Tải bản đầy đủ (.doc) (206 trang)

BIẾN ĐỔI VĂN HÓA SINH KẾ CỦA CƯ DÂN TẠI QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA DU LỊCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.04 MB, 206 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI VĂN MẠNH

BIẾN ĐỔI VĂN HÓA SINH KẾ CỦA CƯ DÂN
TẠI QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN
TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA DU LỊCH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH VĂN HÓA HỌC
Mã số: 9229040

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS,TS PHẠM DUY ĐỨC

2. TS. LÊ XUÂN KIÊU

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả

Bùi Văn Mạnh


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các cơng trình nghiên cứu về sinh kế và văn hóa sinh kế

Trang
1
ĐẾN ĐỀ
8
8

1.2. Các cơng trình nghiên cứu về sự biến đổi văn hóa và biến đổi văn hóa sinh kế14
1.3. Các cơng trình nghiên cứu về sự biến đổi văn hóa sinh kế trước tác động của du

lịch

21

1.4. Các cơng trình nghiên cứu về văn hóa, tác động của du lịch đối với di sản và

sinh kế của cư dân tại quần thể danh thắng tràng an

25

1.5. Đánh giá chung về những thành tựu nghiên cứu mà luận án có thể kế thừa và

những khoảng trống mà luận án cần đi sâu nghiên cứu
Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA SINH
VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
2.1. Một số khái niệm cơng cụ

2.2. Lý thuyết biến đổi văn hóa và khung phân tích biến đổi văn hóa sinh kế

28
KẾ
32
32
43

2.3. Quan điểm phát triển du lịch và mối quan hệ văn hóa sinh kế và du lịch tại

Quần thể danh thắng Tràng An
48
2.4. Tổng quan địa bàn nghiên cứu
54
Chương 3. THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI VĂN HÓA SINH KẾ CỦA CƯ DÂN TẠI
QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN
63
3.1. Đặc điểm văn hóa sinh kế của cư dân tại Quần thể danh thắng Tràng An trước

năm 2000 63 3.2. Thực trạng biến đổi văn hóa sinh kế của cư dân tại
Quần thể danh thắng Tràng An do
tác động của phát triển du lịch
82
3.3. Đánh giá sự biến đổi văn hóa sinh kế của cư dân ở Quần thể danh thắng Tràng

An trước tác động của phát triển du lịch
105
Chương 4. NHỮNG YẾU TỐ VÀ XU HƯỚNG TÁC ĐỘNG ĐẾN BIẾN ĐỔI
VĂN HÓA SINH KẾ CỦA CƯ DÂN TẠI QUẦN THỂ DANH THẮNG
112

TRÀNG AN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY
112
4.1. Những yếu tố tác động và xu hướng biến đổi văn hóa sinh kế của cư dân tại

Quần thể danh thắng Tràng An
4.2. Những vấn đề đặt ra do tác động của phát triển du lịch

112
129

4.3. Một số khuyến nghị về giải pháp phát triển văn hóa sinh kế bền vững của cư

dân ở Quần thể danh thắng Tràng An trong quá trình phát triển du lịch
KẾT LUẬN
DANH MỤC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NGHIÊN CỨU SINH
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

135
149
ĐÃ
152
153
164


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BĐVH


Biến đổi văn hóa

BCH

Ban chấp hành

CSHT

Cơ sở hạ tầng

CMCN

Cách mạng cơng nghiệp

DSVHTNTG

Di sản Văn hóa và thiên nhiên thế giới

DSVH

Di sản văn hóa

DFID

Department for International Development (Cơ quan phát

GDP

triển Quốc tế).

Tổng sản phẩm quốc nội

KTXH

Kinh tế xã hội

KTTT

Kinh tế thị trường

QTDT

Quần thể danh thắng

SBĐVHSK

Sự biến đổi văn hóa sinh kế

UBND

Ủy ban nhân dân

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp Quốc

VHSK

Văn hóa sinh kế


XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Các thành tố của văn hóa sinh kế

39

Sơ đồ 2.2. Khung phân tích sinh kế bền vững DFID [13, tr.40]

45

Sơ đồ 2.3. Khung phân tích sự biến đổi văn hóa sinh kế

46

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Trình độ học vấn của người dân địa phương

67

Biểu đồ 3.2. Thu nhập của người dân giai đoạn 1990-2000

69

Biểu đồ 3.3. Nghề nghiệp trước đây của người dân địa phương

73


Biểu đồ 3.4. Mức độ đáp ứng diện tích đất sản xuất, trồng cấy của gia đình 83
Biểu đồ 3. 5. Thu nhập hiện nay của người dân

84

Biểu đồ 3.6. Lợi ích du lịch mang lại cho kinh tế địa phương

85

Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ người dân được tham gia các lớp bồi dưỡng du lịch

87

Biểu đồ 3.8. Khó khăn khi chuyển sang làm nghề mới

88

Biểu đồ 3.9. Sự phù hợp của công việc hiện tại đối với người dân 89
Biểu đồ 3.10.Mức độ thường xuyên tổ chức và tham gia lễ hội truyền thống 91
Biểu đồ 3.11. Đánh giá chất lượng tổ chức các lễ hội văn hóa truyền thống 91
Biểu đồ 3.12. Mức độ hấp dẫn của các lễ hội văn hóa truyền thống 92
Biểu đồ 3.13. Tỷ lệ các hộ gia đình có làm nghề phụ

96

Biểu đồ 3.14. Nghề nghiệp hiện nay của người dân địa phương

98


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Diện tích đất tự nhiên và đất gieo trồng 3 xã năm 2010

64

Bảng 3.2. Diện tích gieo trồng cấy của các xã giai đoạn 2010-2018 83
Bảng 3.3. Cơ cấu nguồn lao động làm du lịch tại các xã hiện nay

86

Bảng 3.4. Tổng hợp các cơ sở dịch vụ và quản lý khu du lịch

93

Bảng 3.5. Đánh giá về chủ trương, chính sách phát triển KTXH và du lịch 94


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới là những tài sản vô giá và khơng thể
thay thế, có giá trị và ý nghĩa đặc biệt to lớn đối với mỗi cá nhân, cộng đồng, địa
phương, quốc gia và toàn nhân loại. Di sản thế giới là những khu vực có giá trị
nổi bật về cảnh quan tự nhiên, văn hóa, kiến trúc độc đáo và hệ sinh thái đa dạng,
phong phú, có sức lôi cuốn rất lớn với khách du lịch. Không phải ngẫu nhiên mà
hàng năm các khu Di sản thế giới thu hút hàng triệu lượt lượt du khách tới thăm.
Du lịch trở thành một công cụ chủ yếu trong nỗ lực giữ gìn, bảo vệ di sản, tạo việc
làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho cộng đồng địa phương, đặc biệt
ở những khu vực được bảo vệ của di sản.
Tuy nhiên quá trình phát triển du lịch cũng tạo ra khơng ít những tác động

tới khu di sản và cộng đồng cư dân địa phương, nhất là ở các nước đang phát
triển. Một trong những tác động rõ nhất đối với cư dân trong khu di sản, đó là sự
thay đổi các nguồn lực sinh kế (nguồn lực con người, nguồn lực tư nhiên, tài
chính, vật chất và nguồn lực xã hội), hệ thống sinh kế, phương thức sinh kế và
các hoạt động sinh kế truyền thống cùng với những giá trị văn hóa gắn liền với
các hoạt động sinh kế. Trước đây người dân sinh sống trong các khu vực di sản
chỉ quen với nghề làm nông nghiệp, chăn nuôi, săn bắt, hái lượm, làm một số
nghề thủ công, khi thực hiện các dự án phát triển du lịch, nhiều diện tích đất tự
nhiên, đất sản xuất nông nghiệp, đất ở của người dân bị thu hồi để làm dự án du
lịch, nguồn lực đất đai bị hạn chế, không gian sản xuất, canh tác bị thu hẹp, buộc
nhiều người phải chuyển đổi nghề nghiệp, cách thức kiếm sống.
Quần thể danh thắng Tràng An đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hóa của Liên hiệp Quốc (UNESCO) công nhận là Di sản Văn hoá và Thiên
nhiên thứ 31 trên thế giới vào năm 2014 và là di sản hỗn hợp duy nhất của Việt
Nam cho đến thời điểm hiện tại. Quần thể danh thắng Tràng An có diện tích 12.252
ha, trong đó khu di sản là 6.226ha, vùng đệm 6.026 ha, nằm trên địa bàn của 20 xã,
phường thuộc 5 huyện và thành phố. Là vùng đất cổ nơi đang lưu giữ dấu vết của
người tiền sử cách ngày nay hơn 30.000 năm. Người dân đã sinh sống gắn bó
hàng nghìn năm, trải qua bao biến cố to lớn về môi trường, cảnh


2
quan và trở thành một phần không thể tách rời của di sản. Đến nay trong vùng
lõi của di sản có khoảng 20.000 dân sinh sống, tập trung chủ yếu ở các xã
Trường Yên, Ninh Xuân và Ninh Hải của huyện Hoa Lư, với sinh kế truyền
thống chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi và làm nghề thủ công. Khu di sản Quần
thể danh thắng Tràng An hiện là điểm đến hàng đầu của tỉnh Ninh Bình và khu
vực phía Bắc, hàng năm thu hút khoảng 3 triệu lượt khách. Du lịch khơng chỉ
đóng góp trực tiếp vào việc bảo tồn, gìn giữ di sản mà cịn góp phần tích cực
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho hàng chục

nghìn lao động địa phương và nâng cao đời sống văn hóa của người dân địa
phương. Bên cạnh đó, phát triển du lịch cũng tạo ra nhiều tác động tiêu cực
đối với cư dân địa phương do sự thay đổi về môi trường, không gian sản
xuất, tri thức, kinh nghiệm trong lao động, sản xuất cũng như tác động tới lối
sống, phong tục tập quán, văn hóa truyền thống của địa phương. Mức độ tác
động, ảnh hưởng của du lịch tới người dân còn phụ thuộc khả năng thích ứng
và nguồn lực của cá nhân và hộ gia đình, nhiều người thích ứng, chủ động
học hỏi, trang bị kiến thức, kỹ năng về kinh doanh du lịch làm kế sinh nhai
mới như kinh doanh nhà hàng, khách sạn, bán hàng lưu niệm, vận tải du lịch,
nhưng cũng có nhiều người thích ứng chậm hơn, bị động trong việc chuyển
đổi sinh kế, việc làm, thậm chí hẫng hụt, mất phương hướng, kết quả là chịu
thiệt thòi và yếu thế hơn trong các hoạt động sinh kế mới. Những thay đổi này
cũng dẫn đến sự biến đổi các giá trị văn hóa sinh kế, phong tục, tập quán, lối
sống của người dân địa phương.
Mặc dù đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa và
văn hóa sinh kế của cư dân trước tác động của q trình cơng nghiệp hóa, đơ thị
hóa ở nhiều địa phương khác nhau trên phạm vi cả nước, trong đó có tác động
của phát triển du lịch, nhưng chưa có cơng trình nghiên cứu một cách hệ thống,
chuyên biệt về biến đổi văn hóa sinh kế của cư dân tại Quần thể danh thắng Tràng
An trước tác động của du lịch dưới góc độ văn hóa học. Trước những vấn đề đặt
ra về cả thực tiễn và nhu cầu nghiên cứu khoa học về biến đổi văn hóa sinh kế
của người dân địa phương trong vùng Quần thể danh thắng Tràng An trước tác
động của phát triển du lịch, nghiên cứu sinh chọn đề tài nghiên cứu


3
“Biến đổi văn hóa sinh kế của cư dân tại Quần thể danh thắng Tràng An
trước tác động của du lịch” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành văn hóa học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu về biến đổi văn hóa sinh kế của cư dân tại Quần
thể danh thắng Tràng An trước tác động của du lịch, Luận án tập trung nghiên
cứu, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sinh kế, tìm hiểu sự
biến đổi văn hóa sinh kế trong bối cảnh phát triển du lịch, đồng thời lý giải những
nguyên nhân, xu hướng ảnh hưởng tới sự biến đổi, bàn luận một số vấn đề đặt ra
để phát triển văn hóa sinh kế bền vững trước tác động của du lịch.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
1) Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa
sinh kế do tác động của phát triển du lịch;
2) Nghiên cứu làm rõ thực trạng biến đổi sinh kế và văn hóa
sinh kế của cư dân 3 xã nằm trong vùng lõi Quần thể danh thắng
Tràng An trước và sau khi phát triển du lịch;
3) Nhận diện các yếu tố tác động, xu hướng khai thác du lịch tác
động tới biến đổi, thời cơ và thách thức đối với biến đổi văn hóa sinh kế;
bàn luận xác định một số vấn đề đặt ra để phát triển sinh kế bền vững của
cư dân tại Quần thể danh thắng Tràng An trong quá trình phát triển du lịch.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những bến đổi văn hóa sinh kế của cư dân trong khu di sản
Quần thể danh thắng Tràng An trước tác động của phát triển du lịch.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Trong vùng lõi khu di sản thế giới Quần thể danh thắng
Tràng An có 12 xã thuộc các huyện Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan và thành phố
Ninh Bình, luận án tập trung vào 3 xã có dân số chiếm trên 90% cư dân sống
trong vùng lõi di sản chịu nhiều tác động nhất do phát triển du lịch gồm các xã
Trường Yên, Ninh Xuân và Ninh Hải thuộc huyện Hoa Lư.



4
- Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2000 đến nay, khi cư dân địa
phương trong khu vực di sản chịu tác động do phát triển du lịch. Đây là
thời điểm các dự án phát triển các khu, điểm du lịch được triển khai và
đưa vào khai thác phục vụ khách du lịch và những năm tiếp theo.
- Về nội dung: Phân tích, đánh giá thực trạng biến đổi văn hóa

sinh kế và ứng xử của cư dân tại Quần thể danh thắng Tràng An
trước tác động của phát triển du lịch.
4. Những câu hỏi nghiên cứu
Thứ nhất, đặc điểm văn hóa sinh kế của cư dân trong khu di sản
thế giới Quần thể danh thắng Tràng An trước khi phát triển du lịch?
Thứ hai, văn hóa sinh kế của cư dân trong khu di sản Quần thể danh
thắng Tràng An biến đổi như thế nào trước tác động của phát triển du lịch?

Thứ ba, những vấn đề gì đặt ra đối với sự biến đổi văn hóa sinh kế
của cư dân trong khu di sản trước tác động của phát triển du lịch; cần làm
gì để phát triển văn hóa sinh kế bền vững trong q trình phát triển du lịch.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của Luận án được phát triển trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà
nước về văn hóa và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Luận án đã sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành như xã hội học, văn hóa học,
kinh tế học, du lịch học để khảo sát, xem xét sự biến đổi văn hóa sinh kế của cư dân
tại khu di sản Quần thể danh thắng Tràng An trước tác động của phát triển du lịch,
đồng thời vận dụng các lý thuyết về biến đổi văn hóa, khung sinh kế bền vững và đưa
ra khung phân tích sự biến đổi văn hóa sinh kế để phân tích, luận giải về sự biến đổi

văn hóa sinh kế của cư dân trong khu di sản cũng như các yếu tố tác động trong quá
trình phát triển du lịch đối với sự biến đổi đó.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Luận án tập trung nghiên cứu phân tích các tài liệu, các số liệu, các kết quả
điều tra, các kết quả nghiên cứu đã có để khái quát hóa, tổng hợp hóa, đưa ra


5
các nhận định, đánh giá khoa học của luận án, đảm bảo tính khoa học
của các phân tích, đánh giá về văn hóa sinh kế và sự biến đổi văn hóa
sinh kế của cư dân trong khu di sản Quần thể danh thắng Tràng An.

5.2.2. Phương pháp điền dã
Phương pháp điền đã được sử dụng để thu thập các nguồn tài liệu
định tính liên quan đến địa bàn nghiên cứu. Nghiên cứu sinh đã trực tiếp
quan sát, kiểm tra, trao đổi, nói chuyện và phỏng vấn sâu các đối tượng
sau: 1). Cán bộ xã, cán bộ, thơn xóm của các địa phương trong khu di sản;
2) Cán bộ quản lý, điều hành của các doanh nghiệp, đơn vị quản lý, khu,
điểm du lịch; 3) Người dân tham gia hoạt động dịch vụ du lịch; 4). Các
hướng dẫn viên, công ty lữ hành đưa khách đến khu di sản; 5) Các chuyên
gia nghiên cứu về di sản văn hóa, du lịch, xã hội học và kinh tế.
Với vai trò là người làm công tác quản lý di sản và du lịch của tỉnh, nghiên
cứu sinh đã thường xuyên đi xuống địa bàn các khu, điểm du lịch và các khu dân
cư để kiểm tra và nắm bắt tình hình hoạt động, xử lý các vấn đề phát sinh liên
quan đến di sản, hoạt động kinh doanh du lịch, dịch vụ. Thông qua các buổi làm
việc tại thực địa, trực tiếp nói chuyện với cộng đồng cư dân địa phương, nghiên
cứu sinh đã được chia sẻ và cung cấp nhiều thông tin bổ ích phục vụ cho đề tài
của Luận án cũng như công tác quản lý di sản và phát triển du lịch của tỉnh. Vừa

thực hiện quan sát tham dự vừa tham dự tích cực vào các hoạt động du lịch, đào
tạo tập huấn, nghiên cứu cùng các chuyên gia nước ngoài xây dựng hồ sơ di sản,
quy hoạch, kế hoạch quản lý di sản, khai quật khảo cổ học…, nghiên cứu sinh đã
có cái nhìn tương đối đầy đủ, dưới nhiều góc độ về các hoạt động sinh kế và sự
biến đổi văn hóa sinh kế của người dân tại khu di sản Quần thể danh thắng Tràng
An trong quá trình phát triển du lịch.

5.2.3. Phương pháp điều tra xã hội học
Để thu thập các thông tin sơ cấp, định lượng liên quan đến dân cư các địa
phương nằm trong vùng lõi của khu di sản từ năm 2000 đến nay, nghiên cứu sinh
đã có nhiều buổi làm việc và phỏng vấn tìm hiểu về cư dân sinh sống trong vùng
lõi di sản. Chính thức sau khi nhận đề tài nghiên cứu từ đầu năm 2017 đến nay,
nghiên cứu sinh đã tiến hành điều tra xã hội học cộng đồng dân cư tại 3 xã


6
Trường Yên, Ninh Xuân và Ninh Hải. Đây là 3 xã nằm trong vùng lõi di sản, nơi có
nhiều dự án đầu tư du lịch và có hoạt động du lịch phát triển nhất, đối tượng điều
tra chủ yếu là: 1) người dân làm các dịch vụ du lịch (chèo đò, bán hàng, bảo vệ,
kinh doanh nhà nghỉ, nhà hàng); 2) những người dân làm quản lý tại các khu,
điểm du lịch; 3) cán bộ công chức xã. Tổng số phiếu phát ra và thu về: 500 phiếu,
được phân bổ như sau: người chèo đò và làm dịch vụ du lịch 350 phiếu; người
điều hành và quản lý tại các khu du lịch 100 phiếu; cán bộ công chức xã 50 phiếu.
Trong quá trình thực hiện điều tra, được sự giúp đỡ của cán bộ Ban Quản
lý khu du lịch sinh thái Tràng An, Tam Cốc - Bích Động, Trung tâm Bảo tồn di tích
Cố đơ Hoa Lư, Ban Quản lý Quần thể danh thắng Tràng An, Trung tâm Thông tin
xúc tiến du lịch, lãnh đạo 3 xã Trường Yên, Ninh Xuân và Ninh Hải, Doanh nghiệp
Xây dựng Xuân Trường, Doanh nghiệp Ngôi Sao và nhiều người dân địa phương,
nghiên cứu sinh đã hoàn thành việc điều tra 500 phiếu. Bên cạnh đó, nghiên cứu
sinh đã trực tiếp gặp gỡ và thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn sâu với một số người

chèo đò, hướng dẫn viên du lịch, cán bộ quản lý và lãnh đạo chính quyền địa
phương để hiểu rõ hơn về những thay đổi trong cuộc sống, việc làm, phong tục
tập quán và các nghi lễ liên quan đến sinh kế cũng như những thuận lợi, khó
khăn, thách thức của người dân từ khi chuyển đổi sang làm du lịch.

5.2.4. Phương pháp so sánh
Bên cạnh các phương pháp trên, nghiên cứu sinh còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chung của ngành khoa học xã hội như: so sánh
hai thời kỳ trước và sau khi phát triển du lịch để tìm hiểu về văn hóa sinh
kế ở từng thời kỳ; đưa ra các dự báo xu hướng biến đổi văn hóa sinh kế và
bàn luận, đưa ra các giải pháp mang tính khuyến nghị giúp cho các cơ
quan quản lý ở địa phương trong quá trình phát triển du lịch.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1.Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần hệ thống hóa về văn hóa sinh kế, biến đổi văn hóa
sinh kế trong quá trình phát triển du lịch của cư dân tại quần thể danh thắng
(QTDT) Tràng An, tỉnh Ninh Bình dưới góc nhìn văn hóa học. Luận án sẽ đóng
góp cho việc hồn thiện hơn một số vấn đề lý luận về văn hóa sinh kế và


7
sự biến đổi của văn hóa sinh kế trước những tác động của du lịch tại
các khu di sản thế giới hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án làm sáng tỏ thực trạng biến đổi văn hóa sinh kế của cư
dân tại khu Quần thể danh thắng Tràng An trước tác động của du lịch.

- Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể làm tài liệu tham khảo
cho công tác nghiên cứu và giảng dạy các môn học về văn hóa học

và du lịch học, làm tài liệu tham khảo cho công tác quản lý, bảo tồn
di sản và phát triển du lịch ở nước ta hiện nay.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục cơng trình nghiên cứu
đã cơng bố; Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính
của Luận án được bố cục thành 4 chương cụ thể như sau:
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2. Cơ sở lý luận về biến đổi văn hóa sinh kế và khái
quát địa bàn nghiên cứu.
Chương 3. Thực trạng biến đổi văn hóa sinh kế của cư dân tại
Quần thể danh thắng Tràng An trước tác động của du lịch.
Chương 4. Bàn luận về sự biến đổi văn hóa sinh kế của cư dân tại Quần
thể danh thắng Tràng An trước tác động của du lịch trong tình hình hiện nay.


8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ SINH KẾ VÀ VĂN HÓA SINH KẾ

1.1.1. Về sinh kế
Sinh kế là vấn đề được nhiều ngành khoa học trên thế giới quan tâm,
nghiên cứu từ lâu. Về sau, sinh kế được các nhà nghiên cứu văn hóa từ nhiều
chuyên ngành trong nước tiếp nhận và phát triển trong nghiên cứu về khoa
học văn hóa ứng dụng, bởi nội hàm của sinh kế có tính thực tiễn cao.

Ý tưởng về sinh kế đã có từ tác phẩm của Robert Chambers vào giữa
những năm 80 của thế kỷ XX, sau đó được Chambers, Conway và những
nhà nghiên cứu khác phát triển vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Tiếp

tục bổ sung và phát triển các nghiên cứu về sinh kế của Ủy ban Thế giới về
Môi trường và phát triển (WCED), Chambers & Conway đã đưa ra khái niệm
sinh kế tương đối hoàn chỉnh về sinh kế, bao gồm năng lực, tài sản (dự
trữ, nguồn lực, yêu cầu và tiếp cận) và các hoạt động cần có để bảo đảm
phương tiện sinh sống: sinh kế chỉ bền vững khi nó có thể đương đầu với
và phục hồi sau các cú sốc, duy trì hoặc cải thiện năng lực và tài sản, và
cung cấp các cơ hội sinh kế bền vững cho các thế hệ kế tiếp [104, tr.6].
Trong tài liệu hướng dẫn khung phân tích sinh kế nơng thơn bền vững
(1997), trên cơ sở kế thừa nghiên cứu của Chambers & Conway và các cơng
trình nghiên cứu trước đó, Ian Scoone và đồng nghiệp đã đưa ra khái niệm và
khung phân tích sinh kế bền vững khá đầy đủ với 5 chỉ số đánh giá chính (bối
cảnh, điều kiện xu hướng; các nguồn lực sinh kế; thể chế và tổ chức; chiến
lược sinh kế; và kết quả sinh kế), trong đó các yếu tố thể chế và tổ chức ảnh
hướng quan trọng tới kết quả sinh kế bền vững [109].
Schultz và Lavenda (2001) cho rằng khi nói đến sinh kế là hàm ý con người
phải làm gì để có được của cải vật chất như lương thực, quần áo, chỗ ở nhằm
duy trì cuộc sống [70, tr.8]. Trong khi đó Grant Evans, thì nhấn mạnh sinh kế
nghiên cứu mặt vật chất của đời sống trong bối cảnh xã hội và văn hóa của nó,


9
đồng thời nghiên cứu cái cách mà các khâu sản xuất phân phối tiêu
thụ đã tham gia như thế nào vào tồn bộ cấu trúc của xã hội, sinh kế
khơng chỉ là kinh tế mà cịn là văn hóa và phản ánh văn hóa [105].
Các nhà nghiên cứu tại Việt Nam trong những năm trở lại đây đã có nhiều nghiên
cứu và đưa ra những nhận định về vấn đề sinh kế. Các nghiên cứu đa phần đã chỉ ra
hoạt động kinh tế hay sinh kế chính là sự thích nghi của con người với môi trường tự
nhiên trong quá trình thỏa mãn các nhu cầu vật chất để đảm bảo sự sinh tồn của mình,
hay sinh kế là những phương thức kiếm sống của cá nhân hay cộng đồng, nhằm đáp
ứng các nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần để duy trì sự phát triển của cá nhân

hay cộng đồng đó. Trong Luận án “Biến đổi sinh kế của người Dao di cư tự do tại
huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk” của Đào Thanh Thái [75, tr. 34] đã đưa ra những vấn đề
về sinh kế của người Dao tại Cư M’gar, tác giả cũng đã nhận định sinh kế của người
Dao tại địa bàn mình nghiên cứu là một tập hợp của các nguồn lực và khả năng của
con người kết hợp với những quyết định và hoạt động mà họ sẽ thực hiện để không
những kiếm sống mà còn đạt đến mục tiêu đa dạng hơn. Hay nói cách khác, sinh kế
của một hộ gia đình hay một cộng đồng cịn được gọi là kế sinh nhai của hộ gia đình
hay cộng đồng đó.

Trên cơ sở khung lý thuyết về sinh kế và biến đổi sinh kế của DFID,
Trần Văn Bình đã đưa ra một quan niệm và hướng nghiên cứu tương
đối toàn diện về sinh kế và biến đổi sinh kế. Tác giả đã nhấn mạnh đến
việc kết hợp các hoạt động trong quá trình sử dụng các nguồn lực để
đảm bảo cuộc sống (con người gồm khả năng, kỹ năng cá nhân; nguồn
lực tự nhiên, tài chính và các thiết bị và các mối quan hệ, trợ giúp của
xã hội) [13, tr.53]. Nội dung chính của khung phân tích sinh kế bền vững
được nhà nghiên cứu Trần Văn Bình tóm tắt thành bốn điểm chính sau:
Thứ nhất, khung phân tích sinh kế bền vững đề cập đến nhiều yếu tố và
thành tố hợp thành sinh kế đó là: 1) Các ưu tiên mà con người có thể nhận biết
được; 2) Các chiến lược mà họ lựa chọn để theo đuổi các ưu tiên đó; 3) Các thể
chế, chính sách và tổ chức quyết định đến sự tiếp cận của họ đối với các loại tài
sản hay cơ hội và các kết quả mà họ thu được; 4) Các tiếp cận của họ đối với năm
loại vốn và khả năng sử dụng hiệu quả các loại vốn mình có; 5) Bối cảnh


10
sống của con người, bao gồm các xu hướng kinh tế, công nghệ, dân
số, các cú sốc và mùa vụ.
Thứ hai, khung phân tích này lấy con người và sinh kế của họ
làm trung tâm của sự phân tích, nghĩa là đặt con người ở trung tâm

của sự phát triển và hành động
Thứ ba, khung phân tích sinh kế bền vững thừa nhận các chính sách, thể
chế và q trình ảnh hưởng đến sự tiếp cận và sử dụng các tài sản hay còn gọi là
các loại vốn mà cuối cùng chúng đều ảnh hưởng đến sinh kế của con người
Thứ tư, sinh kế của con người được phân tích dưới góc độ sở hữu và tiếp
cận các loại vốn, hay cịn gọi là tài sản vốn. Trong đó có năm loại vốn chính là:
1) Vốn vật chất bao gồm cơ sở hạ tầng và các loại hàng hóa mà con người sản
xuất cần để hậu thuẫn sinh kế; 2) Vốn tài chính, ngụ ý về các nguồn lực tài chính
mà con người sử dụng để đạt được các mục tiêu sinh kế của mình; 3) Vốn xã hội,
là các nguồn lực xã hội mà con người sử dụng để theo đuổi các mục tiêu sinh kế
của mình bao gồm quan hệ, mạng lưới, thành viên nhóm, niềm tin, sự phụ thuộc
lẫn nhau và trao đổi cung cấp các mạng an ninh phi chính thống quan trọng; 4)
Vốn con người đại diện cho các kỹ năng, tri thức, khả năng làm việc và sức khỏe
tốt, tất cả cộng lại tạo thành những điều kiện giúp con người theo đuổi các chiến
lược sinh kế khác nhau và đạt được các mục tiêu sinh kế. 5) Vốn tự nhiên là tất cả
những nguyên vật liệu tự nhiên để tạo dựng sinh kế. Có rất nhiều nguồn lực tạo
thành vốn tự nhiên bao gồm cả các nguồn lực đất đai. [13, tr.40-46].
Năm 2011, hai nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Mai, Nguyễn Huy Thắng của
Viện Xã hội học đã cơng bố cơng trình “Sinh kế bền vững cho cư dân ven bờ vịnh
Bắc bộ - Thực trạng và giải pháp” [48] trong phạm vi nghiên cứu 3 tỉnh dun hải
là Thanh Hóa, Khánh Hịa và Sóc Trăng. Trong những năm gần đây tình trạng
đánh bắt ven bờ đã làm suy giảm cạn kiệt nguồn tài ngun ven biển, chính vì vậy
để giảm tình trạng khai thác quá mức đồng thời bảo vệ và phát triển hệ sinh thái
ven biển, bảo tồn đa dạng sinh học cần phải tìm sinh kế mới để thay thế một bộ
phận sinh kế của người dân làm nghề đánh bắt ven biển. Kết quả nghiên cứu đã
cho thấy thực trạng sinh kế, những rủi ro sinh kế tạm thời và khả năng chuyển đổi
sinh kế của cộng đồng cư dân ven biển. Đáng chú ý trong


11

nghiên cứu này chính là tác giả đã đề xuất các mơ hình sinh kế thay thế
đánh bắt ven bờ thông qua sự tham vấn của cộng đồng ngư dân ven biển.
Năm 2015, tác giả Bùi Văn Tuấn đã công bố cơng trình nghiên cứu Thực trạng và
giải pháp đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư ven đơ Hà Nội trong q
trình đơ thị hóa [74], trong đó đã khẳng định sinh kế, sinh kế bền vững có vai trị quan
trọng đối với cộng đồng dân cư trong q trình đơ thị hóa. Trên cơ sở tiếp cận khung
sinh kế bền vững, bài viết phân tích một số vấn đề lý luận về sinh kế và vận dụng
nghiên cứu sinh kế của cộng đồng dân cư vùng ven đơ trong q trình đơ thị hóa qua
trường hợp quận Bắc Từ Liêm. Nghiên cứu đánh giá thực trạng sinh kế của cộng
đồng dân cư quận Bắc Từ Liêm, xác định những nhân tố thuận lợi và cản trở hộ gia
đình tiếp cận các nguồn lực phát triển sinh kế. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp
nâng cao và đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư dưới tác động của q
trình đơ thị hóa trong bối cảnh phát triển và hội nhập.

Nghiên cứu về quá trình chuyển đổi phương thức sinh kế của người dân ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, tác giả Ngơ Thị Phương Lan, trong cơng trình nghiên cứu “Từ cá
sang tôm” [44] đã phác họa lại một bức tranh khá sinh động và sâu sắc về hoạt
động sản xuất, mưu sinh của người nông dân vùng đồng bằng sơng Cửu Long,
với khả năng thích ứng nhanh với nền kinh tế thị trường. Từ việc đi sâu tìm hiểu
các phương thức mưu sinh mới trong bối cảnh văn hóa, phát triển kinh tế xã hội
của vùng, tác giả thấy rằng so với trồng lúa, nuôi tôm là nghề có tính rủi ro cao,
người dân đã biết phát huy tốt nguồn vốn xã hội để giảm thiểu rủi ro. Q trình
chuyển đổi từ trồng lúa sang ni tơm của người dân đã cho thấy lối tư duy duy
lý theo cách tiếp cận của Samuel Popkin (1979), mối quan tâm hàng đầu của
người nông dân là sự thịnh vượng và an tồn của bản thân và gia đình họ [44,
tr.78-81]; người dân lựa chọn việc chuyển dần các mảnh ruộng của gia đình làm
đầm ni tơm, đầu tư phát triển các mạng lưới, quan hệ xã hội để phát triển kinh
tế, giảm thiểu rủi ro khi mất mùa, đó là sự kết hợp giữa yếu tố duy tình và duy lý
trong kinh tế để phù hợp bối cảnh phát triển.

Tóm lại, qua nghiên cứu, tìm hiểu về sinh kế của các nhà nghiên cứu trong và
ngồi nước, từ góc độ nghiên cứu văn hóa học và hướng nghiên cứu của đề tài


12
này, nghiên cứu sinh thấy rằng sinh kế chính là cách thức tổ chức những hoạt
động kinh tế của cộng đồng địa phương, bao gồm cả các giá trị vật chất
(nguồn lực đất đai, tài chính, cơng cụ, phương tiện lao động…) và các giá trị
tinh thần (khả năng, kỹ năng, tri thức, kinh nghiệm, nghi lễ…) được sắp xếp
thành những ngành nghề đặc thù phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng
nhằm đảm bảo duy trì và phát triển cuộc sống của hộ gia đình và cộng đồng
dân cư và có sự thay đổi linh hoạt khi có biến động về mơi trường sống.

1.1.2. Về văn hóa sinh kế
Khái niệm sinh kế được các nhà nghiên cứu trên thế giới tìm hiểu từ khá lâu
trong các cơng trình nghiên cứu về dân tộc học, nhân học, văn hóa học. Thuật
ngữ văn hóa mưu sinh hay sinh kế được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng gần đây
để chỉ các hoạt động sản xuất, kiếm sống của cộng đồng cư dân, của tộc người.
Theo nhóm các nhà nghiên cứu Makarian và dân tộc học Xơ Viết (Liên Xơ cũ) văn
hóa bao gồm hai hệ thống với 4 thành tố cơ bản: văn hóa sản xuất, văn hóa đảm
bảo đời sống, văn hóa chuẩn mực xã hội (luật lệ, nghi lễ, phong tục) và văn hóa
nhận thức. Trong đó Markarian nhấn mạnh “văn hóa sản xuất là thành tố quan
trọng bậc nhất”. Như vậy có thể khẳng định các nhà dân tộc học Liên Xô cũ là
những người đầu tiên nghiên cứu văn hóa sinh kế [13].
Trong các cơng trình nghiên cứu của Norman Long (1980), Wallman (1982),
Robert Chambers và Conway (1992), Caroline Ashley (1999), Emily A. Schultz - Robert
H. Lavenda (2001), Scoones (1998), Grant Evans (2001), Carney, D. (2003), Solesbury
W. (2003), Lee Ann (2007), Twigg, J. (2007), Leo de Haan (2012), Stephen Morse (2013)
… mặc dù có các cách tiếp cận khác nhau, từ dân tộc học, nhân học, kinh tế học, khi
nghiên cứu về sinh kế và sinh kế bền vững, đều chủ yếu dựa vào 5 loại vốn: vốn tự

nhiên, vốn con người, vốn xã hội, vốn vật chất - tài chính, trong đó có nhiều nội dung
được xem xét như những giá trị cốt lõi của văn hóa và văn hóa sinh kế như phong tục
tập quán, tri thức dân gian, trình độ, kỹ năng, các quan hệ xã hội trong cộng đồng,
nghi lễ liên quan đến sinh kế. Như vậy có thể thấy mặc dù khái niệm, thuật ngữ văn
hóa sinh kế chưa được các nhà nghiên cứu đưa ra chính thức, nhưng những biểu
hiện và nhiều khía cạnh của văn hóa sinh kế đã được tiếp cận, nghiên cứu và nhìn
nhận ở các góc độ khác nhau.


13
Nhà sử học Trần Quốc Vượng [96] chia văn hóa thành: văn hóa sản xuất, văn
hóa vũ trang và văn hóa sinh hoạt, cịn nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm [76] cho
rằng văn hóa là một hệ thống gồm 4 thành tố: văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức
cộng đồng, văn hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên và văn hóa ứng xử với mơi
trường xã hội. Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau, nhưng các nhà nghiên
cứu trong nước cơ bản thống nhất xếp văn hóa sinh kế thuộc nhóm văn hóa sản
xuất, chính là những giá trị, tri thức, phong tục tập quán, nghi lễ được hình thành
trong quá trình lao động sản xuất, kiếm sống của cư dân và cộng đồng.
Vận dụng lý thuyết về sinh kế và khung sinh kế bền vững của các nhà
nghiên cứu trên thế giới, đặc biệt là khung sinh kế bền vững của Cơ quan phát
triển Anh (DFID), nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam như Trần Văn Bình, Nguyễn
Văn Sửu, Bùi Văn Tuấn, Đào Thanh Thái, Nguyễn Văn Tạo, Hoàng Cầm, Phạm
Thúy Quỳnh, Nguyễn Xuân Mai, Nguyễn Duy Thắng, Nguyễn Văn Hồng, Đỗ Hải
Yến… từ các góc độ tiếp cận khác nhau đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu
về sinh kế, biến đổi sinh kế do tác động của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, di dân, tái định cư, phát triển du lịch…. trong đó đã có

những nhìn nhận đánh giá về biểu hiện và yếu tố gắn với các giá trị của văn
hóa sinh kế như các giá trị văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, nghi lễ liên
quan đến sinh kế, tri thức địa phương, kỹ năng, trình độ lao động sản xuất,

phương thức làm ăn kinh doanh mới và những tác động tới cuộc sống, quan
hệ gia đình, làng xóm, truyền thống văn hóa của địa phương do những tác
động của quá trình phát triển làm thay đổi sinh kế truyền thống của cộng đồng
cư dân địa phương hay từng cá nhân trong cộng đồng.
Văn hóa mưu sinh là khái niệm mới xuất hiện, được nhà nghiên cứu Trần
Bình sử dụng đầu tiên ở Việt Nam như một thuật ngữ riêng để chỉ hoạt động sản
xuất, kiếm sống của một tộc người trong cơng trình nghiên cứu “Văn hóa mưu
sinh của người các dân tộc thiểu số vùng Đông bắc Việt Nam” [12] xuất bản năm
2013. Tuy nhiện nội hàm, cấu trúc và đặc điểm của văn hóa mưu sinh cũng chưa
được đề cập. Trong cơng trình nghiên cứu “Văn hóa bảo đảm đời sống của người
người Nùng Cháo (Trường hợp thôn Nà Hàn, xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh
Lạng Sơn), tác giả Nguyễn Thị Vân Anh đã có phân tích, đánh giá


14
khá sâu sắc về sự chuyển đổi sinh kế và những biến đổi văn hóa - xã hội của
người Nùng Cháo ở Nà Lầu, trong đó cho rằng sinh kế có quan hệ mật thiết với
văn hóa vật chất, văn hóa xã hội, văn hóa nhận thức và các mối quan hệ với các
yếu tố môi sinh (tự nhiên và xã hội) [2]. Trong bối cảnh phát triển du lịch tác động
mạnh mẽ làm thay đổi nhiều phương thức sinh kế truyền thống, gần đây trong
nghiên cứu “Biến đổi văn hóa mưu sinh của cư dân xã Hương Sơn, huyện Mỹ
Đức, thành phố Hà Nội trong bối cảnh phát triển du lịch” [98], dưới lăng kính văn
hóa học, tác giả Đỗ Hải Yến đã đồng nhất mưu sinh với sinh kế và đưa ra một khái
niệm khá đầy đủ về văn hóa mưu sinh, đồng thời nghiên cứu, đánh giá sự biến
đổi văn hóa mưu sinh thơng qua các biểu hiện: (1) văn hóa ứng xử với các nguồn
lực mưu sinh; (2) văn hóa thể hiện trong các hoạt động mưu sinh; và (3) văn hóa
thể hiện trong các nghi lễ gắn với mưu sinh. Đây là hướng nghiên cứu khá gần
với nội dung và đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án, nghiên cứu sinh có thể
tham khảo, kế thừa phát triển hơn trong nghiên cứu của mình.


Nhìn chung, qua các nghiên cứu trên, có thể nhận thấy văn hóa sinh kế
chính là những giá trị vật chất và tinh thần được tạo ra trong quá trình lao
động, sản xuất phục vụ cuộc sống. Vì văn hóa là tất cả những gì do con người
tạo ra trong quá trình lao động (gồm cả trí óc và chân tay) và tương tác với
môi trường tự nhiên và xã hội để đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia
đình. Chính nhờ lao động mà các giá trị văn hóa cả vật chất và tinh thần mới
được tạo ra. Những giá trị văn hóa trong sinh kế chính là những định hướng,
chuẩn mực, quy tắc cho các hành vi sinh kế của hộ gia đình và cộng đồng.

1.2. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HĨA VÀ
BIẾN ĐỔI VĂN HĨA SINH KẾ

1.2.1. Về biến đổi văn hóa
Biến đổi văn hóa đã được đề cập đến từ khá sớm bởi những nhà khoa học
khởi xướng ủng hộ Thuyết tiến hóa văn hóa như E. Taylor (1891) hay L. Morgan
(1877) khi họ phân chia xã hội theo thứ bậc đơn tuyến và có chung một mẫu hình
biến đổi xã hội và biến đổi văn hóa [110]. Năm 1967, tác giả Joel M.Halpern đã
công bố khái niệm về sự giao lưu và biến đổi văn hóa của hai hay nhiều nền văn
hóa ở nơng thơn, đơ thị; cuộc cách mạng văn hóa nơng thơn, ý


15
nghĩa của những chương trình biến đổi và tương lai của cộng đồng
làng quê điển hình ở Châu Âu, Châu Á và Châu Mỹ [107].
Nghiên cứu về biến đổi văn hóa của các tộc người dưới góc nhìn tâm lý học,
năm 2010, các tác giả Pamela Balls Organista, Gerardo Marin, và Kevin M. Chun
có đề cập tới vấn đề biến đổi văn hóa với những nội dung quan trọng của khái
niệm, vai trị của biến đổi văn hóa khi nghiên cứu tâm lý các tộc người [112]. Theo
các tác giả biến đổi văn hóa (BĐVH) được đề cập để lý giải hay phán đoán hành vi
cá nhân khi tiếp xúc với một nền văn hóa mới. Các cá nhân thay đổi theo các

chiến lược BĐVH mà họ chọn lựa, đồng thời có sự liên hệ tới các áp lực BĐVH.
Biến đổi văn hóa hình thành hành vi và thái độ để xác định các khn mẫu. Tiếp
biến văn hóa diễn ra tất yếu ở chủ thể trước thế giới quan hình thành thái độ, giá
trị và hành vi… trong quá trình di cư và tiếp nối thế hệ của họ.
Trong đánh giá về các vấn đề biến đổi văn hóa, phương pháp tiếp cận năm
2011, Ozgur Celenk và Vande đưa ra quan niệm về BĐVH được hiểu là: quá trình
thay đổi khi những cá thể từ các nền văn hóa khác nhau có sự tiếp xúc trực tiếp
với nhau lâu dài và liên tục dẫn đến sự biến đổi của bản thân cá thể (giá trị, thái
độ, niềm tin và phẩm chất) cũng như sau biến đổi của nhóm cá thể (hệ thống xã
hội và văn hóa). Những hình thức quan trọng nhất của q trình biến đổi văn hóa
bao gồm các yếu tố tiên quyết (điều kiện biến đổi văn hóa), chiến lược (xu hướng
biến đổi văn hóa) và kết quả của biến đổi văn hóa [103 tr.10]. Như vậy, sau 10 năm
phát triển vấn đề BĐVH trên thế giới, bên cạnh việc kế thừa các cơng trình nghiên
cứu cũ về khái niệm, bản chất của biến đổi văn hóa, tác giả Ozgur Celenk đã có
những bước tiến trong nghiên cứu biến đổi văn hóa về sau so với những nghiên
cứu thời kỳ trước đó như: những biểu hiện của biến đổi văn hóa và dự báo những
xu hướng biến đổi văn hóa.

Ở Việt Nam, các cơng trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa cũng
được nhiều học giả quan tâm từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX.
Vấn đề biến đổi văn hóa làng và các khu vực nông thôn ngày càng
thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các học giả trong và ngoài
nước do sự tác động mạnh mẽ của q trình cơng nghiệp hóa, đơ thị
hóa và phát triển kinh tế từ đầu những năm 2000 đến nay.


16
Tìm hiểu về những xu hướng biến đổi trong văn hóa và lối sống ở Việt
Nam, các nghiên cứu của tác giả Mai Văn Hai, Phạm Việt Dũng [35] chỉ ra sự
biến đổi trên phương diện văn hóa, lối sống với mọi biểu hiện đa dạng, sinh

động, đồng thời làm rõ những nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng đến biến đổi
đó. Những biểu hiện dễ thấy nhất trong văn hóa, lối sống ở Việt Nam thể hiện
trên 5 lĩnh vực: Sự biến đổi của mỗi cá nhân gắn liền với sự biến đổi của gia
đình; sự biến đổi về cơ cấu lứa tuổi trong chu trình đời người; sự thay đổi
trong quan hệ hàng xóm, láng giềng; sự biến đổi trong văn hóa tiêu dùng; xu
hướng thay đổi giá trị, triết lý sống của cá nhân và các nhóm xã hội. Nguyên
nhân của những biến đổi đó gồm: tác động của kinh tế thị trường, văn minh
công nghiệp, sự thay đổi của mơi trường nhất thể hóa cá nhân, chuyển đổi từ
cơ cấu xã hội truyền thống sang cơ cấu xã hội hiện đại, đa dạng hơn.
Theo hướng khác, tác giả Ngô Đức Thịnh lại đề cập đến một chiều cạnh của
sự biến đổi văn hóa ở cộng đồng các dân tộc thiểu số [77] trên cơ sở nêu và phân
tích một số đặc trưng cơ bản, các giá trị, vai trò của luật tục, phong tục trong đời
sống các dân tộc thiểu số, tác giả trình bày sự biến đổi của luật tục và tính thích
ứng của nó với xã hội hiện đại. Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam tuy cịn ở trình độ
phát triển xã hội thấp hơn so với người Kinh nhưng cũng nằm trong xu hướng
phát triển chung của xã hội. Cả luật tục, phong tục đều khơng cịn ngun vẹn,
một phần do sự thay đổi hồn cảnh xã hội, do con người vơ ý để rơi rụng, hoặc
chủ động loại bỏ do coi đó là lạc hậu, phản tiến bộ…; một phần do có sự thâm
nhập của những phong tục và luật lệ mới. Phạm vi ảnh hưởng của luật tục cũng
thu hẹp dần, có sự kết hợp giữa luật tục, luật pháp của Nhà nước. Luật tục đã
từng đóng vai trị rất quan trọng trong quản lý nông thôn, nên sự kết hợp giữa
luật pháp và luật tục là một đòi hỏi tất yếu khách quan.
Dưới góc độ nghiên cứu văn hóa dân gian, nhân học văn hóa, văn hóa học, tác
giả Lê Hồng Lý và cộng sự đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam
[46], điểm qua bối cảnh chung tình hình thế giới hiện nay với sự phát triển kinh tế,
chính trị, xã hội, đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, điều
này đã tác động mạnh mẽ đến các xu hướng biến đổi văn hóa trên thế giới. Từ đó dự
đốn xu thế phát triển, biến đổi văn hóa Việt Nam ở thập niên tiếp theo.



17
Tác giả Đỗ Lan Phương [51] dựa trên cơ sở tiếp cận hệ thống, phương pháp
phân tích văn hóa học, nhân học xã hội và nhiều phương pháp khác đã chỉ ra
những nhân tố tác động đến sự BĐVH Việt Nam trên 6 phương diện: Phát triển
kinh tế xã hội, phục hưng văn hóa truyền thống, hoạt động tơn giáo, phát triển
truyền thơng đại chúng, giao lưu văn hóa quốc tế. Từ đó tìm ra ngun nhân của
sự BĐVH Việt Nam trong giai đoạn này. Cơng trình nghiên cứu này là nền tảng,
định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo về BĐVH trong từng lĩnh vực cụ thể.

Tiếp cận biến đổi văn hóa dưới sự ảnh hưởng của cơng cuộc đổi mới đất
nước, tác giả Nguyễn Văn Dân [22] đã chỉ ra rằng: Sau hai mươi năm đổi mới
và hội nhập, văn hóa Việt Nam đã có những biến đổi sâu sắc theo hướng nâng
cao, trở nên phong phú, cởi mở hơn. Trong đời sống văn hóa, tác giả đã phân
tích sự đổi mới trên một số mặt như: đổi mới văn hóa về khía cạnh chính trị,
pháp lý; tiếp thu các giá trị văn hóa thế giới; đổi mới trong quan niệm sống, lối
sống; phục hồi, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; đổi mới trong tự do
sáng tác. Từ đó tác giả bàn về vấn đề nảy sinh trong đổi mới văn hóa.
Năm 2013, từ góc nhìn văn hóa học, luận án tiến sĩ của Vũ Diệu Trung đã
nghiên cứu về Những biến đổi văn hóa làng nghề ở Sơn Đồng; Bát Tràng;
Đồng Xâm, Thái Bình [88] đưa ra các khái niệm làng nghề, văn hóa làng nghề,
biến đổi văn hóa làng nghề. Những biểu hiện biến đổi văn hóa làng nghề được
đề cập trên các phương diện: 1) Khơng gian, cảnh quan và di tích; 2) Biến đổi
phương thức truyền nghề và bí quyết giữ gìn nghề nghiệp; 3) Biến đổi hình
thức tổ chức sản xuất; 4) Biến đổi về quan niệm và quan hệ xã hội; 5) Biến đổi
tín ngưỡng, lễ hội và phong tục tập quán. Luận án cũng đưa ra những giải
pháp cho các nhà quản lý trong khai thác di sản văn hóa làng nghề. Trên cơ
sở những nghiên cứu của Luận án tiến sĩ của mình, tác giả Vũ Diệu Trung đã
xuất bản cuốn sách “Biến đổi văn hóa Làng nghề ở Châu thổ sơng Hồng hiện
nay”, phân tích biến đổi văn hóa diễn ra theo hai xu hướng: Xu hướng thích
ứng và xu hướng bảo thủ. Và nhân tố tư tưởng, chính trị giữ một vai trị quan

trọng trong việc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự biến đổi văn hóa.
Năm 2013, Nguyễn Văn Quyết với Luận án tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa
học:“Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của các cộng đồng nông nghiệp - nông


18
thơn trong q trình phát triển các khu cơng nghiệp (thông qua nghiên cứu
trường hợp tỉnh Đồng Nai)” [55], đã khảo sát các biển đổi đời sống văn hóa của
ba cộng đồng dân cư nông nghiệp - nông thôn sau khi bị cắt một phần đất nông
nghiệp, đất thổ cư để xây dựng các khu công nghiệp tập trung, đã bị biến đổi như
thế nào trong bối cảnh phát triển nhanh chóng, phát triển nóng, mang tính cưỡng
bức từ trên xuống. Thông qua sự khảo sát này đã khái quát lên bức tranh phát
triển đời sống văn hóa của những cộng đồng dân cư có khu cơng nghiệp tập
trung với tất cả những lợi thế, hạn chế, thời cơ và thách thức đối với họ.
Trong nghiên cứu về biến đổi văn hóa làng ở đồng bằng Bắc Bộ cơng bố
trên tạp chí Lý luận chính trị năm 2017, tác giả Vũ Thị Phương Hậu cho rằng văn
hóa làng thuộc nhóm văn hóa tĩnh, mang tính truyền thống, chậm thay đổi. Theo
tác giả, văn hóa làng bao gồm những giá trị, chuẩn mực đã được cộng đồng lựa
chọn, được thử thách qua thời gian, được bảo tồn có ý thức, thậm chí cả vơ thức.
Tác giả đã phân tích và đánh giá một số vấn đề biến đổi văn hóa làng Việt truyền
thống vùng đồng bằng Bắc bộ biểu hiện trong các thiết chế gia đình, dịng họ, tín
ngưỡng, lễ hội và hương ước của làng. Xác định những giá trị văn hóa làng
khơng chỉ có ý nghĩa về phương diện tinh thần mà còn là động lực trực tiếp thúc
đẩy nông thôn phát triển, tác giả đã đưa ra 4 nhóm giải pháp để bảo tồn, phát huy
văn hóa làng trong xây dựng nơng thơn mới hiện nay [37].

Nhìn chung trong các cơng trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa và biến
đổi văn hóa làng ở trong và ngồi nước từ các góc độ tiếp cận khác nhau đã
đưa ra một số cơ sở lý thuyết về biến đổi văn hóa, tiếp biến văn hóa, đồng
thời các nghiên cứu cũng đã nghiên cứu, tìm hiểu, chỉ ra những xu hướng

biến đổi văn hóa nói chung và những vấn đề biến đổi lối sống, đời sống văn
hóa, phong tục tập quán, giá trị, chuẩn mực, phương thức truyền nghề….

1.2.2. Về biến đổi văn hố sinh kế
Biến đổi văn hóa sinh kế là vấn đề cịn khá mới mẻ, các cơng trình nghiên
cứu gần đây mới tập trung vào nghiên cứu biến đổi sinh kế trong bối cảnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, di dân tái, định cư, phát triển du lịch. Tuy nhiên từ các
góc độ nghiên cứu khác nhau, các cơng trình nghiên cứu về biến đổi sinh kế cũng
đã đề cập, đánh giá, nhận diện những yếu tố, khía cạnh liên quan đến văn


19
hóa sinh kế hay văn hóa mưu sinh như phong tục tập quán lao động
sản xuất, nguồn lực xã hội, nguồn lực văn hóa, nghi lễ, tri thức liên
quan đến hoạt động sinh kế….
Năm 2012, tác giả Bùi Thị Bích Lan đã công bố luận án tiến sĩ nghiên cứu về
Hoạt động mưu sinh của người Kháng ở xã Chiềng Bôm, huyện Thuận Châu, tỉnh
Sơn La [43]. Trong nghiên cứu này tác giả cung cấp những nguồn tư liệu mới có
hệ thống về các hoạt động mưu sinh truyền thống của người Kháng ở Chiềng
Bơm; phân tích và lý giải sự biến đổi văn hóa mưu sinh của người Kháng từ khi
thực hiện đổi mới đến nay; kết quả nghiên cứu chính của đề tài chính là tác giả đã
xác định các vấn đề được đặt ra cho hoạt động mưu sinh của người Kháng hiện
nay trong mối quan hệ với phát triển bền vững như: Tăng trưởng kinh tế, ổn định
xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ tài nguyên môi trường... Nội dung nghiên cứu
của đề tài sẽ là nguồn tư liệu cần thiết làm cơ sở cho việc hoạch định những
chương trình phát triển kinh tế xã hội cho các dân tộc thiểu số nói chung và
người Kháng ở Chiềng Bơm, Sơn La nói riêng.

Năm 2012, trong cơng trình nghiên cứu luận án tiến sĩ “Sự thích ứng của
đời sống mới của dân di cư Sơn La" của tác giả Nguyễn Văn Hồng [39], từ góc

độ tâm lý học đã tìm hiểu những đặc điểm thích ứng về sinh học, tâm lý và
tâm lý xã hội cùng với những biểu hiện và tiêu chí đánh giá sự thích ứng tâm
lý xã hội, trên cơ sở đó phân tích, luận giải sự thích ứng của dân di cư Sơn La
trước những khó khăn trong điều kiện lao động và điều kiện sống mới qua
những biểu hiện: nhận thức, thái độ và hành vi, đồng thời chỉ ra những yếu tố
ảnh hưởng trực tiếp tới sự thích ứng như khoảng cách, đặc điểm văn hóa, độ
tuổi, chế độ chính sách...từ đó đề xuất các giải pháp về chế độ chính sách,
cách thức thực hành các dự án phát triển theo hướng từ dưới lên.
Năm 2014, tác giả Nguyễn Văn Sửu đã cơng bố cơng trình nghiên cứu “Cơng
nghiệp hóa, đơ thị hóa và biến đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội” [72]. Tác giả đã sử
dụng khung sinh kế bền vững kết hợp với tiếp cận không gian để phân tích và lý
giải về q trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa, đặc biệt là việc thu hồi quyền sử
dụng đất nông nghiệp và các tác động của nó tới sự biến đổi sinh kế của nơng
dân ở hai làng ven đô Hà Nội. Trong nghiên cứu, tác giả đã đánh giá, phân tích


20
bối cảnh, yếu tố tác động tới sự biến đổi, lý giải về việc tiếp cận, sử
dụng và phân phối các nguồn vốn những cách thức ứng phó với
những thay đổi về nguồn vốn để tạo ra sinh kế mới.
Trong cơng trình nghiên cứu “Biến đổi sinh kế của người Mường vùng lịng
hồ thủy điện Hịa Bình ở nơi tái định cư” tác giả Trịnh Thị Hạnh [36], từ góc độ dân
tộc học, tiếp cận trên cơ sở khung sinh kế bền vững của DFID, đã có nghiên cứu,
tìm hiểu khá đầy đủ về sự biến đổi sinh kế của người Mường trong quá trình tái
định cư xây dựng Thủy Điện Hịa Bình và sự thích ứng văn hóa của các cộng
đồng dân cư ở hai mơ hình tái định cư khác nhau (mơ hình “di vén” và “lập làng
mới”), qua đó thấy rằng trong các nguồn lực sinh kế, vốn xã hội có vai trị như
“sợi chỉ đỏ” đối với việc phục hồi sinh kế sau tái định cư và vai trị của tri thức địa
phương và tơn trọng đa dạng văn hóa trong thực hành các dự án phát triển.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu khác cịn cho thấy, cộng đồng nông nghiệp nông thôn chuyển thành các cộng đồng mang tính đơ thị do áp lực của q trình

cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các địa phương. Trong đó, tác giả Nguyễn Văn
Quyết đã tiến hành khảo sát các biến đổi đời sống văn hóa của ba cộng đồng dân
cư nông nghiệp. Tác giả đã tiến hành phân tích sự biến đổi kinh tế, xã hội từ nông
thôn sang đô thị, biến đổi trong đời sống tơn giáo, tín ngưỡng, sinh hoạt văn
hóa… Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra các điều kiện, yếu tố tác động đến q trình
biến đổi đời sống văn hóa, trong đó, đặc biệt chú ý đến các yếu tố kinh tế, chính
trị, xã hội, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa... Cơng trình đã khái qt lên một bức
tranh sinh động về sự phát triển đời sống văn hóa của những cộng đồng dân cư
có khu cơng nghiệp tập trung, với tất cả những lợi thế, hạn chế, thời cơ và thách
thức, từ đó đề ra một số giải pháp mang tính lý luận và thực tiễn [55].
Ở Việt Nam, hoạt động kinh doanh du lịch, liên quan đến biến đổi văn hóa
cũng được quan tâm, trong đó Đặng Thị Phương Anh tập trung nghiên cứu 4 vấn
đề: Nội dung, đặc điểm, bản chất và xu thế của toàn cầu hóa; tồn cầu hóa về văn
hóa; vai trị của văn hóa trong nền kinh tế thế giới; vai trị của văn hóa trong kinh
doanh du lịch ở Việt Nam, từ đó chỉ ra xu thế khai thác các giá trị văn hóa trong
kinh doanh du lịch ở Việt Nam nhằm tạo ra những sản phẩm độc đáo, mang đậm
bản sắc dân tộc [1]. Sự phát triển của các loại hình du lịch văn hóa, cũng như


×