Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về quan hệ giữa lý luận và thực tiễn tiểu luận cao học”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.67 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói, “lý luận” và “thực tiễn” là hai phạm trù thường xuyên được đề
cập đến trong các hoạt động của con người. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan
hệ rất chặt chẽ với nhau và nó là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Leenin nói chung và của lý luận nhận thức macxit nói riêng.
Trong bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào của con người thì những vấn đề về
lý luận và thực tiễn phải được đưa ra xem xét trong mối liên hệ với nhau. Có như
vậy hoạt động của con người mới có thể đi đúng hướng và đạt được hiệu quả cao.
Lịch sử phát triển đã chứng minh rằng phải luôn kết hợp giữa lý luân và thực tiễn
trong mọi hoạt động. Nếu có sự vi phạm ngun tắc này thì kết quả thu được sẽ
khơng được như mong muốn.
Nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ tìm thấy những
quan điểm của người mang tính hệ thống, biện chứng rất sâu sắc. Trong các quan
điểm ấy, quan điểm về sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là quan điểm mang
tính triết học khái quát cao nhất. Nó có ý nghĩa khơng chỉ với thời đại của Hồ Chí
Minh mà cịn có ý nghĩa đối với thế hệ chúng ta. Vì vậy trong bài tập này em chọn
đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa lý luận và thực tiễn” để nghiên
cứu.


NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận
1.1. Thực tiễn:
1.1.1.Khái niệm:
Thực tiễn là tồn bộ những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử
- xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Hoạt động thực tiễn là q
trình con người sử dụng cơng cụ phương tiện vật chất, sức mạnh vật chất tác động
vào tự nhiên xã hội để cải tạo làm biến đổi cho phù hợp với nhu cầu của mình.
Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể trong đó chủ
thể hướng vào việc cải tạo khách thể trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Vì vậy
thực tiễn là mắt khâu trung gian nối liền ý thức của con người với thế giới bên


ngoài. Thực tiễn là hoạt động có tính chất lồi (lồi người). Hoạt động đó khơng
thể tiến hành chỉ bằng vài cá nhân riêng lẻ mà phải bằng hoạt động của đơng đảo
quần chúng nhân dân trong xã hội. Đó là hoạt động của nhiều tầng lớp, nhiều giai
cấp. Chủ thể không phải là một vài cá nhân mà là cả xã hội trong giai đoạn lịch sử
nhất định. Cho nên xét về nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực tiễn
có tính lịch sử xã hội. Thực tiễn là hoạt động vật chất gắn liền với sự biến đổi tiến
bộ của tự nhiên xã hội loài người nhằm cải tạo tự nhiên xã hội. Nhưng hoạt động
vật chất nào đi ngược lại với khoa học tự nhiên và xã hội thì khơng goị là hoạt
động thực tiễn. Thực tiễn có ba dạng cơ bản:
- Hoạt động sản xuất vật chất: đây là hoạt động thực tiễn cơ bản và quan
trọng nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
- Hoạt động chính trị – xã hội: nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các
quan hệ xã hội, chế độ xã hội.


- Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hoạt động nhằm rút ngắn độ dài của
quá trình con người nhận thức và biến đổi thế giới.
1.1.2. Vai trò:
Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở của nhận thức. Mọi nhận thức đều bắt nguồn
từ thực tiễn, tác động vào sự vật hiện tượng buộc nó bộc lộ thuộc tính trên cơ sở đó
khái quát, rút ra bản chất của sự vật hiện tượng, biến nó thành vật cho ta. Thực tiễn
là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm nhận thức, thước đo để đánh giá nhận thức. Thước
đo không cố định, luôn luôn vận động, phát triển, nhưng vẫn đủ để kiểm nghiệm
nhận thức và lý luận, vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối. Từ thực
tiễn mà con người sáng tạo ra các phương pháp để cải tạo chính thực tiễn
1.2. Lý luận:
1.2.1. Khái niệm:
Lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn phản ánh
mối liên hệ bản chất những quy luật của thế giới khách quan. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng

hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong q trình lịch sử”. Lý
luận được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng lý
luận khơng hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải mọi lý luận
đều trực tiếp xuất phát kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có
thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm. Tuy nhiên điều đó không làm mất đi mối
liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm. Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu
tượng và khái quát cao nên nó đem lại những hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính
quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan. Như vậy lý luận thể hiện tính chân
lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là nó có tính bản chất sâu sắc


hơn và do đó phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ biến, rộng rãi hơn nhiều so với tri
thức kinh nghiệm.
1.2.2.Vai trị:
Lý luận có các vai trị sau đây: - Khái quát kinh nghiệm thực tiễn, tổng kết
thực tiễn. - Vạch ra những qui luật vận động phát triển của thực tiễn. - Liên kết, tập
hợp, giáo dục, thuyết phục, động viên, tổ chức thực hiện. - Chỉ đạo và cải tạo cuộc
sống. 1.3.Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn: Lý luận và thực tiễn thống nhất
với nhau, không chia cắt, không tách rời, không được coi trọng mặt nào. Lý luận
được hình thành khơng phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ với thực
tiễn. Do đó, thực tiễn và lý luận ln có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại
lẫn nhau trong đó thực tiễn giữ vai trị quyết định lý luận.
1.3 Những khái niệm lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin
Lênin khẳng định: “Học thuyết của Mác đã dung hợp lý luận và thực tiễn
của cuộc đấu tranh giai cấp thành một chỉnh thể không tách rời..”. Như vậy, ngay
trong những quan điểm triết học Mác, vấn đề lý luận và thực tiễn đã được thống
nhất thành một chỉnh thể. Thực tiễn và lý luận là hai mặt đối lập vừa thống nhất,
vừa mâu thuẫn trong cùng một chỉnh thể thực tiễn.
Những cống hiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin cả về lý luận và thực tiễn
đã góp phần làm cho hệ thống lý luận của Mác, Ăngghen ngày càng hoàn chỉnh.

Chủ nghĩa Mác - Lênin khơng chỉ giải thích về mặt lý luận, mà còn vạch ra con
đường, những phương tiện cải tạo thế giới bằng thực tiễn trên cơ sở lý luận. Đó là
mối liên hệ hữu cơ, biện chứng giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng.
Ở khía cạnh nào đó, thì trong thực tiễn cũng có lý luận và ngược lại trong lý
luận cũng có thực tiễn. Lênin chỉ ra rằng: “Toàn bộ đời sống thực tiễn của con
người thâm nhập vào bản thân lý luận nhận thức và cung cấp một tiêu chuẩn khách


quan của chân lý: chừng nào chúng ta chưa biết một quy luật của giới tự nhiên thì
quy luật đó, trong khi tồn tại và tác động độc lập và ở ngồi nhận thức của ta, biến
ta thành những nơ lệ của “tính tất yếu mù quáng”.
Quan niệm về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn chiếm một vị trí quan
trọng trong lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác – Lênin, và trong mối quan hệ
giữa lý luận và thực tiễn, thì thực tiễn là cái ln giữ vai trị quyết định; cịn lý luận
có tính độc lập tương đối của nó. Điều này có nghĩa là: Sự hình thành và phát triển
của lý luận một mặt, bị quy định bởi thực tiễn lịch sử xã hội, mặt khác lại phụ
thuộc vào sự tác động của các yếu tố bên trong của nó.
Như vậy, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn cịn có sự tác động qua lại
và bổ trợ cho nhau. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn còn được hiểu theo
cách phù hợp và tương thích cũng như tính điều kiện cần và đủ. Tuy nhiên, sự phù
hợp giữa lý luận và thực tiễn lại mang tính chất vận động, phát triển liên tục tương
hỗ, bảo trợ giữa thực tiễn và lý luận.
1.4. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
- Thực tiễn quyết định lý luận:
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở động
lực mục đích chủ yếu và trực tiếp của lý luận. Triết học Mác – Lênin chỉ ra rằng
con người quan hệ với thế giới bắt đầu khơng phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn.
Chính trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới buộc con ngươì phải
nhận thức thế giới do đó mà lý luận của con người mới được hình thành và phát
triển. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới buộc thế giới

khách quan phải bộc lộ những tính chất quy luật của nó trên cơ sở đó mà con người
nhận thức được chúng. Thực tiễn cung cấp những tài liệu cho lý luận. Do đó khơng
có thực tiễn thì khơng có lý luận và khơng có cả khoa học. Hiểu biết của con người


xét đến cùng phải bắt nguồn từ thực tiễn. Quá trình biến đổi thế giới là quá trình
con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế
giới làm phong phú sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn đề ra nhu cầu,
nhiệm vụ và giới hạn phát triển của lý luận và sự phát triển của các ngành khoa
học. Nhu cầu của thực tiễn địi hỏi phải có tri thức mới. Tổng kết kinh nghiệm,
khái quát nhận thức, thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Thực
tiễn cịn có tác dụng rèn luyện các giác quan của con người. Nó là cơ sở để chế tạo
ra những dụng cụ máy móc hỗ trợ cho nhận thức của con người. Thực tiễn là mục
đích của lý luận. Triết học Mác – Lênin chỉ ra rằng từ hoat động thực tiễn mà có tri
thức và khoa hoc. Lý luận khoa học sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn
hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào
thực tiễn, cải tạo thực tiễn, phục vụ mục tiêu phát triển chung. Tóm lại sự phân tích
trên đây về vai trò của thực tiễn đối với lý luận đòi hỏi phải quán triệt quan điểm
thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sơ
thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Nếu
xa rời thực tiễn thì sẽ dẫn tới sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan
liêu.
-

Sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn:

Triết học Mác - xít chỉ ra rằng coi trọng thực tiễn khơng có nghĩa là coi nhẹ
lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận mà phải thấy được vai trị tác động tích cực của
lý luận đối với thực tiễn. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn được thể hiện ở các
điểm sau: - Lý luận khái quát những kinh nghiệm thực tiễn. Do đó lý luận dẫn dắt,

chỉ đạo thực tiễn, điều chỉnh hoạt động thực tiễn đạt kết quả cao. Lý luận khoa học
làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động tự giác, hạn chế tình trạng mị
mẫm tự phát. Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết “khơng có lý luận thì lúng túng nhắm


mắt mà đi”. Cịn Lênin khẳng định “khơng có lý luận cách mạng thì khơng thể có
phong trào cách mạng”.
- Lý luận góp phần vào việc tổ chức giáo dục thuyết phục quần chúng. Lý
luận một khi đã thâm nhập vào quần chúng sẽ trở thành lực lượng vật chất.
- Lý luận có thể dự báo tương lai, từ đó hấp dẫn con người trong cuộc sống
hiện tại. Do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực nên lý
luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng. Khả năng ấy càng tăng lên
nếu lý luận đó lại bị chi phối bởi những tư tưởng khơng khoa học hoặc phản động.
Vì vậy, phải coi trọng lý luận, nhưng không được cường điệu hố vài trị của
lý luận mà coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó cũng có
nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong lý
luận khoa học và hoạt động cách mạng. “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà khơng liên hệ với thực tiễn là
lý luận sng” Tóm lại sự tác động trở lại của Nhận thức đối với thực tiễn theo hai
hướng: nếu nhận thức phù hợp với thực tiễn thì nó thúc đẩy thực tiễn phát triển,
nếu nhận thức phản ánh sai thực tiễn thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển thực tiễn.
Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp
phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận một khi
thâm nhập vào quần chúng thì biến thành “lực lượng vật chất”. V.I.Lênin khẳng
định: “Khơng có lý luận cách mạng thì cũng khơng thể có phong trào cách mạng”.
Lý luận có thể dự kiến được sự vận động trong tương lai, từ đó vạch ra phương
hướng cho thực tiễn, chỉ rõ những phương pháp hành động có hiệu quả nhất để đạt
mục đích của thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt động của con người nên
chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mị mẫm, tự phát. Đánh giá vai trò và ý nghĩa



lớn lao của lý luận đối với thực tiễn, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Lý luận như cái
kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong cơng việc thực tế. Khơng có
lý luận thì lúng túng như nhắm mặt mà đi” “Làm mà khơng có lý luận thì khơng
khác gì đi mị trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”. Ngay sau khi nước
nhà giành được độc lập từ tay Thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã cảnh báo rằng, do
“kém về lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông “mà nhiều cán bộ, đảng
viên của ta mắc phải bệnh chủ quan. Cũng vì kém lý luận mà cán bộ ta “gặp mọi
việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Khơng biết
nhận rõ điều kiện hồn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả
thường thất bại”.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự
phản ánh hiện thực, do sự chi phối của hệ tư tưởng và thái độ khơng khoa học nên
lý luận có nguy cơ xa rời cuộc sống và trở nên ảo tưởng, giáo điều. Vì vậy, trong
khi nhấn mạnh vai trị quan trọng của lý luận, Hồ Chí Minh cũng đồng thời nhắc
nhở chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ: lý luận cách mạng khơng phải là giáo điều,
nó là “kim chỉ nam” cho hành động cách mạng; và “…lý luận khơng phải là một
cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý luận luôn cần được bổ sung bằng những
kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ
rõ: “Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ khơng có kết
quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ
với thực tế. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.Lý luận mà xa rời
thực tiễn, tách khỏi thực tiễn thì sớm muộn sẽ trở nên giáo điều, sách vở, là lý luận
suông. Đồng thời, thực tiễn mà không được hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng bởi lý


luận thì dễ trở thành “mảnh đất màu mỡ” cho bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa nảy sinh

và phát triển.
Chương 2. Từ lý luận và thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến hoạt
động thực tiễn của người cán bộ hiện nay.
2.1 Thực trạng
Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi
thường, hạ thấp vai trò lý luận lý luận khoa học. Chúng ta đi lên từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ dân trí thấp, khoa học - kỹ thuật
chưa phát triển. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho bệnh kinh nghiệm nảy sinh.
Hồ Chí Minh nhận xét rằng, trong Đảng ta cịn "có những cán bộ, những đảng viên
cũ, được làm việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên, những anh em đó rất qúi báu cho
Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh coi khinh lý luận.
Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa vai trị của lý luận, tách
lý luận với thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể. Biểu hiện của bệnh giáo điều
là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ theo kiểu “tầm chương trích cú”,
hiểu lý luận một cách trừu tượng mà khơng thâu tóm được thực chất cách mạng và
khoa học của nó, nặng về diễn giải những gì đã có sách vở mà khơng bám sát thực
tiễn, thốt ly đời sống hiện thực; tiếp nhận những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội
khoa học một cách đơn giản, phiến diện mang tính chất cảm tính, từ đó, biến chúng
trở thành những tín điều. Hồ Chí Minh phê phán kiểu học thuộc lịng sách vở về
chủ nghĩa Mác - Lênin mà khơng học tinh thần Mác - Lênin.
Khắc phục bệnh giáo điều là cơng việc khó khăn, phức tạp, thường xun, liên
tục vì căn bệnh này ln có nguy cơ tái phát dưới những hình thức mới. Hiện nay
khơng ít người có lối tư duy bắt chước, sao chép, rập khuôn những "cái mới" từ
nước ngoài, bất chấp thực tế lịch sử, truyền thống, văn hóa và hồn cảnh cụ thể của


dân tộc ta. Sao chép cái mới như vậy không phải là đổi mới tư duy, mà là "bệnh
giáo điều mới" và nó cũng tai hại khơng kém các biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều
từ trước đến nay.
Sự yếu kém và coi khinh lý luận, bệnh lý luận suông là nguyên nhân làm cho

con người mắc cả bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều. Vì vậy, theo Hồ
Chí Minh phải chấm dứt được “bệnh kém lý luận, bệnh coi khinh lý luận, bệnh lý
luận suông” trong cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc rằng, biện pháp
cơ bản để khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là phải
thường xuyên quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của lý luận, trong những năm
qua, cơng tác tư tưởng, lý luận được Đảng ta hết sức chú trọng. Chúng ta coi đổi
mới tư duy lý luận là khâu đột phá, là điều kiện và tiền đề cho những đổi mới trong
hoạt động thực tiễn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đặt ra vấn
đề phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, coi đó là điểm khởi đầu để đi
đến xác định đường lối đổi mới của Đảng. Nhiệm vụ đổi mới tư duy địi hỏi chúng
ta phải khơng ngừng bồi dưỡng tư duy lý luận để khắc phục tư duy giáo điều, tư
duy kinh nghiệm, những căn bệnh làm cho chúng ta không nhận thức được đúng
những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Từ đó đến nay, các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và các Hội nghị của
Ban Chấp hành Trung ương đều đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với công tác lý luận.
Đảng ta đã có hai nghị quyết riêng về công tác tư tưởng, lý luận: Nghị quyết 01 NQ/TW ngày 28 tháng 3 năm 1992 của Bộ Chính trị khóa VII "Về cơng tác lý luận
trong giai đoạn hiện nay" và Nghị quyết 16 - NQ/TW ngày 18 tháng 3 năm 2002
của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (Hội nghị Trung ương 5) “Về nhiệm vụ
chủ yếu của cơng tác tư tưởng, lý luận trong tình hìmh mới”.


Đánh giá về tình hình tư tưởng, lý luận, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX chỉ ra rằng: từ Đại hội lần thứ VI của Đảng
đến nay, trình độ lý luận của Đảng ta đã có bước phát triển rõ rệt. Đảng đã không
ngừng đổi mới phương pháp tư duy, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mở ra bước chuyển biến quan trọng trong trong
tư duy lý luận. “Tuy nhiên, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội mới dừng lại ở những nét khái qt chung, cịn khơng ít vấn đề cụ thể
được đặt ra từ thực tiễn cha có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa có sức thuyết phục;

nhiều cán bộ, đảng viên nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh cịn giản đơn, hiểu biết về chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa sâu sắc, có mặt cịn
lệch lạc; phương pháp tư duy chưa vươn tới tầm biện chứng, cịn dừng lại ở trình
độ cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc thực dụng”. “Cơng tác tư tưởng, lý
luận của Đảng trong hơn 15 năm qua đã đạt được thành tựu quan trọng: những kết
quả nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn đã cung cấp nhiều luận cứ khoa
học cho việc xây dựng, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới của Đảng; góp
phần tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội”. Tuy vậy,
công tác tư tưởng, lý luận, cơng tác tổ chức, cán bộ nhìn chung vẫn có nhiều yếu
kém, bất cập. “Cơng tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu
cầu của cách mạng”, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc
đổi mới để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng,
tăng cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội.
Nguyên nhân của những yếu kém, bất cập nêu trên là do “Đảng ta chưa đặt
đúng mức việc chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp công tác tư tưởng, lý luận
trong giai đoạn mới. Chưa xây dựng được quy chế bảo đảm dân chủ, phát huy tự
do tư tưởng trong hoạt động lý luận và công tác tư tưởng. Chậm tăng cường, đổi
mới công tác xây dựng đội ngũ làm công tác tư tưởng, lý luận. Cơ sở vật chất kỹ


thuật, điều kiện làm việc ở nhiều cơ quan, đơn vị làm cơng tác tư tưởng, lý luận
cịn nhiều thiếu thốn, lạc hậu”.
Vì vậy, Hội nghị chỉ ra rằng, để đẩy nhanh quá trình đổi mới đất nước, chúng ta
cần phải tăng cường công tác lý luận. Công tác lý luận phải theo kịp sự phát triển
và yêu cầu của cách mạng; góp phần khơi dậy mạnh mẽ các nguồn lực trong xã
hội, tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Qua ba năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX, nhiều vấn đề nóng hổi, quan trọng nảy sinh từ thực tiễn đã

được quan tâm nghiên cứu và đã có những kết luận kịp thời như: phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới và hồn thiện hệ thống chính trị; xây
dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới, phát triển văn hóa, con người và nguồn
nhân lực, v.v.. Có những vấn đề được tổ chức nghiên cứu và thảo luận sổi trong
mọi tầng lớp nhân dân như vấn đề đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân.
Để việc tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận có hiệu quả, cần phải bảo đảm
được các yêu cầu cơ bản sau:
- Tính khách quan. Trong tổng kết thực tiễn và nghiên cứ lý luận địi phải có
thái độ trung thực, tránh tổng kết thực tiễn theo kiểu "tô hồng" hoặc "bơi đen";
khơng được lấy ý đồ sắn có để áp đặt cho việc tổng kết thực tiễn; không được lấy
việc tổng kết thực tiễn để chứng minh cho suy nghĩ chủ quan cá nhân.
- Tính khái quát cao. Khi phân tích, đánh giá, khái quát thục tiễn phải rút ra
được những kết luận có tính quy luật, chỉ ra được các mối liên hệ có tính bản chất.


Đó là những kết luận có tính phổ biến, tính điển hình và phải có giá trị thực tiễn
cao.
- Tính mục đích đúng đắn. Cơng tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận
cần phải đạt những yêu cầu như: phát triển lý luận, sớm làm rõ và kết luận những
vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn, từng bước cụ thể, bổ sung, phát triển
đường lối, chính sách của Đảng. Nói một cách khác, tổng kết thực tiễn và nghiên
cứu lý luận phải hướng tới mục đích xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội, phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới.
2. 2 Giải pháp khắc phục
Trong giai đoạn hiện nay của cách mạng, việc nâng cao vai trò của lý luận cần tập
trung vào mấy nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, lý luận phải thật sự làm cơ sở khoa học cho sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước. Lý luận phải cung cấp được những căn cứ khoa học đáng
tin cậy cho việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà

nước. Muốn vậy, Đảng và Nhà nước cần coi trọng lý luận, coi trọng đội ngũ cán bộ
lý luận, cán bộ khoa học, biết sử dụng họ vào công tác nghiên cứu, đề xuất các chủ
trương, đường lối, chính sách.
Thứ hai, lý luận phải làm cơ sở khoa học cho việc định hướng xã hội chủ nghĩa
của công cuộc đổi mới đất nước. Đổi mới là tất yếu, nhưng đổi mới không phải là
từ bỏ con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, mà ngược lại phải khẳng định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội với những bước đi, hình thức, biện pháp phù hợp.
Lý luận cần làm sáng tỏ, giải đáp đúng đắn những vấn đề quan trọng hiện nay như:
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm tăng trưởng
kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội; đổi mới và hoàn thiện hệ thống


chính trị; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới; kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, v.v..
- Thứ ba, lý luận phải dự báo xu hướng vận động của sự nghiệp đổi mới. Sự
nghiệp đổi mới của chúng ta diễn ra trong điều kiện khó khăn, phức tạp, trong bối
cảnh thế giới có nhiều biến động khó lường. Lý luận phải biết dự kiến nhiều khả
năng có thể xảy ra để có những biện pháp tác động, các phương án giải quyết chủ
động, thích hợp nhất.
- Thứ tư, lý luận phải định hướng cho hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng
viên. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, làm "kim chỉ nam" cho hoạt động
của cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện hiện nay, nếu khơng có sự định hướng đúng
đắn của lý luận khoa học thì hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng viên sẽ trở nên
mò mẫm, mất phương hướng. Để lý luận phát huy vai trò định hướng cho hoạt
động thực tiễn của cán bộ, đảng viên, chúng ta phải thường xuyên bổ sung, phát
triển lý luận; kết hợp nghiên cứu lý luận với tuyên truyền, giáo dục, học tập lý
luận; vận dụng lý luận để giải đáp những vấn đề do thực tiễn đổi mới đặt ra.


KẾT LUẬN
Những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, khơng chỉ là bài học tư tưởng

q giá, mà cịn có ý nghĩa thiết thực đối với mỗi người cán bộ, đảng viên chúng ta
ngày hôm nay, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang trên đà hội nhập quốc tế, song
hành cùng đó là ra sức đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức của Hồ Chí Minh. Để Việt Nam ngày càng định vị trên bản đồ thế
giới về tầm nhìn lý luận chính trị, sức mạnh về kinh tế, bề dày về văn hóa và đi đầu
trong mọi hành động quốc tế.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước những vận động và biến đổi
nhanh chóng của thế giới, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ
biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ VI trở đi, Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự chú trọng đến hiệu quả của
hoạt động thực tiễn, đúc kết lý luận, gắn lý luận với thực tiễn, nắm bắt kịp thời xu
thế của thời đại, xây dựng những đường lối, chủ trương đúng đắn, đưa đất nước
vượt qua thời kỳ khủng hoảng, tạo những bước tiến quan trọng, chủ động hội nhập
với thế giới.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-Đảng Cộng Sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ
IX”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2001
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, t. 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994, tr.781, 720.
3. Giao trinh Tư tưởng Hồ Chí Minh NXB Chính trị Quốc gia sự thật



×