Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tểu luận cao học tư tưởng hồ chí minh về đẩy mạnh sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.75 KB, 29 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969) là người con ưu tú nhất của dân
tộc và là một vĩ nhân của thời đại. Người là tượng trưng cao đẹp của chủ
nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vơ
sản.Hồ Chí Minh – anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người thầy
vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là tấm gương sáng cho Đảng ta, nhân dân ta cùng lớp lớp thế hệ người
Việt Nam nguyện phấn đấu suốt đời học tập và noi theo. Người đã để lại cho
chúng ta những di sản tinh thần to lớn, những tư tưởng vơ giá, những giá trị
nhân văn cao cả. Trong đó có tư tưởng về kinh tế của Người là một bộ phận
hợp thành, là tư tưởng của nhà chính trị bàn về kinh tế, do đó, nó có sự thống
nhất cao độ giữa kinh tế với chính trị; kinh tế với văn hóa, đạo đức và con
người. Nó được hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành tư
tưởng của Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước
đã và đang bước vào thời kỳ mới – đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức; hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới thì việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế là hết sức cần
thiết và càng trở nên cấp thiết. Tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh là một hệ
thống bao gồm những tư tưởng, lý luận của Người về những vấn đề liên quan
đến nền kinh tế của đất nước ta. Đó là những luận điểm kinh tế có giá trị to
lớn cả về lý luận và phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo trong sự nghiệp xây dựng
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở một nước nông nghiệp lạc hậu không qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Với mục đích của nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa mà Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: “ Chủ nghĩa xã hội là nhằm
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”, “ Chủ nghĩa xã hội làm
cho mọi người dân sung sướng, ấm no…”. Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa có
mục đích cao đẹp và phấn đấu để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng về vật
1



chất và văn hóa của nhân dân lao động. Người cũng chỉ rõ: muốn đạt mục
đích ấy thì nhân dân lao động phải tự làm lấy, toàn dân phải ra sức thi đua
tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Đó là “ hai việc cần thiết nhất để
phát triển chế độ dân chủ nhân dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội”. “Tăng gia
sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân” .Như vậy “tăng gia sản xuất
và thực hành tiết kiệm” là một trong những luận điểm kinh tế có ý nghĩa hết
sức quan trọng của Hồ Chí Minh khơng chỉ trong bối cảnh đã hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà cịn
đặc biệt có ý nghĩa to lớn trong giai đoạn mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay của nước ta.Để hiểu rõ hơn tư tưởng đó của Người, chúng ta sẽ cùng
nhau tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về đẩy mạnh sản xuất đi đơi với thực
hành tiết kiệm, chống tham ơ, lãng phí cũng như việc vận dụng tư tưởng đó
vào phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay.

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG “ ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT ĐI
ĐÔI VỚI THỰC HÀNH TIẾT KIỆM,CHỐNG THAM Ơ, LÃNG PHÍ”
CỦA HỒ CHÍ MINH.
1. Truyền thống văn hóa dân tộc và tình yêu nhân dân, đất nước.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh bất khuất chống thiên tai, địch
họa. Trong nhiều thời kỳ, dân tộc ta phải đương đầu với các cuộc chiến tranh
liên miên nên thời gian cho hịa bình, xây dựng và phát triển kinh tế không
nhiều. Hơn nữa, nền kinh tế nông nghiệp ở nước ta kém phát triển, phụ
thuộc chủ yếu vào thiên nhiên, vì vậy người nơng dân phải liên kết với nhau,
dựa vào nhau mà sống. Hồn cảnh đó đã tạo nên những giá trị truyền thống
của dân tộc như: ý thức lấy nơng nghiệp làm gốc, làm chính; tơn trọng và

ước vọng sống hịa hợp với thiên nhiên; tính cộng đồng, trọng tình, dân chủ,
linh hoạt, mềm dẻo, hiếu hịa… Và đặc biệt hơn đó là tính tiết kiệm. Có thể
thấy rằng, tiết kiệm đã trở thành một trong những tính cách đặc trưng nhất
của người Việt Nam. Bởi chính trong hồn cảnh sống khó khăn đó, cùng với
truyền thống “ phồn thịnh”, con đàn cháu đống, người Việt Nam tiết kiệm
khơng chỉ vì cho cuộc sống no đủ của mình mà đặc biệt hơn, quan trọng hơn
cả là tiết kiệm để cho con cháu của mình, cho thế hệ sau này. Như vậy, tư
tưởng phát triển kinh tế đi đơi với thực hành tiết kiệm của Hồ Chí Minh xuất
phát từ truyền thống văn hóa của đất nước. Người cho rằng: “ Hằng ngày ta
phải ăn cơm, uống nước, phải thở khí trời để mà sống. Những việc đó, ngày
xưa cha ơng ta phải làm, bây giờ chúng ta phải làm, con cháu sau này cũng
phải làm. Vậy ăn cơm, uống nước và thở khí trời để đem lại cuộc sống cho
con người thì đó là những việc khơng khi nào trở thành cũ cả. Cần, Kiệm,
Liêm, Chính đối với đời sống mới cũng vậy” . Người cho việc giáo dục tinh
thần tiết kiệm là đạo lý truyền thống của dân tộc Việt Nam từ bao đời nay.
Vì vậy, khi bước vào xây dựng xã hội mới, khi đất nước đi lên chủ nghĩa xã
3


hội thì Cần, Kiệm, Liêm, Chính phải trở thành nền tảng đạo đức của một xã
hội, một đất nước. Người cho rằng: “ Cần, Kiệm, Liêm,Chính" là nền tảng
của đời sống mới, nền tảng của thi đua ái quốc”. Và chính Cần - Kiệm –
Liêm – Chính là những khái niệm đạo đức phương Đông, đạo đức truyền
thống Việt Nam được Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc, kế thừa những nội
dung tích cực và bổ sung vào những yêu cầu và nội dung mới do sự nghiệp
giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước đặt ra. Trong bốn phẩm chất trên,
ta thấy rằng, Kiệm luôn được Người quan tâm và đề cao. Là người chứng
kiến nỗi khổ đau của nhân dân ta, vì vậy mà tình yêu nhân dân, yêu quê
hương, đất nước luôn ngự trị trong trái tim người con xứ Nghệ. Xuất phát từ
hoàn cảnh thực tế của đất nước, ngay sau khi giành được chính quyền về tay

nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị với chính phủ phát động một
chiến dịch tăng gia sản xuất để nhanh chóng dập tắt nạn đói. Người đề nghị:
“ Trong khi chờ đợi ngơ, khoai và những thứ lương thực phụ khác, phải ba
bốn tháng mới có, tơi đề nghị mở một cuộc lạc qun. Mười ngày một lần,
tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại và
phát cho người nghèo”. Từ thực tế của gia đình và cuộc sống của người dân
mất nước, Người đồng cảm với nhân dân, thương dân, trọng dân. Để đùm
bọc lẫn nhau, đùm bọc trong cảnh đa số người dân không lấy gì làm sung
túc. Mỗi người chỉ cần dè sẻn một tý, nhiều người cùng dè sẻn là có thể cưu
mang, đùm bọc người khác. Vậy nên tinh thần tiết kiệm trở thành ý thức,
tâm lý của cả cộng đồng, tiết kiệm là thước đo của đạo đức. Trong điều kiện
của Đảng cầm quyền, việc giáo dục và thực hành tốt cần, kiệm, liêm, chính
thì mọi cơng việc sẽ được tiến hành khẩn trương, có kế hoạch, hiệu quả. Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã từng dạy: “Học cần, kiệm, liêm, chính là phận sự
của nhân viên Chính phủ… Đó cũng là phận sự của mọi người công dân Việt
Nam… Chữ cần, kiệm của Hồ Chủ tịch, dân ta phải học vì nước ta nghèo, lại
đương kháng chiến. Mỗi một người chúng ta phải đem mồ hôi đổi lấy bát
cơm, làm ra bát cơm đầy, song chỉ ăn bát cơm lưng”. Từ hoàn cảnh cụ thể
4


của đất nước,tư tưởng phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm của
Hồ Chí Minh khơng chỉ xuất phát từ truyền thống văn hóa dân tộc mà cịn
được xuất phát từ hồn cảnh cụ thể của đất nước và yêu cầu tuyên truyền,
giáo dục cách mạng trong từng giai đoạn nhất định. Người coi đây là biện
pháp quan trọng để tích lũy vốn, để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đặc
biệt là ở một nước nghèo và lạc hậu như nước ta. Sau cách mạng tháng tám
1945 thành công, nước ta phải đương đầu với muôn vàn khó khăn thách
thức. Đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kinh tế, xã hội hết sức nghèo
nàn và lạc hậu. Hầu hết các cơ sở sản xuất đều đình đốn, hàng vạn cơng

nhân khơng có việc làm. Hàng chục vạn hecta ruộng đồng bỏ hoang. Nạn
đói từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945 đã cướp đi 2 triệu người và vẫn
đang đe dọa sinh mạng hàng triệu người… Chính trong bối cảnh đó, ngày 39-1945, tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì phiên họp đầu tiên
của Chính phủ lâm thời, Người thay mặt Chính phủ nêu lên “ những nhiệm
vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” đó là: “giải quyết
nạn đói, nạn dốt; tổ chức tổng tuyển cử, giáo dục tinh thần của nhân dân
bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính; bỏ qua những thứ thuế vô nhân
đạo; cấm hút thuốc phiện…” . Đặc biệt là phong trào diệt giặc đói được phát
động trên cả nước. Trong thư gửi nhân dân toàn quốc về việc chống giặc đói,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị: “ Cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng
nhịn ăn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”. Cả nước
dấy lên nhiều phong trào: “ Hũ gạo tiết kiệm”, “ ngày đồng tâm”, “ tăng gia
sản xuất”, “ tấc đất, tấc vàng”… Như vậy, tư tưởng phát triển kinh tế đi đôi
với thực hành tiết kiệm khơng chỉ xuất phát từ truyền thống văn hóa dân tộc,
từ tấm lịng u nước thương dân mà nó cịn xuất phát từ hồn cảnh thực tế
của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định, chỉ có đẩy mạnh sản xuất,
thực hành tiết kiệm thì đất nước mới phát triển được, nhân dân mới có cuộc
sống ấm no, hạnh phúc. Đúng như Người đã từng nói: “ Trong 80 năm, nước
ta bị đế quốc Pháp rồi đến đế quốc Nhật vơ vét hết, vì vậy mà kinh tế của ta
5


nghèo nàn, lạc hậu. Nay chúng ta cần phải có một nền kinh tế khá, để kháng
chiến và kiến quốc. Muốn xây dựng kinh tế, thì phải có tiền của để làm vốn.
Muốn có vốn, thì các nước tư bản dùng 3 cách: vay mượn nước ngoài, ăn
cướp của các thuộc địa, bóc lột cơng nhân, nơng dân. Những cách đó chúng
ta đều khơng thể làm được. Chúng ta chỉ có cách là một mặt tăng gia sản
xuất, một mặt tiết kiệm để tích trữ thêm vốn cho cơng cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế của ta” . Xuất phát từ mục đích giáo dục đạo đức cho cán bộ,
đảng viên và toàn nhân dân. Trong sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản

Việt Nam lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề đạo đức,
cũng như vấn đề giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.
Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự
nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc
đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng
và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng,
mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” . Chính vì vậy, Người
hết sức chú trọng đến việc xây dựng nền tảng đạo đức cách mạng của Đảng,
của cán bộ, đảng viên. Người coi trọng cả đức và tài, nhưng đức là “gốc”, tài
phải lấy đức làm cơ sở. Nếu khơng có đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng
thể lãnh đạo được nhân dân. Đặc biệt trong điều kiện đất nước cịn nhiều khó
khăn, Người ln nhắc nhở cán bộ, đảng viên và nhân dân phải biết: Cần,
Kiệm, Liêm, Chính để xây dựng đất nước. Người cho đây là những phẩm giá
cơ bản, tốt đẹp nhất để làm người, làm cán bộ, đảng viên. Người nói: “ Trời
có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng .Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam,
Bắc .Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính Thiếu một mùa, thì khơng
thành trời .Thiếu một phương, thì khơng thành đất.Thiếu một đức, thì khơng
thành người” . Cần, Kiệm, Liêm, Chính được Người giải thích một cách cặn
kẽ:Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai, làm việc có năng suất, có
hiệu quả. Có Cần thì việc gì dù khó khăn mấy cũng làm được. Người viết: “
Người siêng năng thì mau tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no. Cả
6


làng siêng năng thì làng phồn thịnh. Cả nước siêng năng thì nước mạnh
giàu” .Để thực hiện chữ Cần có kết quả thì mọi việc làm đều phải có kế
hoạch cho mọi việc, phải tính tốn cẩn thận, phải có sự phân công cụ thể, rõ
rãng, phải kiên quyết đấu tranh chống lại lười biếng. Vì lười biếng là kẻ địch
của chữ Cần, là kẻ địch của dân tộc. Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết
kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của; tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, vì nhiều cái

nhỏ cộng lại thành cái to, khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi,
khơng phơ trương hình thức, khơng liên hoan lu bù lãng phí thời gian, công
sức, tiền của của dân, của nước, của bản thân. Tiết kiệm là để tích trữ vốn,
mở rộng sản xuất. Tiết kiệm khơng phải là bủn xỉn. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “
Khi khơng nên tiêu xài thì một đồng xu cũng khơng nên tiêu. Khi có việc
đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu cơng, tốn
bao nhiêu của, cũng vui lịng. Như thế mới đúng là Kiệm. Việc đáng tiêu mà
không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm”. Theo Người, Cần và Kiệm
phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. Liêm là ln coi trọng giữ
gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà
nước, của nhân dân. Phải trong sạch, không tham lam: “ không tham địa vị.
Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc
mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, khơng bao giờ hủ hóa. Chỉ có một
thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. Chữ Liêm phải đi đôi với chữ
Kiệm, cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần. Chính là khơng tà, nghĩa
là thẳng thắn, đứng đắn. Theo Hồ Chí Minh, trong xã hội có trăm cơng nghìn
việc, song những cơng việc ấy có thể chia thành hai thứ: việc Chính và việc
Tà. Làm việc Chính là người Thiện, làm việc Tà là người Ác. Siêng năng,
tằn tiện, trong sạch là Chính, là Thiện. Lười biếng, xa xỉ, tham lam là Tà, là
Ác. Người Chính là: Đối với mình, khơng tự kiêu tự đại, ln cầu tiến bộ,
ln kiểm điểm tự phê bình và hoan nghênh người khác phê bình. Đối với
người, khơng nịnh hót, khơng xem khinh người dưới, thái độ phải chân
thành, khiêm tốn, thật thà đoàn kết, phải học người và giúp người tiến bộ…
7


Đối với việc, phải để việc công lên việc tư. Đã phụ trách việc gì thì quyết
làm cho kỳ được, làm cho đến nơi, khơng sợ khó nhọc, nguy hiểm. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cần, Kiệm, Liêm, Chính là phẩm chất đạo đức cần
thiết đối với tất cả mọi người, càng cần thiết đối với cán bộ, đảng viên. Nó là

thước đo bản chất người của mỗi con người. Cần, Kiệm, Liêm, Chính có mối
quan hệ với nhau như một chỉnh thể tự nhiên, như trời có bốn mùa, đất có
bốn hướng. Việc rèn luyện và thực hiện phẩm chất này không chỉ là yêu cầu
về đạo đức, mà còn là yêu cầu ấm no, hạnh phúc của mỗi cá nhân, mỗi gia
đình và của chính sự nghiệp cách mạng. Sở dĩ, Người luôn giáo dục nhân
dân ta bốn đức tính trên là vì: con người Hồ Chí Minh, nhân sinh quan Hồ
Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn tinh hoa văn hóa dân tộc với tinh hoa
văn hóa nhân loại. Trong điều kiện cuộc kháng chiến cứu quốc cịn nhiều
gian khổ, khó khăn, Người cho rằng hai nhiệm vụ đó khơng được xem nhẹ
nhiệm vụ nào. Muốn đẩy mạnh tăng gia sản xuất theo Người, cả Chính phủ
và nhân dân cùng lo. Người nói: “Lâu nay chúng ta địi hỏi nhân dân đóng
góp. Từ đây, chúng ta phải ra sức hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân hơn nữa
trong việc sản xuất và tiết kiệm để cải thiện đời sống bộ đội và nhân dân, để
làm cho dân giàu, nước mạnh. Có như thế nhân dân mới càng thấy Chính
phủ hết lịng phục vụ nhân dân. Như thế nhân dân sẽ càng hăng hái đoàn kết
và kháng chiến” (Lời kêu gọi nhân dịp phát động phong trào sản xuất tiết
kiệm, tháng 3/1952).Nói chuyện với đại biểu nhân dân thành phố Hải Phịng
tháng 5/1957, Người nói: Nếu khơng có sản xuất thì khơng có tiêu dùng.
Nhưng nếu sản xuất ra chừng nào, tiêu dùng chừng đó thì khơng lại hồn
khơng. Vì vậy mỗi người chúng ta đều cố gắng tăng gia sản xuất, thực hành
tiết kiệm thì chúng ta mới cải thiện được đời sống chúng ta. Muốn ăn no,
mặc ấm, mọi người phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, đẩy
mạnh kinh tế nước nhà tiến lên.

8


CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẨY
MẠNH SẢN XUẤT ĐI ĐÔI VỚI TIẾT KIỆM CHỐNG THAM Ơ,
LÃNG PHÍ.

1.Những tư tưởng về đẩy mạnh sản xuất của Người.
Trong lịch sử của nhân loại, giai đoạn con người dựa vào những gì có
sẵn trong thiên nhiên ban tặng thơng qua hình thức hái lượm để mưu sinh quả
thực rất ngắn không thể vô hạn và cũng không thể đáp ứng được tất cả mọi
nhu cầu của con người với tư cách là một động vật cao cấp. Do đó, con người
thấy cần thiết phải đẩy mạnh tham gia sản xuất vừa thu nhập những gì thiên
nhiên ban tặng chế tác ra những sản phẩm đa dạng phục vụ nhu cầu hết sức
phong phú của con người, vừa qua đó làm giàu thêm nguồn lực của thiên
nhiên để duy trì sự tồn tại và phát triển của các thế hệ nối tiếp.
Vậy đẩy mạnh sản xuất là gì?
Đẩy mạnh tăng gia sản xuất là nền tảng của phát triển kinh tế tài chính,
là cơ sở của sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Đẩy mạnh sản xuất phải được
tiến hành trên tất cả các mặt trận kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. Phân tích,
đánh giá các vấn đề bức thiết nhất trong từng lĩnh vực, từ đó đề ra các phương
án, giải pháp để khắc phục, giải quyết các khó khăn. Đồng thời, dựa trên cơ
sở của việc phân tích đánh giá, cần phải chú trọng đầu tư đổi mới một cách
đồng bộ, nhằm đẩy mạnh sản xuất trong từng ngành.
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, cho đến khi cách mạng thành
công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được ra đời, dù trong bất cứ hoàn
cảnh nào, hầu hết ở mọi bài viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đều đặt vấn đề đẩy mạnh tăng gia sản xuất như là một nhu cầu nội tại của
quốc gia, của cách mạng. Và ở đâu, ta cũng gặp tư tưởng của Người bàn về
vấn đề tăng gia sản xuất.
Quan điểm của Bác đẩy mạnh sản xuất:

9


Trong lời kêu gọi nhân dịp phát động phong trào sản xuất và tiết kiệm
tháng 3/1952 Người đưa ra khẩu hiệu hành động là: “Bộ đội thi đua diệt giặc

lập công; Nhân dân thi đua sản xuất, tiết kiệm”.
Sản xuất ở hậu phương, diệt giặc ở tiền tuyến là hai nhiệm vụ trọng đại,
có mối quan hệ khăng khít với nhau và hết sức cấp bách để chuyển giai đoạn
kháng chiến chống thực dân Pháp từ cầm cự sang tổng phản công, giành độc
lập cho dân tộc. Không diệt được giặc thì hậu phương khơng n ổn để tăng
gia sản xuất, nhưng không đẩy mạnh được tăng gia sản xuất thì khơng có
“thực túc binh cường”.
Trong điều kiện cuộc kháng chiến cứu quốc cịn nhiều gian khổ, khó
khăn, Người cho rằng hai nhiệm vụ đó khơng được xem nhẹ nhiệm vụ nào.
Muốn đẩy mạnh tăng gia sản xuất theo Người, cả Chính phủ và nhân dân
cùng lo. Người nói: “Lâu nay chúng ta địi hỏi nhân dân đóng góp. Từ đây,
chúng ta phải ra sức hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân hơn nữa trong việc sản xuất
và tiết kiệm để cải thiện đời sống bộ đội và nhân dân, để làm cho dân giàu,
nước mạnh. Có như thế nhân dân mới càng thấy Chính phủ hết lịng phục vụ
nhân dân. Như thế nhân dân sẽ càng hăng hái đoàn kết và kháng chiến” (Lời
kêu gọi nhân dịp phát động phong trào sản xuất tiết kiệm, tháng 3/1952).
Với tư tưởng chỉ đạo đó, Người u cầu: “Tài chính mậu dịch, ngân
hàng làm việc thuận lợi thì mới thúc đẩy kế hoạch sản xuất và tiết kiệm” (Báo
cáo tại Hội nghị lần thứ ba BCHTW Đảng khoá II).Muốn cải thiện đời sống
nhân dân phải tăng gia sản xuất; sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ thì đời sống
mới được cải thiện. Sản xuất và đời sống như nước với thuyền, nước dâng cao
thì thuyền mới lên cao.
Tăng gia sản xuất là nền tảng của phát triển kinh tế tài chính, là cơ sở
của sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Tuy nhiên, nếu sản xuất được bao nhiêu,
tiêu dùng bấy nhiêu, khơng có tích luỹ để đầu tư phát triển thì chẳng khác gì
như gió vào nhà trống. Chính lẽ đó, ở tất cả các bài viết, bài nói chuyện của

10



Chủ tịch Hồ Chí Minh về lĩnh vực kinh tế tài chính, Người ln gắn liền vấn
đề gia tăng sản xuất và thực hành tiết kiệm.
2.Về tiết kiệm
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiết kiệm thể hiện trong rất nhiều bài viết,
bài nói chuyện của Bác với các tầng lớp dân cư, điển hình là trong bài nói
chuyện năm 1952 nhân dịp có phong trào thi đua sản xuất và tiết kiệm với
nhan đề: “Thực hành tiết kiệm, chống tham ơ, lãng phí, chống bệnh quan
liêu” (Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội -2000, T6, tr. 484 – 494).
Về tiết kiệm, Bác đã nêu và giải quyết bốn vấn đề mang tính lý luận:
-Tiết kiệm là gì?
- Vì sao phải tiết kiệm?
-Tiết kiệm những gì?
-Ai cần phải tiết kiệm
Trong đời sống thực tiễn Bác đã nêu tấm gương mẫu mực về thực hành
tiết kiệm, đó là:
-Tiết kiệm trong đời sống cá nhân
- Tiết kiệm tiền của, thời gian của cán bộ, nhân dân;
- Luôn luôn nhắc nhở, tuyên truyền, giáo dục ý thức tiết kiệm cho mọi
tầng lớp nhân dân.
1.Tiết kiệm là gì?

11


- Theo Hồ Chí Minh tiết kiệm là “khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng
bừa bãi”- Tiết kiệm khơng phải là bủn xỉn, mà những việc ích lợi cho đồng
bào, cho Tổ quốc, thì bao nhiêu cơng, tốn bao nhiêu của cũng vui lịng.
- Tiết kiệm là tích cực. “Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và
nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại tiết kiệm cốt để giúp vào tăng gia sản
xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán

bộ và nhân dân. Nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực, chứ khơng
phải là tiêu cực”.

2. Vì sao phái tiết kiệm?
- Để phục vụ cho kháng chiến và kiến quốc
- Để tăng thêm tiền vốn xây dựng đất nước. Điều này càng quan trọng
khi nước ta là nước dân chủ nhân dân, không thể tích lũy vốn theo kiểu thực
dân, đế quốc bằng cách cướp bóc thuộc địa, bóc lột cơng nhân, nơng dân, vay
nợ nước ngồi…
- Để nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu,
hậu quả của 80 năm đô hộ, vơ vét của đế quốc Pháp rồi đến phátxít Nhật.
3. Nội dung của tiết kiệm
- Tiết kiệm sức lao động. Tức là phải tổ chức sắp xếp cho khéo, phải
nâng cao năng suất lao động, “1 người làm bằng 2,3 người”.- Tiết kiệm thời
giờ. Bác nói “Thời giờ tức là tiền bạc” “Một tấc bóng là một thước vàng”. “Ai
đưa vàng bạc vứt đi là người điên rồ. thì ai đưa thời giờ vứt đi là người ngu
dại”. Tiết kiệm thời giờ của mình và tiết kiệm thời giờ của người khác.

12


- Tiết kiệm tiền của. Phải tiết kiệm tiền của của Nhà nước, của nhân dân
và của chính mình. Việc này liên quan đến tiết kiệm sức người, tiết kiệm thì
giờ.
4. Ai cần phải tiết kiệm.
-Tất cả mọi người đều phải tiết kiệm. Trước hết là các cơ quan, bộ đội,
các xí nghiệp
-Nội dung tiết kiệm phải cụ thể, thiết thực ngay trong vị trí cơng tác của
mình. Bộ đội, chiến sỹ phải tiết kiệm đạn, quân nhu, chiến lợi phẩm…; cán bộ
cơ quan hành chính thì tiết kiệm thời gian, giấy mực…; cán bộ tư pháp tiết

kiệm thời giờ cho dân khi triển khai nhanh công việc…
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế đi đơi với thực hành
tiết kiệm xuất phát từ truyền thống văn hóa của đất nước. Theo quan điểm của
Bác: “hàng ngày ta phải ăn cơm, uống nước, phải thở khí trời để mà sống.
Những việc đó, ngày xưa cha ơng ta phải làm, bây giờ chúng ta phải làm, con
cháu sau này cũng phải làm. Vậy ăn cơm, uống nước và thở khí trời để đem
lại cuộc sống cho con người thì đó là những việc khơng khi nào trở thành cũ
cả. Cần, Kiệm, Liêm, Chính đối với đời sống mới cũng vậy”.
Xuất phát từ thực tế hoàn cảnh của đất nước, ngay sau khi giành được
chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị với chính phủ
phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất để nhanh chóng dập tắt nạn đói.
Nhân dịp có phong trào sản xuất và tiết kiệm của Chính Phủ năm 1952,
Người nói “phải thi đua giết giặc, thi đua gia tăng, thi đua tiết kiệm”. Như vậy
chúng ta thấy rằng, tư tưởng phát triển kinh tế đi đôi với thực hành tiết kiệm
của Hồ Chí Minh khơng chỉ xuất phát từ truyền thống văn hóa dân tộc mà cịn
xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước và yêu cầu tuyên truyền, giáo dục
cách mạng trong từng giai đoạn nhất định. Hồ Chí Minh coi đây là biện pháp
13


quan trọng để tích lũy vốn, để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là
một nước đang phát triển như nước ta. Chỉ có đẩy mạnh sản xuất, thực hành
tiết kiệm thì đất nước mới phát triển được, nhân dân mới có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc.Khi nói về tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế đi đơi
với thực hành tiết kiệm có những nội dung chính sau:
Thứ nhất là: phát triển sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm là trách
nhiệm, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi công dân đối với tổ quốc.
Đẩy mạnh sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm là nét nổi bật trong tư
duy kinh tế của Hồ Chí Minh. Người cho rằng, giữa sản xuất và tiết kiệm luôn
gắn liền với nhau như một phương châm thực hành lao động cho nền kinh tế

vốn nghèo nàn, lạc hậu như nước ta. Đẩy mạnh tăng gia sản xuất và thực hành
tiết kiệm là trách nhiệm, là một nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi công dân đối
với tổ quốc. Vì vậy, tồn dân phải hiểu rằng tăng gia sản xuất và thực hành
tiết kiệm tức là yêu nước, là ích nước, là lợi nhà. Cho nên, mỗi người dân phải
có ý thức tự nguyện, tự giác, phải có lịng say mê nhiệt tình tham gia lao
động, góp phần xây dựng nền kinh tế nước nhà.
Thứ hai là: tiết kiệm phải toàn diện, tiết kiệm ở mọi ngành.
Được thể hiện ở những mặt sau đây:
- Tiết kiệm sức lao động: Đây là nội dung quan trọng nhất trong tư
tưởng tiết kiệm của người. Tiết kiệm sức lao động là phải biết tổ chức, sắp
xếp nhân lực cho hợp lý, cân đối giảm bớt lao động dư thừa để nâng cao năng
suất lao động của mỗi người.
- Tiết kiệm thời giờ: Theo Người, tiết kiệm thời giờ là cần có kế hoạch
cụ thể, chi tiết, tính tốn khoa học để giảm bớt thời gian cho mỗi sản phẩm,
khắc phục thời gian nhàn rỗi, đẩy mạnh tăng năng suất lao động. Người chỉ

14


rõ: “trong mọi cơng việc, phải tính tốn cân nhắc cẩn thận. Thời giờ là vàng
bạc. Phải kiên quyết chống thói hội họp lu bù, mất thời giờ, hại sức khỏe mà
không kết quả thiết thực”.
Tiết kiệm tiền của: Người u cầu tiết kiệm tiền của, nghĩa là khơng
phung phí nguyên liệu, vật liệu và tiền của trong quá trình sản xuất và tiêu
dùng. Người thường xuyên nhắc nhở “chúng ta phải tiết kiệm tiền của. Việc gì
trước phải dùng nhiều người, nhiều thời giờ, phải tốn hai vạn đồng. Nay vì
tiết kiệm được sức người và thời gian , nguyên liệu, cho nên chỉ tốn một vạn
là đủ. Nói tóm lại: chúng ta phải tìm cách tổ chức sắp đặt cho hợp lý, để một
người có thể làm việc như hai người, một ngày có thể làm việc của hai ngày,
một đồng có thể dùng bằng hai đồng”.Nội dung kinh tế được Hồ Chí Minh đề

cập trên các mặt: Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh
tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành
cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề
cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh
thổ.Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp,
lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm
cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thỏa mãn nhu cầu thiết yếu
của nhân dân.
Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ, Hồ Chí Minh lưu ý phải phát triển đồng
đều giữa kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn. Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo
phát triển kinh tế vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện
và nâng cao đời sống của đồng bào, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất
nước.
Ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế.

15


Nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho
chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là
hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc biệt
khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có
lợi, chống chủ quan, gị ép, hình thức. Đối với người làm nghề thủ công và lao
động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức
hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi vào con đường
hợp tác. Đối với những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham gia ủng hộ
cách mạng dân tộc dân chủ, có đóng góp nhất định trong khơi phục kinh tế và

sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa
xã hội, nên Nhà nước khơng xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của
cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh,
phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ
nghĩa xã hội bằng hình thức tư bản nhà nước.
Tóm lại, ra sức tăng gia sản xuất, triệt để thực hành tiết kiệm, kiên
quyết qt sạch nạn tham ơ, lãng phí, bệnh quan liêu là ba mắt xích quan
trọng trong tư duy phát triển kinh tế - xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ba
mắt xích này có mối quan hệ với nhau. Muốn phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước khơng thể coi nhẹ một mắt xích nào.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực thực hành tiết kiệm
trong đời sống cá nhân.
-Ra đi tìm đường cứu nước chỉ với hai bàn tay lao động, anh Ba,
Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh đã tranh thủ thời gian để đi được nhiều nơi,
học tập đựơc nhiều điều, tìm con đường cứu nước. Người đã làm nhiều nghề
để kiếm sống và hoạt động cách mạng. Tiền tiết kiệm được Người dùng cho
hoạt động của tổ chức, đoàn thể.

16


- Khi trở thành người đứng đầu Đảng và Nhà nước, dù trong chiến
tranh ở chiến khu hay trong hoà bình tại thủ đơ Hà Nội, Người vẫn sống giản
dị, tiết kiệm như một lẽ tự nhiên trong sinh hoạt hàng ngày.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln tiết kiệm tiền của, thời gian của cán
bộ, nhân dân
- Cả cụôc đời Bác sống giản dị, tiết kiệm tiền của của Nhà nước, của
nhân dân. Đã có biết bao câu chuyện cảm động về tấm gương mẫu mực đó, từ
những việc nhỏ như sử dụng chiếc phong bì vài lần, đi đôi dép lốp đã cũ, mặc
chiếc áo đã sờn cổ…, đến chiếc ôtô, ngôi nhà sàn

- Để tiết kiện thời gian của cán bộ nhân dân, Người chủ động đến dự
lớp học, thăm cán bộ, nhân dân, chiến sỹ. Những câu chuyện cảm động như
Bác đội mưa đến dự Hội nghị đúng giờ để nhiều người không phải chờ đợi;
Bác chủ động đến chúcTết cán bộ Hà Nội khi đoàn đang chuẩn bị đến chúc
Tết Bác nhưng chưa đi được vì gặp cơn mưa bất chợt..
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, Đảng viên, nhân
dân thực hành tiết kiệm
- Bác viết nhiều tài liệu để giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân thực
hành tiết kiệm. Người kêu gọi trong mọi hành động. mọi lĩnh vực và mỗi
người đều phải tiết kiệm.
- Người đặc biệt yêu cầu phải triệt để tiết kiệm của công, của dân, của
nước vì đó là mồ hơi của dân, xương máu của bộ đội, chiến sĩ…
- Người yêu cầu phải tiết kiệm thời gian, giảm họp hành, tổ chức họp
phải đúng giờ. Những câu chuyện kể về lời nhắc nhở của Bác đối với một vị
tướng chủ trì hội nghị đến chậm 5 phút, phải “nhân 5 phút đến chậm đó đối
với 500 người chờ đợi”.
Tiết kiệm để xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân
- Hồ Chí Minh kêu gọi mọi người tiết kiệm để xây dựng đất nước, xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Người nói tiết kiệm là yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội

17


- Về phần mình, Người tiết kiệm để giành cho nhân dân. Người gương
mẫu mỗi tuần nhịn ăn 1 bữa để giành gạo cho dân đang đói; dùng tiền tiết
kiệm được của riêng mình để giành tặng bộ đội. Thời kỳ chống chiến tranh
phá hoại của Mỹ, Bác yêu cầu thư ký rút tiền tiết kiệm của Bác (trị giá khoảng
60 cây vàng) để mua nước ngọt gửi cho bộ đội trực chiến trên các chiến
trường miền Bắc
- Hồ Chí Minh khơng muốn vì mình mà nhân dân lãng phí tiền bạc,

thời gian. Trước lúc vĩnh biệt chúng ta, người dặn: “Sau khi tôi qua đời chớ
nên tổ chức phúng biếu linh đình, để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của
nhân dân”
- Tấm gương đạo đức sống trong sạch, tiết kiệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã được báo chí nước ngồi nhiều lần nhắc đến. Nhà báo Mỹ Đavít
Hanbơcstơn viết: Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại
này – hơi giống Găngdi, hơi giống Lênin, hồn tồn giống Việt Nam…Ơng là
người Việt Nam lịch sự, khiêm tốn, nói năng hồ nhã, không màng địa vị,
luôn luôn mặc quần áo giản dị nhất, một phong cách mà phương tây coi là
“thiếu nghi thức quyền lực”, “không theo thời trang”…cho đến ngày nay họ
nhận thấy chính cái tính giản dị ấy, cái khả năng hồ mình vào nhân dân ấy là
cơ sở cho sự thành cơng của ơng…”
2.Tư tưởng của Hồ Chí Minh về chống tham ơ, lãng phí
Hồ Chí Minh đề xuất phong trào “3 xây, 3 chống”, viết nhiều sách về
chống tham ơ, lãng phí, quan liêu, trong đó Người nêu rõ khái niệm và các
biểu hiện của chú
*Tham ô
-Tham ô theo cách của Hồ Chí Minh, “là trộm cướp, là hành động xấu
xa nhất, tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội”.

18


+ Đối với cán bộ, tham ô là “Ăn cắp của công làm của tư, đục khoét
của nhân dân, ăn bớt của bộ đội.Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của
Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình…”+
+ Đối với nhân dân, tham ô là ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế +
-Nguyên nhân chủ quan của người tham ô là
+ Thiếu lương tâm. “Cán bộ cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền
to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền hay thiếu lương tâm là có

dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ cơng vi tư””.
+ Kém lịng trách nhiệm. Đứng núi này trơng núi nọ, làm việc chậm
chạp, khơng hồn thành nhiệm vụ là ăn cắp thời giờ của Chính phủ, của nhân
dân”.
*Lãng phí:Theo Hồ Chủ tịch, lãng phí có nội dung sau:
- Lãng phí sức lao động: việc gì ít người làm cũng được mà vẫn dùng
nhiều người. Do tính tốn không cẩn thận điều động hàng trăm người đến đến
công trường nhưng chưa có việc làm hay nhiều người làm việc ít. Bố trí nhân
sự khơng đúng, “người quản lý quá nhiều, người trực tiếp sản xuất quá ít”…Lãng phí thì giờ: việc gì có thể làm trong một ngày, một buổi cũng kéo dài
đến mấy ngày.
- Lãng phí tiền của của Nhà nước, cơ quan và bản thân mình. Cụ thể
là:
+ “Ăn tiêu xa xỉ, liên hoan, sắm sửa lu bù, xài tiền như nước”, sử dụng
vật liệu một cách phí phạm.
Trong hoạt động của mình làm cản trở cho sản xuất. Ví dụ như Ngân
hàng khơng khéo sử dụng tiền bạc để tiền bạc ứ đọng lại, không bổ ích cho
việc tăng gia sản xuất; cơ quan kinh tế làm kế hoạch khơng thiết thực, khơng
sát với hồn cảnh, để Chính phủ phải lỗ vốn. “Làm một cái nhà không hợp
thức, làm xong rồi phải phá đi làm lại”.

19


+ Lãng phí là tiêu xài khơng hợp lý. Bộ đội khơng biết q trọng, giữ
gìn qn trang, qn dụng. Nhân dân bỏ hoang ruộng đất, đốt vàng mã, trâu,
cầm ruộng để đám cưới, đám ma.
- Lãng phí là mắc phải bệnh “Phơ trương hình thức” gây tốn kém
khơng cần thiết.
-Lãng phí có khi cịn hại nhiều hơn tham ơ vì “lãng phí tuy khơng lấy
của cơng đút túi, song kết quả cũng lại rất tai hại cho cho nhân dân, cho Chính

phủ. Có khi cịn tai hại hơn tham ô”.
* Bệnh quan liêu:Quan liêu theo chủ tịch Hồ Chí Minh là “xa rời thực
tế, xa rời quần chúng nhân dân, xa rời mục tiêu lý tưởng của Đảng”.
Bệnh quan liêu là nguy cơ của Đảng cầm quyền, là nguyên nhân của
nhiều căn bệnh khác nhau.
Đối với cán bộ, đảng viên, công chức, bệnh quan liêu thể hiện qua 3
mối quan hệ sau:
- Đối với người: “chỉ biết dùng mệnh lệnh, khơng biết giải thích, tun
truyền, khơng sát cơng việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không
gần gũi quần chúng”. Không biết làm cho dân chúng tự giác và tự động.
- Đối với công việc: Chỉ chú trọng hình thức mà khơng xem xét khắp
mọi mặt, không đi sâu vào vấn đề. “Chỉ biết khi hội, viết chỉ thị, xem báo cáo
trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn”
- Đối với mình:
+ Là chậm chạp, làm cho qua chuyện. Chỉ biết lo cho mình, khơng
quan tâm đến nhân dân, đến đồng chí.
+ Nói một đường, làm một nẻo. Tham ơ, hủ hóa
+ Trước mặt dân chúng thì lên mặt “quan cách mạng”. Miệng thì nói
dân chủ, nhưng làm việc thì theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự
quần chúng” cịn thực tế chỉ thì “chỉ biết ăn sang, mặc diện; chẳng những
khơng lo phụng sự nhân dân, mà còn muốn nhân dân phụng sự mình”.
+ Làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với lợi ích qun
chúng, trái với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ.
Hậu quả của bệnh quan liêu: Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “bệnh
quan liêu, mệnh lệnh chỉ đưa đến một kết quả là hỏng việc”, “thành thử có
mắt mà khơng thơng suốt, có tai mà khơng nghe thấu, có chế độ mà không giữ

20



đúng, có kỷ luật mà khơng nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán
bộ kém tha hồ lãng phí”.
- Nguyên nhân của bệnh quan liêu: do “xa dân; khinh nhân dân; sợ
nhân dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không yêu
thương nhân dân”.
*Tác hại của tham ơ, lãng phí, quan liêu
a)Tham ơ, lãng phí, quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của
Chính phủ.
-Theo Hồ Chí Minh, đây là “kẻ thù khá nguy hiểm”, vì nó khơng mang
gươm mang súng, mà nó nằm trong các các tổ chức của ta, để làm hỏng cơng
việc của ta
b)Tham ơ, lãng phí, quan liêu làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước
nhà; hại đến công việc cải thiện đời sống nhân dân; hại đến đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng viên.
c) Muốn trừ sạch nạn tham ơ, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh
quan liêu.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bệnh quan liêu ấp ủ, dung túng, che chở
cho nạn tham ơ, lãng phí ni dưỡng cho tham ơ, lãng phí nảy nở. Vì vậy,
muốn trừ sạch nạn tham ơ, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan
liêu.
*Những biện pháp chống tham ơ, lãng phí Hồ Chí Minh yêu cầu trước
hết phải tạo nhận thức chung và quyết tâm chống tham ơ, lãng phí, quan liêu;
coi chống tham ô, lãng phí, quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc
đánh giặc trên mặt trận
- Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị. Cũng như ở các mặt trận khác,
muốn thắng ở mặt trận này, phải có chuẩn bị, kế hoạch, tổ chức, phải có lãnh
đạo và trung kiên.
- Đây là cuộc cách mạng nội bộ, một cuộc đấu tranh gay go giữa cái tốt
và cái xấu, cái cũ và cái mới, giữa đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư và kẻ địch là tệ tham ơ, lãng phí, quan liêu.


21


- Phải kết hợp giữa xây và chống. Có thể ví xây và chống như hai bánh
xe vững chắc. Chống triệt để bảo đảm cho công việc xây thành công. Xây
phát triển mạnh mẽ thì đối tượng chống sẽ được xố bỏ tận gốc.
- Phải đồng tâm nhất trí, mạnh bạo xung phong, huy động được sự
tham gia của nhân dân.
+ Nhân dân và báo trí rất quan trọng. Báo chí phải nêu những việc kiểu
mẫu, đăng những lời phê bình của quần chúng; làm cho mọi người thấy rõ
tham ô, lãng phí, quan liêu là tội ác. Và những ai, những cơ quan nào được
nhân dân và báo chí phê bình, thì thật thà tự phê bình trước nhân dân trên báo
chí.
+ Các ban Thanh tra phải chú ý kiểm tra chống lãng phí, tham ơ, chống
bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Làm nghiêm chỉnh, kịp thời trong công tác xét các
vụ khiếu nại, tố giác.
- Phải làm thường xuyên nhiệm vụ chống tham ơ, lãng phí, quan liêu.
- Phải công khai, dân chủ, minh bạch. Trong kiểm thảo thực hiện
nguyên tắc:
+ Cán bộ, đảng viên ở vị trí càng cao thì càng phải giữ đúng kỉ luật của
Đảng, càng phải làm gương dân chủ, mạnh dạn, thật thà tự kiểm thảo.
+ Thật thà báo cáo tình hình của đơn vị mình cho mọi người trong tồn
đơn vị, tồn ngành biết rõ.Phải kiên quyết “nhổ cỏ”. Nắm vững trọng điểm,
làm từng bước, từ cấp trên đến cấp dưới, từ bộ phận chính đến bộ phận phụ.
+ Trong phong trào chống tham ơ, lãng phí, quan liêu, giáo dục là
chính, trừng phạt là phụ.
+ Có khen thưởng, có kỷ luật - thưởng phạt nghiêm minh (cả người
ngăn cản, đe doạ những người kiểm thảo mình; người thấy tội khơng nêu ra
cũng có tội).

+ Coi trọng tự phê bình và phê bình, chống thói “cả vú lấp miệng em”,
ngăn cản quần chúng phê bình.
+ Nhận thức đúng chi bộ là một tổ chức lãnh đạo chính trị, chứ khơng
phải là một tổ chức hành chính.
* Ý nghĩa của chống tham ơ, lãng phí, quan liêu
a) Chống tham ơ, lãng phí, quan liêu là cách mạng

22


-Tham ơ, lãng phí, quan liêu là nọc độc xấu xa của chế độ cũ. Muốn
xây dựng một xã hội mới phải tẩy cho sạch hết những thói xấu của xã hội cũ.
- Chống tham ơ, lãng phí, quan liêu để xây dựng đội ngũ, giúp đỡ cán
bộ, chiến sĩ ta tiến bộ.
Hồ Chí Minh phân tích, có những người trong lúc đấu tranh thì trung
thành, hăng hái, khơng sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch,
nghĩa là có cơng với cách mạng. Song đến khi có nhiều quyền hạn trong tay
thì đâm kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ơ, lãng phí, quan liêu, khơng tự giác,
mà biến thành người có tội với cách mạng. “Chúng ta phải cứu vãn họ, giúp
họ khôi phục đạo đức cách mạng”, “giáo dục họ, đưa họ vào con đường cách
mạng”.
- Theo Bác chúng ta làm cách mạng để tiêu diệt chế độ thực dân, phong
kiến, xây dựng dân chủ mới. Đó là một xã hội tự do, bình đẳng, một xã hội
cần kiệm liêm chính. Cho nên phải tẩy sạch cho hết những thói xấu của xã hội
cũ, phải chống tham ơ, lãng phí, quan liêu.
b) Chống tham ơ, lãng phí, quan liêu là dân chủ
- Tất cả mọi người, từ bộ đội đến đồng bào ủng hộ Chính phủ, Đồn thể
để kháng chiến kiến quốc là một hình thức dân chủ tập trung. Khơng ai có thể
lợi dụng quyền lực, vị trí cơng tác để tham ơ, lãng phí của cơng, quan liêu,
hách dịch với người khác.

- Cán bộ được giao quyền điều khiển bộ đội, chăm nom chiến sĩ và
đồng bào có quyền địi hỏi cán bộ phải làm trịn nhiệm vụ, có quyền chỉ trích
những những cán bộ nào khơng làm trịn nhiệm vụ đó. Vì vậy chống tham ơ,
lãng phí, quan liêu là để xây dựng tổ chức, đoàn thể vững mạnh.

23


- Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần
chúng. “Cho nên phong trào chống tham ơ, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào
lực lượng quần chúng thì mới thành cơng”.
- Phải thực hành dân chủ để động viên được quần chúng tham gia và
nhiệm vụ của quần chúng là phải hăng hái tham gia phong trào chống tham ơ,
lãng phí, quan liêu. “Tham ô, lãng phí, quan liêu là “một thứ giặc trong lòng”.
Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc
nội xâm, như thế là chưa làm trịn nhiệm vụ của mình”. Quần chúng tham gia
càng đơng, thành cơng càng đầy đủ, mau chóng.
c) Chống tham ơ, lãng phí quan liêu sẽ giúp chúng ta hoàn thành đầy
đủ kế hoạch
- Thắng lợi trong cuộc chiến chống tham ơ, lãng phí, quan liêu sẽ giúp
chúng ta đoàn kết hơn nữa, nâng cao năng suất hơn nữa.
- Giúp cho mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần làm
chủ, ý thức bảo vệ của công, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm để hăng hái thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để xây dựng
nước nhà, để nâng cao đời sống nhân dân
- Giúp cán bộ cải tạo tư tưởng, nâng cao giác ngộ, thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật thà phụng sự bộ đội và nhân dân
- Giúp chính quyền ta thành một chính quyền trong sạch, vững mạnh
xứng đáng với lòng tin tưởng và sự hy sinh của chiến sĩ và đồng bào.


24


CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT ĐI
ĐƠI VỚI THỰC HÀNH TIẾT KIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG
ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HIỆN NAY.
Trong điều kiện hiện nay, lãng phí thực sự là lực cản hữu hình trong
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và cơng cuộc cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước. Chỉ khi nào giảm và dần dần triệt tiêu được lãng
phí thì lúc đó nền kinh tế nước ta mới có đủ sức bật để phát triển nhanh và
bền vững. Trước tình hình đó, việc học tập và qn triệt những quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm là một vấn
đề vừa có ý nghĩa chiến lược vừa có ý nghĩa thời sự cấp bách nhằm phát triển
kinh tế một cách có hiệu quả.
Đẩy mạnh sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm là nét nổi bật trong tư
duy kinh tế của Hồ Chí Minh. Khi nói về mối quan hệ này, Người cho rằng
cần phải đặt vấn đề đẩy mạnh tăng gia sản xuất với thực hành tiết kiệm trong
mối quan hệ biện chứng với nhau. Người thường xuyên nhắc nhở: “ Chúng ta
chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách tăng gia sản xuất và thực
hành tiết kiệm. Sản xuất mà khơng tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”.
“Tăng gia sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm. Phải tiết kiệm sức lao động, phải
tiết kiệm thì giờ, phải tiết kiệm tiền của để tăng gia. Tiết kiệm giúp cho tăng
gia và tăng gia giúp cho tiết kiệm, để đi đến kết quả tốt”. Có lúc, Người đã
dùng hình ảnh để nói lên mối quan hệ giữa sản xuất, tiết kiệm với đời sống
như nước với thuyền, Người nói: “sản xuất và tiết kiệm cũng như dòng nước,
cải thiện đời sống cũng như chiếc thuyền, nước càng sâu thì thuyền càng cao.
Muốn cải thiện khơng ngừng thì phải khơng ngừng tăng gia sản xuất và thực
hành tiết kiệm”
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cho rằng “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn,
không phải là “xem đồng tiền to bằng cái nống”, gặp việc đáng làm cũng

không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán
25


×