Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN một số BIỆN PHÁP GIÚP học SINH học tốt môn TIẾNG VIỆT lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.51 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
HỌC TỐT MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 1

NĂM HỌC: 2020 - 2021


MỤC LỤC
Nội dung
I. Lời giới thiệu
II. Tên sáng kiến
III. Tác giả sáng kiến
IV. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
V. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
VI. Ngày sáng kiến được áp dụng
VII. Mô tả bản chất của sáng kiến
VIII. Những thông tin cần bảo mật
IX. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
X. Đánh giá lợi ích thu được
XI. Danh sách người tham gia sáng kiến
XIII.Đánh giá của hội đồng khoa học nhà trường

Trang
2-4
4
4
4
4


4
4 - 14
14
14
14
14
15

1. Lời giới thiệu
Việc học tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục không chỉ giúp HS nắm
2


chắc tri thức cơ bản về tiếng Việt và hình thành đồng thời các kĩ năng nghe - nói
- đọc - viết một cách vững chắc, ngay từ bước làm quen với âm, vần học sinh đã
nắm chắc được luật chính tả, học sinh ln được tham gia các hoạt động học tập
một cách chủ động, tự tin; thông qua việc làm, các thao tác học, các em tự tìm
ra và chiếm lĩnh tri thức, được phát huy khả năng tư duy và năng lực tối ưu của
mình. Đồng thời q trình dạy học theo phương pháp Cơng nghệ giáo dục
khơng chỉ giúp GV nâng cao trình độ và năng lực nghiệp vụ sư phạm mà cách
tổ chức dạy học theo quy trình cơng nghệ giúp GV đổi mới phương pháp một
cách triệt để.
Kỹ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ
mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kỹ năng viết được coi là
phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngơn ngữ thì kỹ năng đọc có một vị trí
quan trọng khơng thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học.
Cùng với kỹ năng viết, kỹ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các
em cái chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các
em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham
khảo... từ đó có điều kiện học tốt các mơn học học khác có trong chương trình.

Ở lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói, đọc, viết.
Và kỹ năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành
tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển
tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng,
từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong
các môn học khác. Mặt khác ở lớp Một các em được tập đọc thành thạo, đọc
đúng, đọc trơi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt
hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn nếu kết quả học tập của
các em đạt khá - giỏi biết vận dụng nghe viết một cách thơng thạo. Chính vì
những lý do trên mà tơi đưa sáng kiến "Một số biện pháp giúp học sinh học tốt
môn Tiếng Việt 1 – lớp 1” mà trọng tâm là rèn kỹ năng đọc cho học sinh.
Bản thân tôi khi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tìm
ra phương pháp và hướng đi giúp học sinh học tập tốt hơn. Qua
đó từng bước nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay, đọc diễn
cảm của mỗi học sinh.
+ Về đọc đúng: HS đọc đúng các phụ âm đầu, vần, thanh,
đọc đúng các tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn, bài thơ.
+ Đọc hay, đọc diễn cảm: HS khi đọc bài văn, bài thơ phải
biết ngắt, nghỉ đúng các dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi,

3


dấu chấm cảm. Khi đọc biết lên giọng, hạ giọng ở những câu
văn, bài thơ, hơn nữa là đọc phân vai.
+ Học sinh hiểu được nôi dung văn bản và thể loại, từ đó
có thái độ, tình cảm đúng trong cuộc sống.
Thơng qua dạy học giúp các em có điều kiện tiếp cận và
nắm bắt các môn học, hiểu các văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh
được tri thức, tự tin khi giao tiếp nhằm góp phần hình thành

nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện về
mọi mặt Đức - Trí - Thể - Mĩ cho học sinh.
2. Tên sáng kiến: "Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tiếng
Việt 1 – lớp 1"
3. Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Lựu
Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Dương Xá – Gia Lâm – Hà Nội.
Số điện thoại: 0349683586. Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Lựu - giáo viên dạy lớp 1
Trường Tiểu học Dương Xá – Gia Lâm – Hà Nội.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Bộ mơn Tiếng Việt trong đó chủ yếu là
phần rèn đọc cho học sinh lớp 1A3, Trường Tiểu học Dương Xá – Gia Lâm – Hà
Nội.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Áp dụng
từ tháng 9 năm 2018 đến nay.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến
7.1.1. Cơ sở lí luận
Từ những đổi mới của chương trình tiểu học, địi hỏi phải đổi mới
chương trình mơn Tiếng Việt. Chương trình Tiểu học thực hiện đổi mới đồng bộ
về:- Mục tiêu giáo dục - Nội dung và phương pháp dạy học - Cách thức đánh
giá học tập của học sinh. Theo đặc trưng của môn Tiếng Việt tập trung vào sự
hình thành và phát triển kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết, góp phần vào q trình
hình thành các giá trị mới như: Năng lực tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn
đề, tự chiếm lĩnh kiến thức và thực hành vận dụng kiến thức đó theo năng lực
bản thân. Như chúng ta đã biết môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ
hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngơn
ngữ đó được thể hiện qua 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết. Tập đọc là một
phân mơn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân mơn có vị trí
đặc biệt quan trọng trong chương trình, vì nó đảm nhiệm việc hình thành và
4



phát triển cho kĩ năng “đọc” nói chung và “đọc đúng” nói riêng. Một kĩ năng
quan trọng hàng đầu của bậc Tiểu học. Tập đọc là môn học công cụ, là chìa
khố, là phương tiện để học sinh tiếp nhận tri thức loài người. Tập đọc giúp các
em hiểu được cái hay, cái đẹp tinh tế của nghệ thuật ngôn từ. Tập đọc, đặc biệt
là đọc đúng giúp các em học được cách nói, cách viết một cách chính xác, trong
sáng có nghệ thuật, góp phần khơng nhỏ vào việc rèn luyện kĩ năng đọc mà còn
phát triển cho học sinh vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú. Từ đó, các em sẽ học
tốt các môn học khác, bởi đọc đúng được chính xác nội dung một vấn đề nào
đó. Từ đó, các em sẽ làm Tốn đúng, viết đúng và nói đúng, ... Đọc đúng góp
phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. Những
bài tập đọc trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 1 - là những câu
chuyện gần gũi, những bài văn, bài thơ hay. Chính vì thế mà các em có vốn văn
học phong phú. Cũng như các mơn học khác ở các cấp học, mơn Tập đọc địi
hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp: Lấy học sinh làm trung tâm, học sinh
giữ vai trò chủ đạo trong q trình học tập, thầy thiết kế - trị thi cơng. Tự tìm
tịi để hiểu nội dung, phát hiện kiến thức dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của người
thầy. Với những yêu cầu quan trọng như vậy thì người thầy phải là người tổ
chức linh hoạt chuẩn bị được nhiều tình huống phong phú cho học sinh. Trong
chương trình tiểu học, các bài tập đọc của lớp 1 đã được chọn lọc kĩ càng.
Nhằm cung cấp, bồi dưỡng cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu
người lao đông, yêu người thân, hiểu và yêu thêm lịch sử Việt Nam.
7.1.2. Cơ sở thực tiễn
- Năm học 2018 - 2019, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp
1A3 với tổng sĩ số là 49 em, trong đó:
+ Học sinh đọc lưu loát: 29 em
+ Học sinh đọc hơi chậm: 16 em
+ Học sinh đọc còn hay vấp: 02 em
+ Học sinh không đọc được: 2 em ( Thiểu năng + nhận thức chậm)

Với đặc điểm của lớp như trên, tơi cũng gặp những khó khăn nhưng cũng
có phần thuận lợi như sau:
7.1.2.1. Thuận lợi
- Học sinh có đầy đủ SGK và đồ dùng học tập.
- Đa số các em đều ngoan, lễ phép và biết nghe lời.
- Phần lớn phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học của con em mình.
- Hầu hết các em đều biết các chữ cái khi vào đầu lớp 1.
- Đa số các em tiếp thu nhanh.
7.1.2.2. Khó khăn
5


- Là một giáo viên mới nên tơi cịn mất nhiều thời gian nghiên cứu, đọc
tài liệu.
- Một số em cịn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn và chưa thực sự chú ý
đến lời nói trong giao tiếp hàng ngày sao cho đúng ngữ pháp.
- Một số phụ huynh học sinh chưa có thời gian cũng như một số ít phụ
huynh không biết chữ nên không thể giúp đỡ các em trong việc học ở nhà, và
chương trình Tiếng Việt 1 – CGD là chương trình mới nên phụ huynh cịn gặp
nhiều khó khăn khi con cái có thắc mắc muốn cha mẹ giải đáp thì phụ huynh cịn
lúng túng khó giải đáp.
7.1.3. Thực trạng dạy và học Tiếng Việt 1 - ở trường Tiểu học Dương Xá
Năm 2018 - 2019 tôi giảng dạy lớp 1A3 với sĩ số lớp 49 em. Tơi đã tiến
hành nghiên cứu, tìm hiểu và thấy được một số thực trạng như sau:
7.2.1. Về phía giáo viên.
- Giáo viên có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chun mơn
nghiệp vụ, tay nghề và luôn trăn trở về phương pháp dạy học Tiếng Việt.
- Giáo viên đi đúng phương pháp, sách thiết kế.
- Giáo viên có ý thức trách nhiệm với học sinh, giảng dạy nhiệt tình, chữa
bài nghiêm túc, khách quan, tỉ mỉ.

- Giáo viên ln có ý thức vận dụng đổi mới phương pháp dạy học.
- Giáo viên nắm chắc tiến trình tiết dạy, đi đúng mục tiêu của bài.
7.2.2. Về phía học sinh
- Khảo sát đầu năm ( Tháng 9/2018)
TSHS

Đọc tốt

Đọc khá

Đọc trung bình

Đọc yếu

Đọc ngọng

49

10

10

12

9

6

(2 HS
hịa

nhập)
- Khảo sát cuối năm ( Tháng 3/2019)
TSHS

Đọc tốt

Đọc khá

Đọc trung bình

Đọc yếu

Đọc ngọng

49

26

10

7

2

2

(2 HS
hòa
nhập)


6


- Học sinh hiểu nghĩa của từ còn hạn chế.
- Vốn từ của các em cịn q ít ỏi.
- Kĩ năng nói và viết chưa thực sự tốt.
- Vẫn có em đọc còn ngọng ( l/n, thanh hỏi, thanh ngã...)
- Tìm hiểu về nghĩa của từ cịn hay lẫn lộn vv...
- Một số em yếu khi học sang phần nguyên âm đơi hoặc âm đệm ( vì một
kiểu vần lại có cách đánh vần riêng) cịn nắm chưa chắc.
7.2.3. Về chương trình Tiếng Việt
- Phương pháp dạy học mới khơi gợi tính sáng tạo, tự giác thiếp thu bài,
tạo sự hứng thú giúp học sinh làm chủ kiến thức.
- Phương pháp mới giúp học sinh nắm chắc kiến thức ngữ âm, chất lượng
môn học Tiếng Việt của học sinh đã được nâng lên nhiều so với trước.
- Lượng kiến thức nặng so với học sinh lớp 1 (VD: Ngay bài đầu tiên,
nhiều học sinh chưa biết chữ cái nhưng đã phải viết như dạng chính tả. Trong
q trình học, các em cịn phải phân biệt được tiếng có âm đầu; tiếng có âm
chính; tiếng có âm đệm, âm chính; tiếng có âm đệm, âm chính, âm cuối…
Trước đây, học hết 8 tuần, các em thuộc bảng chữ cái và có thể ghép vần
thành âm, tiếng. Nay, hết 6 tuần, học sinh đã phải đọc những bài dài tới 30
tiếng, hay có bài học bốn vần hay có khi học sáu vần một ngày đối với HS
lớp một là quá nhiều)
- Nhiều bài đọc không gần gũi với học sinh nên học sinh khó nhớ.
7.2.4. Những lỗi thường thấy của học sinh lớp 1 khi học phân
môn tiếng Việt.
7.2.4.1. Lỗi về phát âm
* Sai về phụ âm đầu
- Đây là lỗi mà nhiều em mắc phải, nguyên nhân này có thể do ảnh hưởng
của tiếng địa phương, do nói theo bạn nhiều thành quen (bạn phát âm sai), do bản

thân các em chưa kiên trì luyện tập, do bộ phận phát âm chưa hồn chỉnh vì vậy
dẫn đến phát âm khơng chuẩn từ đó làm cho người nghe hiểu sai ý muốn nói.
Ví dụ: “nịng nọc” ý muốn nói đến con “nòng nọc” nhưng lại phát âm là
“lòng lọc” làm cho người nghe hiểu sang cái lòng được lọc, dẫn đến sai ý
muốn nói.
* Sai về dấu thanh

7


- Lỗi về dấu thanh là lỗi HS cũng hay bị mắc nhưng không nhiều bằng lỗi
về phụ âm đầu, tuy nhiên lỗi về dấu thanh rất khó sửa, cần nhiều thời gian và
kiên trì luyện tập.
Ví dụ: “ củ sả” ý muốn nói đến củ sả để nấu ăn, nhưng HS phát âm thành
“ cụ sạ” dẫn đến người nghe khơng hiểu được nghĩa muốn nói.
* Sai về vần
Lỗi này thường mắc ở một số em do thói quen sử dụng từ ngữ
của vùng miền ( rượu – riệu, gãy – gẫy, bảy – bẩy...)
Ví dụ: “ cơ Thanh” ý muốn nói đến cơ tên Thanh nhưng HS lại phát âm
lại đọc là “ cô Thăn” làm cho người nghe hiểu lầm sang tên cô là Thăn.
7.2.4.2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng đọc sai của học sinh tiểu học
hiện nay là:
Từ việc điều tra, tìm hiểu, tơi thấy việc đọc sai của học sinh lớp 1 chủ yếu
tập trung ở một số nguyên nhân sau:
Một là: Các em chưa hiểu một cách sâu sắc, cặn kẽ về nghĩa của tiếng,
của từ, của câu.
Hai là: Chưa ý thức được phải phát âm chuẩn thì người nghe mới hiểu hết
nghĩa mà mình muốn diễn đạt.
Ba là: Do bản thân các em đọc sai lại chưa kiên trì, tự giác tập luyện để
sửa sai.

7.2. Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 qua phân môn Tiếng
Việt 1
Từ việc điều tra tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến đọc sai của học sinh lớp 1
theo tôi để khắc phục những hạn chế trên cần chú ý đến một số biện pháp sau:
*Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh phát âm
Hướng dẫn cách phát âm là phương pháp quan trọng hàng
đầu, địi hỏi người giáo viên phải có những hiểu biết, kinh
nghiệm và cả kĩ năng hướng dẫn tốt. Khi hướng dẫn học sinh
phát âm, cần dùng lời nói mạch lạc, đơn giản để học sinh dễ
hiểu và có thể tự mình phát âm đúng. Đối với những âm, vần,
tiếng dễ nhầm lẫn, giáo viên cần phải so sánh, phân tích cụ thể
cách phát âm (môi – răng – lưỡi, đường dẫn hơi, điểm thốt
hơi…)
Ví dụ: Khi học sinh sai lẫn âm l / n giáo viên cần hướng
dẫn:
+ Âm l: lưỡi uốn cong, bật đầu lưỡi cho hơi thoát ra mạnh,
dứt khoát.

8


+ Âm n: Lưỡi ép sát lợi trên, cho hơi thốt ra đường mũi,
sau đó mở miệng cho hơi thốt ra trên mặt lưỡi, luồng hơi có
thể kéo dài. Với những học sinh vẫn chưa phát âm được, giáo
viên có thể yêu cầu các em dùng hai ngón tay, bóp mũi lại để
đọc âm l (đối với âm n, khi bóp mũi lại sẽ khơng thể đọc được).
Ví dụ: HS sai lẫn ở những âm đầu vần và cuối vần “ac” đọc
thành “at”:, giáo viên cần hướng dẫn:
+ ac: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi.
+ at: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra

trên mặt lưỡi.
Ví dụ: HS sai lẫn dấu thanh (gặp ở những học sinh có hệ
thống bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh) giáo viên cần hướng
dẫn:
- Những tiếng có thanh hỏi / thanh nặng: đi ngủ - đi ngụ,
cử tạ - cự tạ, củ sả - cụ sạ…)
+ Tiếng có thanh hỏi: giáo viên cần hướng dẫn cho học
sinh phát âm trầm, hơi luyến giọng, lên cao, kéo dài hơi. Có thể
kèm theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên trên.
+ Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt
khốt (khơng kéo dài). Khi phát âm có thể làm động tác gật
đầu.
- Những tiếng có thanh sắc – thanh ngã (em bé ngã – em
bé ngá, lọ mỡ - lọ mớ, ghế gỗ - ghế gố…)
+ Những tiếng có thanh ngã đọc nhấn mạnh, hơi kéo dài,
luyến giọng, lên cao giọng.
+ Những tiếng có thanh sắc: Đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có
thanh ngã, hơi ngắn, đọc nhanh, không kéo dài. Bằng cách
hướng dẫn (như một vài ví dụ nêu trên) học sinh có thể dễ dàng
phát âm và đạt hiệu quả cao.
* Biện pháp 2: Giáo viên đọc mẫu phải chuẩn
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em ln coi thầy, cơ giáo
của mình là thần tượng, là chuẩn mực. Đặc điểm tâm lí của học
sinh ở lứa tuổi này là hay bắt chước, hay làm theo. Các em thích
mình giống như thầy cơ và người lớn. Các em thường “bắt
chước” cô từ cách ăn mặc, đi đứng, cho đến lời nói, cử chỉ, chữ
viết …Học sinh lớp 1 hằng ngày đến lớp chủ yếu được nghe
giọng của giáo viên. Vì vậy giáo viên cố gắng cho học sinh nghe
đúng, nghe hay thì việc học sinh đọc sai, viết sai từng bước
9



được khắc phục. Muốn học sinh phát âm tốt thì giáo viên phải
phát âm chuẩn xác.
Tuy vậy, nếu sử dụng phương pháp làm mẫu khơng khéo
léo, sẽ dẫn đến tình trạng “lạm dụng”, tiết học sẽ trở nên nhàm
chán và khơng phát huy được tính tích cực, chủ động của học
sinh. Vì thế, giáo viên chỉ nên sử dụng phương pháp này khi
thấy thật cần thiết, đó là khi các em học sinh dù qua hướng
dẫn, khơng thể tự mình phát âm đúng. Khi vận dụng phương
pháp đọc mẫu cho học sinh, giáo viên cần rèn luyện cho các em
biết kết hợp cả kĩ năng nghe và nhìn (nghe tiếng phát âm và
quan sát môi, miệng, lưỡi của cô). Như thế học sinh sẽ phát âm
đúng và dễ dàng hơn. Người giáo viên khi đọc mẫu, không đơn
giản chỉ là phát ra âm tiết mà cần biết phối hợp với thuật “hình
mơi” nhằm hướng dẫn các em phát âm chuẩn xác hơn. Học sinh
nếu chỉ nghe mà khơng nhìn miệng cơ đọc thì việc phát âm sẽ
khơng đạt hiệu quả cao, vì trong mơn Tiếng Việt, việc quan sát
mơi cơ khi phát âm âm mới là rất quan trọng.
*Biện pháp 3: Khuyến khích học sinh phát hiện và điều
chỉnh lẫn nhau
Hoạt động dạy – học luôn luôn được thực hiện trong mối
quan hệ tương tác: giáo viên với học sinh, học sinh với giáo
viên, học sinh với học sinh. Một tiết học diễn ra nếu thiếu sự
tương tác giữa học sinh với học sinh thì tiết học sẽ trở nên đơn
điệu, khơng phát huy được tích cực, chủ động của học sinh,
đồng thời bầu khơng khí lớp học sẽ thiếu sự nhẹ nhàng, tự
nhiên; người giáo viên cũng không thể hiện rõ được vai trò là
người chỉ dẫn để giúp các em tự tìm tịi, lĩnh hội kiến thức mà
trong mơn Tiếng Việt thì phương trâm là “ thầy thiết kế - trị thi

cơng”. Trong q trình rèn kĩ năng phát âm cho học sinh, giáo
viên luôn đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa
học sinh với học sinh. Giáo viên cần chú trọng việc rèn cho các
em có kĩ năng nghe – nhận xét – sửa sai giúp bạn và tự sửa sai
cho mình. Các em sử dụng các kĩ năng ấy thường xuyên trong
các tiết học trở thành một thói quen, tạo nề nếp học tập tốt. Qua
quá trình nghe để nhận xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học sinh tự
điều chỉnh, sửa sai cho mình. Đồng thời cịn rèn luyện cho các em
tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao đổi, trình bày ý kiến,
góp phần hình thành nhân cách. Thực hiện thường xun như thế
sẽ tạo được bầu khơng khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện, đảm
10


bảo được mục tiêu của việc đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực.
* Biện pháp 4: Rèn luyện tính kiên trì cho học sinh
Rèn cho học sinh có tính kiên trì là nhiệm vụ quan trọng.
Bản thân người giáo viên cũng phải rất kiên trì để hình thành
tính cách ấy cho học sinh. Khi có được lịng kiên trì, học sinh sẽ
vượt qua những khó khăn để đạt tới cái đích cao nhất. Trong dạy
phát âm cho học sinh, khi các em phát âm chưa đúng, phải điều
chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em sẽ dễ chán
nản, không muốn luyện tập. Khi ấy, giáo viên cần kiên trì hướng
dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh phát âm nhiều lần, thường
xuyên động viên khích lệ học sinh bằng những lời khen “Em đã
đọc tốt hơn rồi, em cố gắng thêm tí nữa nhé”, “em đã đọc được
rồi đấy, em cố gắng lên nhé”…được động viên như vậy, học
sinh sẽ khơng nản lịng vì nghĩ rằng mình sẽ làm được, sắp làm
được, bạn làm được thì mình cũng sẽ làm được…từ đó học sinh

sẽ qut tâm hơn. Trong số những học sinh phát âm sai, có một
phần nhỏ học sinh do lười biếng, không muốn rèn luyện mình
nên chỉ phát âm một cách nhanh chóng, đại khái cho xong, dần
dần thành quen nên phát âm không chuẩn xác. Với những đối
tượng này, giáo viên phải thật nghiêm khắc, khen – chê đúng
mực để các em thấy rằng mình có khả năng học tập rất tốt,
mình cần phải thể hiện hết khả năng của mình.
* Biện pháp 5. Quan tâm rèn luyện cho học sinh ở mọi
nơi, mọi lúc
Để giúp học sinh phát âm chuẩn, giáo viên không chỉ
hướng dẫn, sửa sai cho các em trong giờ học môn Tiếng việt mà
cần luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả trong các tiết học
khác, trong giờ chơi, trong hoạt động tập thể… Bởi vì những lúc
vui chơi là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự nhiên nhất.
Người giáo viên cần chú ý quan sát để phát hiện những lỗi phát
âm của các em và kịp thời sửa chữa, đồng thời tạo cho học sinh
thói quen phát âm chuẩn dù ở bất cứ nơi đâu.
* Biện pháp 6. Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm
cho học sinh
Giáo viên có thể cùng bàn bạc và thảo luận với phụ huynh
nêu ra cách đọc một số chữ khó để phụ huynh nắm bắt được, từ
đó tạo điều kiện rèn luyện phát âm cho các em khi ở nhà. Với
một số em cá biệt về phát âm, giáo viên có thể gặp trực tiếp
11


phụ huynh trao đổi và động viên họ nên chọn mua những quyển
truyện tranh trong đó có lời đối thoại nhiều phụ âm mà học sinh
hay nhầm lẫn và dành thời gian đọc, kể cho các em nghe, dạy
em kể lại chuyện. Ngoài ra cần nhắc nhở phụ huynh thường

xuyên chú ý tới lời nói, cách phát âm của mọi người trong gia
đình, giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân
trong gia đình là mơi trường giáo dục cho các em khi ở nhà. Như
vậy việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường đều tạo môi
trường phát âm chuẩn mực giúp các em ngấm dần một cách tự
nhiên khi đọc phát âm đúng. Một số trường hợp, học sinh phát
âm sai không phải do hệ thống phát âm của các em chưa hồn
chỉnh, cũng khơng phải do các em chưa hiểu cách phát âm mà
là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương (rượu - riệu). Đối với
những trường hợp này, trong mỗi bài dạy, khi có từ ngữ hoặc
chủ đề liên quan, giáo viên cần quan tâm tới các em thường nói
sai, giải thích cho các em hiểu đúng nghĩa của từ cũng như cách
dùng từ đúng, từ đó giúp các em tránh phát âm sai theo cách
nói của địa phương. Ngồi ra, người giáo viên hồn tồn có thể
thơng qua họp phụ huynh học sinh, qua phiếu phối hợp giáo dục
giữa giáo viên và gia đình để hướng cho phụ huynh học sinh có
cách dùng từ đúng để sửa đổi.
* Biện pháp 7. Tuyên dương, khuyến khích học sinh.
Trong năm học 2018 - 2019 tôi đã áp dụng các biện pháp nêu ở trên để áp
dụng rèn đọc cho các em đồng thời cũng thường xuyên kiểm tra đánh giá kết
hợp với biện pháp tun dương, khuyến khích các em, từ đó các em rất hứng
thú, vui vẻ, tạo được khơng khí thoải mái, là động lực cho các em tiếp tục rèn
luyện, sửa chữa các lỗi mà các em mắc phải. Khi các em có tiến bộ, dù nhỏ nhất
tơi cũng dùng những lời động viện để khuyến khích các em ( VD: “ em đã phát
âm chuẩn hơn hôm qua rồi, cố lên em nhé”,“ em đã có tiến bộ nhiều hơn rồi, cơ
khen em”...), cũng có thể bằng hình thức nhận xét vào vở của các em khi chấm
vở chính tả, với em hay viết sai lỗi l/n mà bây giờ đã viết sai ít hơn tơi cũng vẫn
khen em đó (VD: “em viết bài có tiến bộ, đã ít sai lỗi l/n hơn rồi, em cần phát
huy” ....). Không chỉ khen những em đã biết sửa lỗi mà tơi cịn khen cả những
em đã giúp bạn phát âm đúng, để từ đó các em có động lực giúp bạn hơn, hừng

thú với cơng việc đó hơn.
8. Những thơng tin cần được bảo mật: Khơng có
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.
*Nhà trường.
12


Có đủ điều kiện CSVC, trang thiết bị, đồ dùng dạy học để giáo viên dạy.
Huy động tốt việc học sinh đi học đều, học đủ (Có đi đủ, đi đều học sinh
mới có thể học tốt)
Ban giám hiệu ủng hộ trong việc thực hiện sáng kiến.
Có sự chia sẻ kinh nghiệm trong chuyên môn của đồng nghiệp
*Giáo viên:
1. Phải nâng cao nhận thức của giáo viên là biện pháp tiên quyết để nâng
cao chất lượng dạy học.
2. Giáo viên phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ, tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn nghiên cứu sâu thiết kế.
3. Giáo viên phải thực sự tâm huyết với nghề, đầu tư nhiều thời gian
nghiên cứu cho mỗi bài giảng, có kế hoạch và phương pháp giảng dạy theo từng
đối tượng học sinh. Sử dụng phương pháp dạy học thích hợp, tạo ra những giờ
dạy gây hứng thú học tập cho học sinh và đạt kết quả học tập cao.
4. Giáo viên phải thực sự linh hoạt, sáng tạo trong giảng dạy.
5. Mở đầu tiết học cần giới thiệu bài một cách tự nhiên để gây hứng thú
học tập cho học sinh nhằm lôi cuốn các em vào nội dung bài.
6. Khi đọc mẫu giáo viên cần phát âm chuẩn vì ở lứa tuổi các em bắt
chước rất tốt tránh để tiếng địa phương là ảnh hưởng đến các em.
*Học sinh.
Đi học đều, có đủ đồ dùng học tập.
Trong lớp chú ý nghe giảng, chịu khó đọc.
Biết hợp tác chia sẻ cùng bạn bè trong lớp nhất là trong việc rèn đọc.

Có sự vào cuộc và sự ủng hộ cao từ phía cha mẹ học sinh.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến:
10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của
tác giả:
Sau mỗi năm học nghiên cứu và áp dụng những biện pháp về việc rèn đọc
cho HS lớp 1 qua môn Tiếng Việt. Để biết được kết quả bước đầu cả những
phương pháp mình thực nghiệm thực tế, tơi đã cho học sinh của lớp mình thực
hành đọc một số bài bất kỳ, em sau không đọc trùng bài của em trước.
- Điểm 9, 10: Đảm bảo đọc to rõ ràng, lưu lốt, khơng có lỗi về phát âm.
- Điểm 7, 8: Đọc to, rõ ràng. Phát âm đôi chỗ chưa thật sự đúng. Sai
khơng q 3 lỗi chính tả/bài.
- Điểm 5, 6: Đọc còn nhỏ, đọc chậm và cịn sai q 5 lỗi chính tả/bài
- Dưới điểm trung bình: chưa đọc được hết bài. Sai nhiều lỗi phát âm.
Sau khi kiểm tra có kết quả như sau:
13


Hầu như các em đã đọc được hết bài. Tuy nhiên vẫn có em đọc nhỏ, đọc
chậm và có em vẫn sai lỗi phát âm, nhưng nhiều em đã có sự tiến bộ trong cách
đọc cũng như số lượng mắc lỗi phát âm của các em đã giảm.
Cụ thể là:
Căn cứ vào bài chấm tôi thống kê điểm bài đọc của học sinh như sau:
Khảo sát đầu năm (Tháng 9/2018)
TSHS

Đọc tốt

Đọc khá


Đọc trung bình

Đọc yếu

Đọc ngọng

49

10

10

12

9

6

(2 HS
hịa
nhập)
Tổng số học sinh: 49 em (2 HS hịa nhập)
- Số học sinh có kỹ năng đọc đúng ở mức
+ Tốt: 10 em
+ Khá: 10 em
+ TB: 12 em
+ Yếu: 9 em (tiếp thu chậm)
+ Đọc ngọng: 6 em
Khảo sát giữa kì (Tháng 3/2019)
TSHS


Đọc tốt

Đọc khá

Đọc trung bình

Đọc yếu

Đọc ngọng

49

26

10

7

2

2

(2 HS
hịa
nhập)
Tổng số học sinh: 49 em (2 HS hịa nhập)
- Số học sinh có kỹ năng đọc đúng ở mức
+ Tốt: 26 em
+ Khá: 10 em

+ TB: 07 em
+ Yếu: 02 em
+ Ngọng: 02 em

14


Từ kết quả đạt được cuối năm học, tôi thấy khả năng đọc cũng như lỗi phát
âm của các em được cải thiện đáng kể, chất lượng đọc được nâng lên, học sinh
hứng thú học tập, tạo khơng khí thoải mái khi học, học mà chơi, chơi mà học. Từ
đó tôi cũng mạnh dạn so sánh kết quả đầu năm học với cuối năm học.
sánhkết quả đầu năm học và cuối năm học 2015 - 2016
Đọc trung
Đọc yếu
bình

Đọc
ngọng

Thời gian

TSHS

Đọc tốt

Đọc khá

Đầu năm

49


10

10

12

9

6

26

10

7

2

2

(2 HS
hịa
nhập)
Giữa kì 2

49
(2 HS
hịa
nhập)


Ở năm học 2018 - 2019 ngay từ đầu năm tôi tiếp tục tiến hành nghiên cứu
và áp dụng các phương pháp giảng dạy trên vào giảng dạy lớp 1A3 - Trường
Tiểu học Dương Xá đến nay tơi nhận thấy các em học sinh có nhiều tiến bộ hơn
so với đầu năm học. Học sinh đã phát âm đúng, chuẩn tiếng, từ, biết phân tích
các từ, biết đọc, ngắt nghỉ đúng chỗ… kết quả rất khả quan.
Nhận xét
Bằng sự nhiệt tình trong cơng tác nghiên cứu giảng dạy, tôi đã vận dụng
sáng tạo những phương pháp đã học để hướng dẫn kèm cặp đối tượng học sinh
lớp 1 để giúp các em không chỉ viết tốt mà cịn đọc tốt, đọc chuẩn, đọc khơng
sai lỗi.
Tuy rằng số lượng các em đọc tốt vẫn còn hạn chế nhưng những biện
pháp mà tôi đưa ra để giúp em đọc tốt hơn phần nào đã giúp các em học sinh lớp
1B nhìn nhận ra lỗi phát âm của mình để có biện pháp sửa chữa hợp lý.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ
chức, cá nhân:
Áp dụng sáng kiến của mình trong việc rèn đọc cho học sinh để nâng cao
chất lượng đọc. Bản thân tôi qua các tiết dự giờ của Ban giám hiệu và các đồng
chí trong tổ chuyên môn đều đánh giá học sinh lớp tôi có nhiều tiến bộ. Học
sinh đã phát âm đúng, chuẩn tiếng, từ, biết phân tích các từ, biết đọc, ngắt nghỉ
đúng chỗ…
Phụ huynh tin tưởng vào khả năng của giáo viên.
15


Các đồng nghiệp trong trường đều mong muốn được áp dụng sáng kiến
của tơi vào rèn đọc của lớp mình trong năm học tới.
11. Danh sách tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu
Số

TT

1

Tên tổ chức /
cá nhân

Nguyễn Thị Lựu

Phạm vi/Lĩnh vực áp
dụng sáng kiến

Địa chỉ

Trường Tiểu học Dương
Xá – Gia Lâm – Hà Nội

Mơn Tiếng Việt trong đó
chủ yếu là phần rèn đọc
cho học sinh lớp 1A3,
Trường Tiểu học Dương
Xá – Gia Lâm – Hà Nội.

Trên đây là sáng kiến của tôi đã thực hiện trong lĩnh vực biện pháp giúp
học sinh học tốt môn Tiếng Việt mà trọng tâm là kỹ năng rèn đọc cho học sinh.
Nay xin báo cáo lại trước hội đồng khoa học nhà trường cũng như hội đồng khoa
học cấp trên. Trong quá trình thực hiện và viết báo cáo khơng thể tránh khỏi
những thiếu sót. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy đồng thời là tác giả báo cáo
sáng kiến tôi rất mong nhận được sự động viên, sự giúp đỡ của Hội đồng khoa
học các cấp giúp tôi dạy tốt hơn.

Xin chân thành cảm ơn !
Hiệu trưởng
(Ký tên, đóng dấu)

Dương Xá, ngày 26 tháng 3 năm 2021
Tác giả sáng kiến
(Ký, ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Lựu

16


ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………..…………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………....
.................................................................................................................................
.

17



×