. Đối với cơ quan quản lý cấp trên, Ngân hàng sẽ bị mất lòng
tin, không tin tưởng vào hoạt động của Ngân hàng cơ sở.
• Do tâm lý làm ăn thua lỗ, tâm lý của cán bộ, công nhân viên chán
nản, không tin tưởng vào khả năng hoạt động của chính mình làm cho thu nhập
của họ ngày một giảm sút, mất công ăn việc làm …có thể dẫn đến phá sản của
Ngân hàng.
1.2.5.2. Đối với nền kinh tế:
Hoạt động của Ngân Hàng có liên quan trực tiếp đến nền kinh tế, các xí
nghiệp và dân cư. Vì vậy khi rủi ro làm phá sản một số ngân hàng từ đó lan sang
các ngân hàng khác làm cho dân chúng mang một tâm lý sợ hãi nên dẫn đến tính
trạng rút tiền trước thời hạn. Như thế hệ thống ngân hàng bị rung chuyển và sẽ
tác động xấu đến nền kinh tế. Giá cả biến động, việc sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp bị đình đốn, khả năng trả nợ gặp khó khăn dẫn đến tình trạng đóng
cửa làm cho nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng, tệ nạn xã hội bùng phát, đồng

tiền mất giá tình trạng kinh tế vốn đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn nếu
không cứu giãn được có thể dẫn đến khủng hoảng nền kinh tế.
1.2.6.Các chỉ tiêu đánh giá hoạt Hộng kinh doanh & Rủi ro tín dụng của
NHTM:
1.2.6.1. Tỷ lệ vốn huy động trên tổng nguồn vốn: ( % )
Vốn huy động
Tỷ lệ vốn huy động / Tổng nguồn vốn x 100
Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này cho biết trong tổng nguồn vốn thì có bao nhiêu phần trăm là
vốn huy động tại địa phương, thể hiện tính ổn định vững chắc của ngân hàng tại
một tổ chức tín dụng và đánh giá khả năng huy động vốn của ngân hàng.
1.2.6.2. Vốn huy động trên dư nợ cho vay ( % )
Vốn huy động
Vốn huy động /Dư nợ cho vay = x 100
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này giúp ta đánh giá được hiệu quả của việc huy động vốn tại Ngân
hàng. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt, nếu chỉ tiêu này lớn chứng tỏ công tác huy
động vốn của ngân hàng không hiệu quả.
1.2.6.3. Tỷ lệ dư nợ trên tổng vốn huy động: ( % )
Tổng DN
Tỷ lệ Tổng DN trên VHĐ = x 100
VHĐ
Chỉ tiêu này đánh giá khả năng sủ dụng vốn huy động vào việc cho vay vốn.
Thông thường khi nguồn vốn huy động ở ngân hàng chiếm tỷ lệ thấp so với tổng
nguồn vốn sử dụng thì dư nợ thường gấp nhiều lần so với vốn huy động. Nếu
ngân hàng sủ dụng vốn vay phần lớn từ nguồn vốn cấp trên thì không hiệu quả
bằng việc sử dụng nguồn vốn huy động. Chỉ tiêu này quá lớn hay quá nhỏ đều
không tốt, bởi vì nếu chỉ tiêu này quá lớn thì cho thấy khả năng huy động vốn
của ngân hàng quá thấp, ngược lại nếu chỉ tiêu này quá nhỏ cho thấy ngân hàng
đã sử dụng vốn huy động càng không hiệu quả. Do vậy, tỷ lệ này càng gần 1 thì

càng tốt cho hoạt động ngân hàng, khi đó ngân hàng sử dụng một cách hiệu quả
nguồn vốn huy động.
1.2.6.4. Hệ thu nợ: (%)
Doanh số thu nợ
Hệ số thu nợ = x 100
Doanh số cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả thu nợ của ngân hàng hay khả năng trả
nợ vay của khách hàng, cho biết số tiền mà ngân hàng thu được trong một thời
kỳ kinh doanh nhất định từ một đồng doanh số cho vay. Hệ số thu nợ càng lớn
thì càng được đánh giá tốt, cho thấy công tác thu hồi vốn của ngân hàng càng
hiệu quả và ngược lại.
1.2.6.5. Vòng vay vốn tín dụng: ( vòng )
Doanh số thu nợ
Vàng vay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của đồng vốn tín dụng thông qua tính
luân chuyển của nó, đồng vốn được vay vòng càng nhanh thì càng hiệu quả và
đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
1.2.6.6. Hệ số rủi ro: ( % )
Tổng dư nợ
Hệ số rủi ro = x 100
Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng đầu tư vào cho vay của ngân hàng so với tổng
nguồn vốn, hay là dư nợ cho vay chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng nguồn
vốn sử dụng của ngân hàng. Đây là chỉ số tính toán hiệu quả tín dụng của một
đồng tài sản. Tỷ lệ này quá cao hoặc quá thấp đều không tốt. Nếu quá cao, ngân
hàng gặp rủi ro sẽ ảnh hưởng đến doanh thu còn quá thấp thì ngân hàng chưa thể
hiện tốt vai trò của mình. Ngoài ra chỉ số này còn giúp xác định quy mô hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
1.2.6.7. Tỷ lệ nợ quá hạn: ( % )

Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu trên phản ánh chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng. Nếu tỷ lệ
nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng tốt vì
khả năng thu hồi nợ cao và ngược lại. Theo qui định thì tỷ lệ nợ quá hạn chỉ
được phép nhỏ hơn hoặc bằng 5% tổng dư nợ, nghĩa là trong 100 đồng dư nợ thì
nợ quá hạn tối đa chỉ được 5 đồng.
Để đảm bảo quản lý chặc chẽ theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
ngày 22 tháng 4 năm 2005 của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam về
phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt
động Ngân Hàng của tổ chức tín dụng, nợ quá hạn được phân chia theo thời hạn
như sau:
- Nợ đủ tiêu chuẩn: nợ trong hạn
- Nợ cần chú ý: nợ quá hạn đến 90 ngày
- Nợ dưới tiêu chẩn: nợ quá hạn từ trên 90 ngày đến 180
ngày
- Nợ nghi ngờ: nợ quá hạn từ trên 180 ngày đến 360 ngày
- Nợ có khả năng mất vốn: nợ quá hạn trên 360 này
1.2.6.8. Tỷ lệ rủi ro tín dụng: ( % )
Tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ rủi ro tín dụng = x 100
Tổng tài sản Có
Tổng tài sản Có: là bao gồm tổng dư nợ cho vay và vốn tự có của ngân hàng
Tỷ lệ này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản Có,
khoản mục trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn. Nhưng đồng thời rủi
ro tín dụng cũng rất cao và ngược lại.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN
DỤNG TẠI NGÂN HÀNG No&PTNT HUYỆN LAI VUNG
2.1 ĐẠC ĐIỂM TÌNH HÌNH ĐỊA BÀN HUYỆN LAI VUNG – ĐT

2.1.1. Vị trí địa lý và Điều kiện tự nhiên.
2.1.1.1.Vị trí địa lý:
Huyện Lai Vung thuộc 12 huyện thị của Tỉnh Đồng Tháp thuộc khu vực
Đồng Bằng Sông Cửu Long, với hệ thống sông ngòi chằn chịt, nằm ở vị trí rất
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội của huyện. Trong những năm gần đây
huyện có những bước phát triển đáng kể về giao thông nông thôn được sữa chữa
xây dựng mới, các tuyến đường nhựa được khởi công từ huyện đến các xã mạng
lưới điện cũng được xây dựng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế
của vùng.
 Phía Đông giáp với Thị Xã Sa Đéc và huyện Châu Thành
Đồng Tháp.
 Phía Bắc giáp với huyện Lấp Vò Đồng Tháp.
 Phía Tây giáp với Thành Phố Cần Thơ.
 Phía Nam giáp với huyện Bình Minh Vĩnh Long.
2.1.1.2. Điều kiện tự nhiên, dân số & diện tích:
Huyện thuộc vùng Đồng Bằng có địa hình tương dối bằng phẳng nên rất
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp, có hơn 70% dân số sống bằng
nghề nông nên kinh tế của vùng hầu hết là kinh tế nông nghiệp nông thôn. Khí
hậu nhiệt đới gió mùa chia làm hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa nắng. Với lợi
thế nằm ven sông Hậu có hệ thống sông ngòi dày đặc được phù sa bồi đắp hàng
năm nên đất đai rất màu mỡ thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp
và nuôi trồng thuỷ sản.
Huyện Lai Vung có diện tích 219,77km
2
. Đất sản xuất nông nghiệp là
18.180ha với dân số 259.948 người, mật độ dân số trung bình là 726người/ km
2
.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội:
Lai Vung là một huyện nông thôn sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, diện

tích đất nông nghiệp là 18.180ha, đạt giá trị 380.824 tỷ đồng.
Đa số người dân sống bằng nghề sản xuất lúa, trồng cây ăn quả, chăn nuôi
và nuôi trồng thủy sản, đây là nguồn thu nhập chính của huyện. Bên cạnh đó,
Lai Vung là vùng có sản phẩm đặc sản nổi tiếng cả nước là Nem, nên hàng năm
cũng đem lại thu nhập cao cho người sản xuất. Do đó, đời sống của người dân
ngày càng được cải thiện, thực hiện chính sách xóa đói giảm ngèo cuộc sống của
từng gia đình được nâng cao hơn, gia đình văn hóa của xóm ấp ngày càng tăng
góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn
minh.
Ngoài ra toàn huyện còn có 2.571 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp đạt giá trị 139.260 tỷ đồng, gần đây được sự quan tâm của Đảng và
Nhà Nước, giao thông nông thôn của huyện được phát triển, xe 2 bánh lưu thông
đến được từng xóm ấp, cụm dân cư. Hầu hết các tuyến đường đều được nhựa
hoá. 12/12 xã, thị trấn điều có điện lưới quốc gia phục vu cho trên 80% số hộ
dân sinh hoạt và sản xuất.
Mạng lưới y tế được bố trí đều khắp 12 xã, thị trấn nhằm phục vụ chăm
sóc sức khoẻ khám và chữa bệnh cho người dân.
Mạng lưới thông tin liên lạc cũng rất phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu
liên lạc của người dân.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,48%, nguồn lao động xã hội 235.457 người,
GDP là 1.120 triệu/năm, tốc độ tăng GDP là 8,2%.
(Trích từ báo cáo tổng kết tình hình kinh tế xã hội huyện Lai Vung 2008)
2.2.GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân Hàng:
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Lai Vung được
hình thành vào tháng 10 năm 1975 với tên ban đầu là Chi nhánh nhà nước huyện
Lấp Vò.
Năm 1979 được đổi tên thành Chi nhánh Phát triển Nông nghiệp huyện
Lấp Vò.
Năm 1989 được đổi tên thành chi nhánh Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp

huyện Lai Vung.
Đến ngày 23 tháng 05 năm 1990 pháp lệnh, hợp tác xã tín dụng, công ty tài
chính ra đời, Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp huyện Lai Vung được xem là
thương mại ngoài quốc doanh và được đổi tên thành chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Lai Vung.
Hiện nay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Lai Vung
là NHTM hoạt động theo pháp luật với phương châm “ kinh doanh để phục vụ,

×