Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện việt nam ấn độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 121 trang )

1
M



1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong suốt chiều dài lịch sử, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ được xem
là mối quan hệ lịch sử, truyền thống, thủy chung và trong sáng. Mối quan hệ
hữu nghị này trong thời hiện đại tiếp tục được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ
tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru đặt nền móng, được nhiều thế hệ và nhân dân
hai nước vun đắp vững chắc theo thời gian. Quan hệ hai nước được cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đánh giá “Trong sáng không một gợn mây” và được
nâng cấp lên tầm quan hệ Đối tác Chiến lược năm 2007 trên cơ sở sự tương
đồng về lợi ích chiến lược thực sự giữa hai nước. Mối quan hệ này tiếp tục
được nâng cấp thành “Đối tác Chiến lược Toàn diện” (tháng 9/2016), phản
ánh sự phát triển sâu rộng, tin cậy và hiệu quả của quan hệ Việt Nam - Ấn Độ
hịa mình vào dịng chảy chung của lịch sử khu vực, đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, góp phần vào hịa bình, ổn định, hợp tác, phát triển và phồn vinh
của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.
1.2. Kể từ khi nâng cấp quan hệ Việt Nam - Ấn Độ thành “Đối tác
Chiến lược Toàn diện”, mặc dù chịu tác động của bối cảnh quốc tế và khu vực
cũng như tình hình của hai nước, song hai bên tiếp tục mở rộng và triển khai
tất cả các lĩnh vực hợp tác từ chính trị - ngoại giao, kinh tế, thương mại, đầu
tư đến quốc phòng - an ninh, khoa học cơng nghệ, giáo dục, văn hóa, du lịch...
trên cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Với sự tin cậy và chia sẻ nhiều lợi ích chung,
hai nước cũng triển khai và thực hiện có hiệu quả các cơ chế hợp tác song
phương, đa phương trên các diễn đàn khu vực, quốc tế. Đặc biệt, Việt Nam
được coi là trụ cột quan trọng trong Chính sách hành động hướng Đơng của
Ấn Độ, là đối tác chủ chốt của tầm nhìn Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương,
đồng thời là một mắt xích vơ cùng quan trọng trong q trình kết nối giữa Ấn
Độ với ASEAN. Đây chính là động lực giúp mối quan hệ hai nước tiếp tục


vững mạnh, nâng cao uy tín và vị thế trong khu vực và trên trường quốc tế.


2
1.3. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được, quan hệ Đối tác
chiến lược Việt Nam - Ấn Độ từ năm 2016 đến năm 2020 vẫn còn một số hạn
chế nhất định, ít nhiều ảnh hưởng tới sự phát triển của mỗi quốc gia. Do đó,
trong thời gian tới, hai nước tiếp tục phát huy những thành tựu, khắc phục
những hạn chế để mở ra nhiều vận hội mới, tạo chất men gắn kết hai dân tộc,
hướng tới sự phát triển bền vững. Lòng tin chiến lược được vun đắp từ truyền
thống của mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ hứa hẹn sẽ tạo nên những bước đột
phát mạnh mẽ, sâu rộng, thực chất và hiệu quả hơn trong thời gian tới.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Quan hệ Đối tác
Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Ấn Độ” để nghiên cứu viết luận văn thạc
sĩ ngành Chính trị học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đã được nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngồi nước quan tâm. Sau đây chúng tơi xin điểm qua
một số cơng trình.
- Sách “Lịch sử Ấn Độ”, Vũ Dương Ninh (chủ biên, 1995), Nxb Giáo
dục, Hà Nội. Nội dung chủ yếu của cơng trình này là nghiên cứu về lịch sử
Ấn Độ nên quan hệ Việt - Ấn chỉ được trình bày khái quát từ khi hai nước có
quan hệ đến những năm 90 của thế kỷ XX.
- Sách “Ấn Độ xưa và nay”, Cao Xuân Phổ, Trần Thị Lý, (chủ biên,
1997), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nội dung chính là giới thiệu một cách
khái quát về đất nước, con người, lịch sử Ấn Độ xưa và nay, tác giả cũng giới
thiệu khái quát về quan hệ Ấn - Việt thời kỳ lịch sử cổ - trung đại cho đến đầu
những năm 90 của thế kỷ XX.
- Sách “Việt Nam - Ấn Độ 45 năm Quan hệ ngoại giao và 10 năm đối
tác chiến lược”, Lê Văn Toan (chủ biên, 2017), Nhà xuất bản Chính trị quốc

gia Sự thật, Hà Nội, đã hệ thống những thành tựu và hạn chế của quan hệ Việt
Nam - Ấn Độ trên mọi lĩnh vực trong đó có lĩnh vực chính trị, ngoại giao
đồng thời cũng trình bày khái quát về những xu hướng phát triển trong thời
gian tới.


3
- Sách “Ấn Độ với Đông Nam Á trong bối cảnh quốc tế mới”, Trần
Nam Tiến (chủ biên, 2016), Nxb Văn hóa - Nghệ thuật thành phố Hồ Chí
Minh. Cơng trình hệ thống mối quan hệ Việt - Ấn trên mọi lĩnh vực cũng như
nói lên tham vọng của Ấn Độ đối với khu vực Đông Nam Á và vai trị của
Việt Nam trong chính sách hướng Đơng của Ấn Độ.
- Các bài viết trên tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á mà chúng tôi
tiếp cận như: Võ Minh Hùng (2017), Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ: triển vọng
phát triển trong thời gian tới, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 3 (52),
tr.27-33; Vũ Trọng Hùng, Quách Thị Huệ (2019), “Kinh tế nông nghiệp Ấn
Độ - kinh nghiệm cho Việt Nam và triển vọng hợp tác giữa hai nước”, Tạp chí
nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 5 (78), tr.15-21; Đồng Thị Thùy Linh (2020),
“Một số nhân tố tác động đến xuất khẩu hàng hóa của Ấn Độ sang Việt
Nam”, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 10 (95), tr.11-19; Trần Hoàng
Long, Nguyễn Đắc Tùng (2019), “Hợp tác hải quân Việt Nam - Ấn Độ”, Tạp
chí nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 5 (78), tr.1-8; Huỳnh Thanh Loan (2017),
“Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ tiếp xúc văn hóa cổ đại đến kết nối nhân dân
ngày nay”, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 2 (51), tr.1-10; Lê Thị
Hằng Nga, Triệu Hồng Quang, Huỳnh Thị Lệ My (2019), “Tổng thống Ấn Độ
Ram Nath Kovind thăm chính thức Việt Nam: ý nghĩa biểu tượng và kết quả
thực tế”, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 2 (75), tr.1-8; Lưu Văn
Quyết, Huỳnh Tâm Sáng (2020), “Nhân tố văn hóa trong quan hệ Việt Nam Ấn Độ: từ góc nhìn lịch sử và thời đại”, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và châu Á,
số 6 (91), tr.20-26; Trần Quang Thắng, Nguyễn Thu Trang (2018), “Một số
rào cản trong quan hệ thương mại đối với hàng Việt Nam xuất khẩu sang Ấn

Độ”, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 6 (67), tr.29-36; Nguyễn Thu
Trang (2018), “Quan hệ thương mại nông sản Việt Nam - Ấn Độ: thực trạng
và giải pháp”, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 1 (62), tr.31-40;
Nguyễn Xuân Trung (2017), “Quan hệ thương mại Việt Nam - Ấn Độ: một số
đặc điểm và những rào cản”, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 10 (59),
tr.60-66.


4
- Các bài viết tiếng Anh như: Sonu Trivedi, Shivangi Dikshit (2019),
“Strengthening Ties: Tourism in India and Vietnam”, Vietnam Journal for
Indian and Asian Studies, Vol 1, No.1, pp.17-23; Nguyen Xuan Trung (2020),
“Indian Enterprises‟ Investment in Vietnam and the role of Indian Diaspora”,
Vietnam Journal for Indian and Asian Studies, Vol 2, No.1, pp.1-9; Tilottama
Mukherjee (2019), “India‟s Southeast Asia Policy: The Pivotal Role of
Vietnam”, Vietnam Journal for Indian and Asian Studies, Vol 1, No.1, pp.116; Tilottama Mukherjee (2020), “Vietnam - The Pillar of India‟s Southeast
Asia policy and the “China factor”: 2000 - 2020”, Vietnam Journal for Indian
and Asian Studies, Vol 2, No.1, pp.28-38; Vo Xuan Vinh (2019), IndiaVietnam Relations under Modi 2.0: Prospects and Challenges, ISEAS Yusof
Ishak Institute, Issue: 2019 No.82, Singapore, 14 October 2019, pp.1-10…
Như vậy, điểm lại một số công trình nghiên cứu về quan hệ Việt Nam Ấn Độ, chúng tơi nhận thấy, hầu hết đều trình bày một hay một vài lĩnh vực
chủ yếu từ kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao... chưa có cơng trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn
diện Việt Nam - Ấn Độ từ năm 2016 đến năm 2020. Vì thế, những nguồn tài
liệu quý trên có ý nghĩa gợi mở để chúng tơi hình thành ý tưởng, có giá trị
tham khảo quan trọng, cung cấp luận cứ, luận chứng trong việc triển khai và
thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Ấn Độ
từ năm 2016 đến năm 2020 nhằm đánh giá thực trạng quan hệ hợp tác giữa

hai bên trên các lĩnh vực từ chính trị - ngoại giao, kinh tế đến quốc phịng - an
ninh, khoa học, văn hóa, giáo dục trong thời gian này; nhận định xu hướng
vận động của quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:


5
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến mối quan hệ Đối tác Chiến
lược Toàn diện Việt Nam - Ấn Độ.
- Làm rõ bước phát triển của mối quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện
Việt Nam - Ấn Độ trên các lĩnh vực chính trị - ngoại giao, kinh tế, quốc
phịng - an ninh, khoa học, văn hóa, giáo dục từ năm 2016 đến năm 2020.
- Rút ra những nhận xét, đánh giá về thành tựu, hạn chế, đặc điểm của
quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Ấn Độ và dự báo xu hướng
phát triển trong thời giai tiếp theo.
4. ối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Quá trình phát triển mối quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện giữa hai
nước Việt Nam và Ấn Độ trên nhiều phương diện từ năm 2016 đến năm 2020.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở xác định đối tượng nghiên cứu, phạm vi của luận văn được
giới hạn như sau:
Về thời gian, luận văn nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2016
đến năm 2020. Sở dĩ chúng tôi chọn năm 2016 làm khởi điểm cho công trình
nghiên cứu của mình, bởi trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Ấn
Độ Narendra Modi từ ngày 02 - 03/9/2016 hai nước đã thống nhất nâng cấp
quan hệ song phương từ Đối tác Chiến lược (2007) lên Đối tác Chiến lược
Tồn diện.
Về khơng gian, đó là những vấn đề, sự kiện chính trị - ngoại giao, kinh

tế, quốc phịng - an ninh, khoa học, văn hóa, giáo dục diễn ra trên lãnh thổ hai
nước Việt Nam và Ấn Độ. Đồng thời những nghiên cứu của đề tài còn mở
rộng trong không gian khu vực Đông Nam Á, Nam Á, châu Á - Thái Bình
Dương..., các diễn đàn cũng như các nước trên thế giới có tác động đến quan
hệ của hai nước.
Về nội dung, luận văn nghiên cứu quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn
diện giữa hai nước Việt Nam và Ấn Độ trên nhiều phương diện từ chính trị -


6
ngoại giao, kinh tế, quốc phòng - an ninh đến khoa học, văn hóa, giáo dục từ
năm 2016 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên hệ thống các quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về đối ngoại nói chung; những chính sách triển khai trong quan
hệ Việt Nam - Ấn Độ nói riêng. Bên cạnh đó, luận văn kế thừa những quan
điểm lý luận của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đối với một số nội dung
liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, chúng tôi dựa trên cơ sở phương
pháp luận duy vật biện chứng, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và
tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác đối ngoại. Bên cạnh đó, chúng tơi sử dụng
phương pháp nghiên cứu Chính trị học, phương pháp lịch sử, phương pháp
lôgic và kết hợp hai phương pháp này để phục dựng bức tranh quan hệ Đối
tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Ấn Độ.
Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như:
phương pháp nghiên cứu tài liệu và xử lý thông tin, phương pháp nghiên cứu
lý thuyết, phân tích, tổng hợp lý thuyết.

6. óng góp của luận văn
Luận văn hồn thành sẽ có những đóng góp chủ yếu sau:
- Luận văn trình bày một cách hệ thống, toàn diện, cụ thể về quan hệ
Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Ấn Độ trên lĩnh vực chính trị ngoại giao, kinh tế, quốc phịng - an ninh, khoa học, văn hóa, giáo dục (2016 2020). Qua đó thấy được, quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ
không ngừng phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực, góp phần khẳng định tính
hiệu quả, bền vững, sự tin cậy chính trị và sự hội tụ chiến lược trong bàn cờ
thế giới của hai nước, tạo ra các cơ hội hợp tác không giới hạn...


7
- Góp phần cung cấp những cứ liệu, luận chứng thuyết phục để làm tài
liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và tuyên truyền về đường lối đối
ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa của Việt Nam với Ấn Độ nói
riêng và Việt Nam với các quốc gia trên thế giới nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, kết cấu
của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến quan hệ Đối tác Chiến lược
Toàn diện Việt Nam - Ấn Độ
Chương 2: Bước phát triển của quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện
Việt Nam - Ấn Độ
Chương 3: Nhận xét quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam Ấn Độ


8

Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ỘNG ẾN QUAN HỆ
ỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN VIỆT NAM - ẤN Ộ
1.1. Quan điểm tiếp cận về quan hệ ối tác Chiến lược Toàn diện

1.1.1. Về quan hệ Đối tác Chiến lược
Sau Chiến tranh lạnh, trong quan hệ quốc tế hình thành một số hình
thức mới. Các quốc gia với thể chế chính trị, kinh tế khác nhau đã tìm những
phương cách mới và áp dụng chúng một cách linh hoạt để thúc đẩy quan hệ
với nhau. Trong quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia, dưới góc nhìn chính trị
học, quan hệ quốc tế, người ta thường phân định ra thành bốn cấp độ từ thấp
đến cao lần lượt là: Đối tác (Partnership) - Đối tác Toàn diện (Comprehensive
Partnership) - Đối tác Chiến lược (Strategic Partnership) và mức cao nhất là
Đối tác Chiến lược Toàn diện (Comprehensively Strategic Partnership).
Đối tác (Partnership): Là thuật ngữ chỉ mối quan hệ cộng tác - hợp tác
nhưng ở mức độ cao hơn và cụ thể hơn. Các nhà nghiên cứu định nghĩa: “Đối
tác bao gồm hai hay nhiều bên hành động cùng nhau để nâng cao hợp tác
bằng việc thực hiện những mục tiêu chung. Xây dựng những kênh/cơ chế giải
quyết các bất đồng/tranh chấp, biện pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác và phương
pháp đánh giá tiến bộ cũng như chia sẻ những thành tựu hợp tác” [61]. Hành
động cùng nhau chung mục tiêu và chung lợi ích là những tiêu chí của quan
hệ đối tác. Một mối quan hệ đối tác bao gồm sự gần gũi, bình đẳng, có đi có
lại, và thỏa thuận về những mục tiêu chung.
Chiến lược (Strategic): Nghĩa rộng là sự quan trọng có tính tồn cục,
then chốt và có giá trị tương đối lâu dài về mặt thời gian, đặc biệt, trong các
bối cảnh liên quan đến việc sử dụng sức mạnh quân sự. “Chiến lược” dùng để
chỉ tính tổng thể, để tạo sự khác biệt với những chi tiết (chiến thuật); nghệ
thuật sử dụng nguồn lực, kết hợp với các giá trị về đạo đức, để đạt được
những mục tiêu. Trong nhiều tình huống, từ “chiến lược” thường liên quan


9
đến các lĩnh vực an ninh - quân sự mặc dù khơng hồn tồn là một thuật ngữ
chỉ dùng trong lĩnh vực an ninh - quân sự.
Đối tác Chiến lược (Strategic Partnership) chỉ một mối quan hệ hợp tác

quan trọng (nhưng không nhất thiết chỉ tập trung trong lĩnh vực an ninh - qn
sự) vừa có tính hướng vào mục tiêu cụ thể, vừa có hàm ý mong muốn quan hệ
lâu dài (quan hệ “win - win” cùng có lợi). Đặc điểm của Quan hệ Đối tác
Chiến lược là không có giới hạn về khơng gian, thời gian; khơng hạn chế về
đối tượng áp dụng; không hạn chế về lĩnh vực hợp tác và không nhất thiết
phải mang nội dung an ninh - quân sự.
Đối tác Chiến lược là một dạng quan hệ hợp tác phong phú, trong đó
thành phần, nội dung, hình thức, mức độ… hồn tồn tùy thuộc vào sáng kiến
của các bên. Các nhà nghiên cứu quốc tế cho rằng, hạn chế duy nhất đối với
mối quan hệ đối tác chiến lược là “sức tưởng tượng của các bên tham gia”.
Thuật ngữ “Đối tác Chiến lược” lần đầu được sử dụng vào khoảng
những năm 1990, 1991 để chỉ quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Từ đó đến
nay, thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi. Theo quan niệm của giáo sư Valery
Loskin (Nga), thì “Đối tác Chiến lược” phải bao gồm những nội dung sau:
không tấn công lẫn nhau; không liên minh chống lại các nước khác; không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; phải có lịng tin lẫn nhau. Đối với
Mỹ, đối tác chiến lược phải bao gồm hợp tác chặt chẽ về quân sự, an ninh.
Về hình thức: Đối tác Chiến lược có thể diễn ra linh hoạt (chính thức
hoặc khơng chính thức, song phương hoặc đa phương, diện và mức độ tham
gia rộng hoặc hẹp, nhiều hoặc ít…) và có tính mở vì khơng hướng tới một kết
cục cụ thể. Trong thực tế, có những mối quan hệ tuy khơng phải là đối tác
chiến lược, nhưng thực chất lại còn hơn cả đối tác chiến lược. Ví dụ: quan hệ
Mỹ - EU tuy không phải là đối tác chiến lược, nhưng mối quan hệ hợp tác thì
vơ cùng chặt chẽ. Cịn quan hệ Brazil - EU tuy là quan hệ đối tác chiến lược
nhưng mức độ quan hệ không thể so sánh được với quan hệ Mỹ - EU.


10
Như vậy có thể hiểu, quan hệ Đối tác Chiến lược là một hình thức quan
hệ quốc tế, phản ánh nguyện vọng của các chủ thể khi tham gia vào khn

khổ quan hệ này. Nó thể hiện cam kết cao hơn mối quan hệ song phương
thông thường nhưng chưa đến mức hình thành một liên minh qn sự. Nó là
thước đo mức độ ràng buộc, đan xen lợi ích giữa các chủ thể quan hệ quốc tế,
vượt ra ngoài phạm vi hữu nghị và hợp tác nhưng chưa đến mức ràng buộc
pháp lý.
Với Việt Nam, Đối tác Chiến lược là mối quan hệ chiến lược gắn với
ngoại giao, kinh tế. Quan hệ Đối tác chiến lược mà Việt Nam quan niệm bao
gồm hợp tác về an ninh, thịnh vượng và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.
An ninh: quan hệ đối tác chiến lược đó sẽ giúp cho Việt Nam củng cố
nền tảng ngoại giao và quốc phòng, hỗ trợ tích cực cho Việt Nam trong việc
giữ gìn an ninh, bảo toàn chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
Thịnh vượng: mối quan hệ kinh tế với đối tác đó phải góp phần quan
trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Nó thể hiện trên các
lĩnh vực: quan hệ thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển (ODA) và chuyển
giao công nghệ. Ví dụ như: thương mại song phương phải đạt kim ngạch tối
thiểu 10 tỷ USD, đầu tư song phương đạt từ 5 tỷ USD trở lên,… Nếu các
tiêu chí đó chưa đạt được thì phải xét đến quy mơ và mức độ phát triển của
quốc gia đó.
Nâng cao vị thế của Việt Nam: quốc gia đối tác chiến lược phải là
những nước lớn, hoặc cường quốc hạng trung tiêu biểu; có vị thế và ảnh
hưởng quan trọng, đáng kể đối với đời sống chính trị thế giới và khu vực.
Ngồi 3 tiêu chí an ninh, thịnh vượng, nâng cao vị thế của Việt Nam
cần phải có những tiêu chí khác nữa như quan hệ lâu dài, cùng có lợi (mức độ
lợi ích có thể chia đều, hoặc hơn kém do hai nước quy định), có niềm tin
tưởng vào nhau…
1.1.2. Về quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện
Hiện nay, vẫn chưa xuất hiện một khái niệm chung về khuôn khổ, nội
hàm, mục đích và ý nghĩa của quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện. Tuy



11
vậy, trong nhận thức và qua nghiên cứu, chúng tôi mạnh dạn trình bày quan
điểm của mình về vấn đề này như sau:
Theo từ điển Wikipedia: Đối tác Chiến lược Tồn diện hay cịn gọi là
đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, tức là hai hay nhiều bên xác định gắn bó
lợi ích lâu dài, hỗ trợ lẫn nhau và thúc đẩy sự hợp tác sâu rộng và toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực mà các bên cùng có lợi. Đồng thời hai bên cịn xây
dựng sự tin cậy lẫn nhau ở cấp chiến lược [74]. Đến nay, Việt Nam có quan
hệ Đối tác Chiến lược Tồn diện với Trung Quốc (năm 2008), Nga (năm
2012) và Ấn Độ (năm 2016).
Từ quan niệm về quan hệ Đối tác Chiến lược, có thể thấy, nó được
phân thành các cấp độ khác nhau, chủ yếu dựa trên mức độ hợp tác và sự tin
cậy lẫn nhau. Mức thấp nhất là quan hệ đối tác tồn diện, khi một hoặc một
số khía cạnh của mối quan hệ giữa các bên tham gia đã đạt đến cấp chiến
lược, nhưng thậm chí giữa các khía cạnh hợp tác khác nhau. Do sự tin cậy lẫn
nhau chưa đủ hoặc thời gian cho quan hệ đối tác chiến lược chưa chín muồi,
các bên lựa chọn xây dựng một khn khổ quan hệ đối tác tồn diện với ý
nghĩa là họ nhấn mạnh vào hợp tác, đồng thời củng cố hơn nữa sự tin cậy lẫn
nhau và cùng nhau hướng tới tương lai. Một số nước cũng phân loại quan hệ
đối tác thành quan hệ đối tác thiết yếu, quan hệ đối tác quan trọng, quan hệ
đối tác quan trọng, quan hệ đối tác tự nhiên, trong số những quốc gia khác.
Mức độ quan hệ Đối tác Chiến lược thấp hơn là trong một lĩnh vực hẹp
hoặc cho một mục đích cụ thể, ví dụ, quan hệ đối tác chiến lược vì hịa bình
hoặc hợp tác và phát triển... Các quan hệ đối tác chiến lược kiểu này đã nhanh
chóng tăng lên về số lượng.
Cấp cao nhất là quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện hoặc quan hệ
đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, bao gồm hai bên trở lên gắn bó lợi ích
lâu dài với nhau, hỗ trợ lẫn nhau và thúc đẩy hợp tác toàn diện, sâu sắc trong
tất cả các lĩnh vực vì lợi ích chung của cả hai bên. Đồng thời, các bên liên
quan cũng xây dựng lòng tin lẫn nhau ở tầm chiến lược.



12
Mặt khác, xây dựng quan hệ Đối tác Chiến lược không phải là việc một
sớm một chiều. Hầu hết các hiệp định như vậy được xây dựng dựa trên “mối
quan hệ hữu nghị”, “mối quan hệ hợp tác” hoặc “quan hệ đối tác” hiện
có. Việc nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược lên quan hệ đối tác toàn diện
một vài năm sau khi ra mắt cũng là một điều phổ biến [58].
Như vậy có thể hiểu: quan hệ Đối tác Chiến lược Tồn diện là một
hình thức quan hệ quốc tế, phản ánh nguyện vọng của các chủ thể khi tham
gia vào khn khổ quan hệ này. Nó thể hiện sự hợp tác bình, đơi bên cùng có
lợi, đa chiều, rộng khắp và đa tầng với các cấp độ song phương, đa phương
bao gồm tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị - ngoại giao, quốc phịng - an
ninh, khoa học - cơng nghệ, văn hóa - xã hội được tiến hành bởi cả chính phủ
và các nhóm phi chính phủ. Nó được thực hiện trên cơ sở tôn trọng và tin cậy
lẫn nhau, nỗ lực mở rộng các lợi ích hội tụ và tìm kiêm điểm chung về các
vấn đề lớn, hạn chế sự khác biệt ở những vấn đề nhỏ. Nó vượt qua sự khác
biệt về hệ tư tưởng và thể chế chính trị và không chịu tác động của các sự
kiện riêng lẻ xảy ra theo thời gian.
1.2. Nhân tố khách quan
1.2.1. Bối cảnh thế giới
Trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, bối cảnh thế giới có nhiều biến
đổi to lớn và sâu sắc, ảnh hưởng toàn diện và mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống
xã hội của các quốc gia, trong đó có mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ.
Thứ nhất, một trong những thành quả, xu thế phát triển mới của nhân
loại trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI là sự ra đời, phát triển mạnh
mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp
4.0). Theo ông Klaus Schwab, người sáng lập và là Chủ tịch điều hành Diễn
đàn Kinh tế thế giới, bản chất của Cách mạng công nghiệp 4.0 rất khác so với
các cuộc cách mạnh cơng nghiệp trước đó. Cách mạng công nghiệp 4.0 thúc

đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất thế giới, làm quốc tế hóa sâu sắc quá
trình mở rộng sản xuất, phân phối trên phạm vi toàn cầu, tạo nên sự tùy thuộc
lẫn nhau ngày càng lớn giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Cách


13
mạng khoa học công nghệ đang biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, làm gia tăng các phát minh, sáng chế và tốc độ ứng dụng thành tựu khoa
học công nghệ trong sản xuất và sinh hoạt của con người. Đây là những tiền
đề phát triển hoàn toàn mới, phi truyền thống, làm thay đổi tư duy và phương
thức quan hệ giữa các nước, đặc biệt là các trung tâm quyền lực đã và sẽ thay
đổi đáng kể. Cách mạng khoa học cơng nghệ cịn làm thay đổi tư duy của các
nước về thế giới quan và chiến lược đối ngoại, thay đổi phương thức quan hệ
giữa các quốc gia. Đồng thời, còn đặt ra nhiều thách thức đối với con người
trong thời đại số hóa, nhất là sự nguy hiểm về sức khỏe, an ninh tài chính, an
ninh mạng, việc bảo hộ thơng tin cá nhân; địi hỏi thể chế của Nhà nước phải
có đổi mới theo hướng dự báo được những xu thế thay đổi và xây dựng những
giải pháp ứng phó kịp thời...
Thứ hai, tình hình kinh tế thế giới có dấu hiệu tăng trưởng tích cực hơn
nhờ sự phục hồi của một số nền kinh tế lớn, xu thế hợp tác liên kết toàn cầu
và khu vực vẫn tiếp tục được thúc đẩy. Dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), kinh tế thế giới có thể đạt được 3,6% năm 2017 và 37% năm 2018.
Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực tăng trưởng năng động, dự báo
đạt 5,5% năm 2017 và 5,4% năm 2018. Các nước tăng cường thúc đẩy liên
kết kinh tế, đàm phán các hiệp định tự do thương mại, đưa ra nhiều sáng kiến
hợp tác khu vực, đảm bảo tận dụng những lợi thế của xu hướng tồn cầu hóa,
của cách mạng cơng nghệ, kỷ ngun công nghệ số và chú trọng các yếu tố
phát triển bền vững. Tuy nhiên, triển vọng tăng trưởng còn nhiều rủi ro, chưa
bền vững do sự điều chỉnh chính sách của một số nước, bất ổn tài chính, tiền
tệ, các vấn đề có thể nảy sinh từ tiến trình cải cách cơ cấu, đổi mới mơ hình

tăng trưởng, căng thẳng địa chính trị, an ninh quốc tế và chủ nghĩa dân túy.
Thứ ba, các vấn đề an ninh phi truyền thống như: biến đổi khí hậu và
các hiện tượng thời tiết cực đoan liên tiếp xảy ra với nhiều hình thức và mức
độ tác động khác nhau. Những cơn bão nhiệt đới ở khu vực Tây bán cầu (như
Harvey, Irma…) hay những cơn bão gần đây tại châu Á đặt ra những câu hỏi


14
về hiệu quả hành động của các quốc gia trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tình hình tội phạm xuyên quốc gia như buôn lậu ma túy, buôn người vẫn rất
nhức nhối và khó có thể thay đổi trong một thời gian ngắn do hậu quả của sự
chênh lệnh trình độ phát triển và các nhóm tội phạm xun quốc gia... An
ninh lương thực khả năng ứng phó với dịch bệnh ở cấp độ toàn cầu và khu
vực vẫn là nỗi lo của mọi quốc gia. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 đã tác động
và ảnh hưởng vô cùng to lớn và hậu quả phức tạp đến toàn cầu. Một thảm họa
về y tế đã dẫn đến suy thoái trầm trọng về kinh tế tồn cầu, đe dọa nền chính
trị và an ninh quốc tế.
Thứ tư, sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa các nước lớn. Các
cường quốc như Nga, Nhật Bản, Trung Quốc và Australia tiếp tục có những
điều chỉnh chiến lược, tạo ra ảnh hưởng lớn đến môi trường và quan hệ quốc
tế, đặc biệt là vành đai Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Vai trò của các
nước này đang ngày càng tăng trong tiến trình định hình trật tự mới, cục diện
mới tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Bước sang thập niên thứ hai thế
kỷ XXI, trọng tâm chiến lược trên thế giới có xu hướng dịch chuyển từ Tây
sang Đơng, đưa châu Á - Thái Bình Dương trở thành một trong những trung
tâm phát triển có vị trí địa - kinh tế và địa - chính trị ngày càng quan trọng
trên thế giới, khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn và tiềm ẩn
nhiều nhân tố bất ổn.
Tuy vậy, nhìn tổng thể, bức tranh chung của thế giới qua hai thập niên
đầu thế kỷ XXI, chứng minh rằng, hịa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là

xu thế lớn. Trong giai đoạn mới, thế giới nổi lên nhiều vấn đề tồn cầu mới
địi hỏi sự tham gia giải quyết của tất cả các quốc gia. Có thể nói, bên cạnh
những yếu tố tích cực, những biến động phức tạp của tình hình thế giới đã tạo
nên sự thách thức to lớn đối với hịa bình, an ninh của mỗi nước cũng như
trong khu vực và trên tồn thế giới; chính sách của những nước lớn trong việc
phát triển quan hệ với khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói
riêng... đã chi phối đến sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ Việt Nam - Ấn Độ.


15
1.2.2. Bối cảnh khu vực
Trong những thập niên qua, khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang
phát triển với tốc độ cao do tác động của quá trình quốc tế hóa và tồn cầu
hóa, cho thấy nhiều tiềm năng, triển vọng với việc hình thành nhiều hình thức
liên kết, hợp tác đa dạng. Tuy vậy, khu vực này tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất
ổn định, nhất là tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, tài
nguyên. Trong khi đó, xu thế hịa bình, ổn định và hợp tác để phát triển là đòi
hỏi bức thiết đặt ra cho các quốc gia dân tộc. Quan điểm chung đều hướng
vào ưu tiên phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối
với việc tăng cường sức mạnh quốc gia.
Trong nhiệm kỳ tổng thống Donald Trump đã phát động “chiến tranh
thương mại”, “chiến tranh công nghệ” đối trọng với sức mạnh kinh tế vượt
trội của Trung Quốc. Bên cạnh đó, do sức mạnh Mỹ đang suy giảm cùng với
việc Mỹ liên tiếp rút khỏi nhiều thỏa thuận đa phương, gia tăng các biện pháp
bảo hộ thương mại đã tạo điều kiện cho Trung Quốc lấp “khoảng trống” và
giương “ngọn cờ” tự do hóa thương mại để tập hợp lực lượng. Với những
hoạt động trên làm cho châu Á đang thay đổi nhanh chóng do bức tranh toàn
cảnh thế giới đang biến đổi. Các nước lớn ln thực hiện chính sách gây ảnh
hưởng, chi phối và tranh thủ các nước khác, các tổ chức quốc tế ở khu vực,
củng cố liên minh, đồng minh, đối tác, tăng cường liên kết với các nước trong

khu vực để phục vụ cho mục tiêu chiến lược của mình. Các động thái điều
chỉnh chiến lược của các nước lớn theo hướng gia tăng cạnh tranh, nhưng
cũng sẵn sàng thỏa hiệp ở khu vực cũng như trên thế giới sẽ ngày càng quyết
liệt, gay gắt hơn, đặt các nước trong khu vực trước những thách thức không
nhỏ, vừa phải tranh thủ hợp tác, hạn chế tác động tiêu cực, vừa không để bị
lôi cuốn hoặc thành “con bài” trao đổi giữa các nước lớn.
Mặt khác, từ đầu thế kỷ XXI đến nay, tính chất bất ổn của Biển Đơng
càng tăng cao đã thúc đẩy các quốc gia nhìn nhận đầy đủ những lợi ích của
mình tại vùng biển này. Biển Đông nằm trong phạm vi địa chiến lược của các


16
quốc gia Đông Nam Á và hầu hết các quốc gia ASEAN đều có lợi ích gắn bó
mật thiết với vùng biển này. Vì thế hiển nhiên vùng biển này có những ảnh
hưởng trực tiếp lên sự phát triển và an ninh, ổn định của các quốc gia trong
khu vực. Xuất phát từ góc độ cạnh tranh ảnh hưởng tại khu vực, trong những
năm qua, Trung Quốc càng quyết đoán hơn trong việc thăm dò tài nguyên
năng lượng và triển khai các hoạt động quân sự tại Biển Đông. Các nước
ASEAN đã nhận thức được rằng, Trung Quốc đang tìm cách thống trị quan hệ
khu vực bằng cách tập trung vào các quan hệ song phương hoặc các cấu trúc
khu vực mà Trung Quốc có thể chiếm ưu thế. Tham vọng của Trung Quốc có
thể phá hủy sự tin tưởng lẫn nhau (mutual trust) và gia tăng mối quan ngại của
các quốc gia ASEAN có yêu sách trong vấn đề Biển Đơng. Chính mối đe dọa
trên thực tế của Trung Quốc tại Biển Đông đã khiến các quốc gia ASEAN
ngày càng quan tâm hơn trong việc tăng cường quan hệ với các chủ thể lớn
như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, EU,... để đảm bảo vấn đề an ninh tại
vùng biển này.
Nhìn một cách lớn hơn, vị thế châu Á đang tăng lên trong nền kinh tế
thế giới. Xu thế tồn cầu hóa kinh tế quốc tế gia tăng, kết nối các quốc gia vào
nhiều tổ chức hợp tác kinh tế với nhiều cấp độ như ASEAN, và AFTA ở Đông

Nam Á, BICTEC ở Đông Nam Á và Nam Á, APEC ở vùng châu Á - Thái
Bình Dương, ASEM liên châu lục Á - Âu và WTO với những quy tắc chung
mang tính tồn cầu. Sự phát triển nhanh chóng năng động của nền kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương nói chung và các nước ASEAN nói riêng là nhân
tố khách quan thuận lợi đối với quan hệ Việt Nam - Ấn Độ. Trong mấy thập
niên gần đây, khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Trung Quốc, ASEAN, Ấn
Độ có nền kinh tế phát triển nhanh chóng trong thời gian dài làm thế giới kinh
ngạc và khâm phục. Ở trong khu vực như vậy, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ có
điều kiện thuận lợi phát triển.
Quan trọng hơn, các nước ASEAN bước vào thời kỳ hợp tác mới theo
Hiến chương ASEAN và xây dựng thành Cộng đồng (2015) dựa trên ba trụ


17
cột: chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội; hợp tác với các đối tác tiếp
tục phát triển và đi vào chiều sâu. Trong đó, Ấn Độ là một trong mười bên đối
thoại quan trọng của ASEAN. Đánh giá cao tầm quan trọng của Đông Nam Á
nói riêng và châu Á - Thái Bình Dương nói chung, Ấn Độ coi trọng địa vị vai
trị của mình với chính sách Hành động hướng Đơng, đặt Đơng Nam Á vào vị
trí quan trọng là bộ phận cầu nối hợp tác châu Á - Thái Bình Dương và xây
dựng quan hệ cân bằng với các nước lớn. Đây chính là yếu tố để liên kết chặt
chẽ mối quan hệ Ấn Độ và ASEAN nói chung và quan hệ Ấn Độ - Việt Nam
nói riêng.
Xuất phát từ bối cảnh quốc tế và khu vực sang những năm cuối của
thập niên thứ hai thế kỷ XXI, đã tác động sâu sắc tới tình hình kinh tế, chính
trị, xã hội của tất cả các quốc gia, trong đó có Ấn Độ và Việt Nam. Điều này
đặt ra cho hai nước những nhận thức mới trong việc điều chỉnh chính sách đối
ngoại của mình để vượt qua khó khăn, thách thức và tận dụng cơ hội, thuận
lợi cho sự phát triển có chiều sâu và thực chất hơn quan hệ Việt Nam - Ấn Độ.
1.2.3. Tình hình Việt Nam và Ấn Độ

1.2.3.1. Tình hình Việt Nam
Trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, bối cảnh tình hình thế giới, khu
vực diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo đặt Việt Nam trước nhiều thời
cơ và thách thức đan xen, nhiều vấn đề mới phải giải quyết. Với những quyết
sách đúng đắn, mạnh mẽ của Đảng và toàn thể nhân dân Việt Nam đã đem lại
kết quả tích cực trên nhiều lĩnh vực để phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Thành công nổi trội nhất là trong giai đoạn 2016 - 2020 Việt Nam đạt được
nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; đất
nước phát triển nhanh và bền vững củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, đó là cơ sở
quan trọng cho Đảng và Nhà nước triển khai các hoạt động đối ngoại đa
phương, toàn diện với các nước, trong đó có Ấn Độ.


18
Trên lĩnh vực kinh tế, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng bình
quân khá cao, kinh tế vĩ mơ ổn định, lạm phát ln được kiểm sốt ở mức
thấp; các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; nợ công giảm, nợ
xấu được kiểm sốt. GDP bình qn giai đoạn 2016 - 2020 vẫn đạt khoảng
6%/năm với 1.200 tỷ USD (riêng năm 2020 tăng trưởng GDP vẫn đạt 2,91%
là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới). Quy mô nền kinh tế và thu
nhập bình quân đầu người tăng lên (năm 2020, GDP đạt 271,2 tỷ USD và thu
nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD/người). Quy mô nền kinh tế tăng
1,4 lần trở thành nền kinh tế có quy mơ đứng thứ 4 trong ASEAN. Chất lượng
tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn
2011 - 2015 lên 5,9%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Liên tiếp trong 4 năm 2016
- 2019, Việt Nam luôn đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới,
là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Riêng năm 2020, trong
bối cảnh đại dịch Covid-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về
kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt được

những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Trong khi kinh tế
thế giới suy thoái, tăng trưởng âm gần 4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng
trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất
thế giới.
Trong bối cảnh bất ổn địa chính trị, Việt Nam đã thể hiện rõ vai trò kết
nối, tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác và làm sâu sắc thêm lòng tin giữa
các quốc gia trong và ngoài khu vực. Việt Nam đã chuẩn bị rất tốt các hành
trang hội nhập kinh tế quốc tế, với các hiệp định CPTPP, EVFTA, EVIPA,
RCEP. Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đã được ký kết
sau 8 năm đàm phán. Đây được coi là dấu ấn hội nhập đặc biệt của Việt Nam
trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2020 khi thúc đẩy thành công ký kết một
Hiệp định bao gồm 10 quốc gia ASEAN, trong đó có Việt Nam và 5 đối tác
thương mại lớn là Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New
Zealand; chính thức tạo nên khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới. Việt


19
Nam đã liên tiếp ký kết 5 và đã thực thi 4 Hiệp định thương mại tự do. Với
việc ký kết 3 Hiệp định thương mại gần đây, Việt Nam đã mở ra thị trường
rộng lớn chưa từng có, bên cạnh RCEP là Hiệp định thương mại tự do Việt
Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định thương mại tự do Việt
Nam - Vương Quốc Anh (UKVFTA), nâng tổng số hiệp định tự do thương
mại mà Việt Nam đã ký kết lên con số 16. Việt Nam trong năm 2020 vươn
lên trở thành nước dẫn đầu khu vực về tốc độ tăng trưởng GDP và là nước đi
đầu trong hội nhập kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Về chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và
tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt
nhiều thành tựu nổi bật. Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết
15 FTA khu vực và song phương và đang đàm phán 2 FTA với các đối tác
khác. Các FTA mà Việt Nam tham gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục

với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó
có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất của
Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và
Đông Á. Do đó, việc tham gia và thực thi các FTA sẽ mang lại những cơ hội
lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm...
Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao
trong các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở thành
nước có vị thế và vai trị ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế
tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan
quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 2016, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng
kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018. Việt
Nam đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với toàn bộ 5


20
nước thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ G7, 13/20 nước
G20. Quan hệ chặt chẽ với độ tin cậy gia tăng đã tạo điều kiện thuận lợi để
duy trì hịa bình, ổn định và mơi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng,
phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy
viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN
và Chủ tịch AIPA. Trong bối cảnh vơ cùng khó khăn của đại dịch Covid-19
và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành
tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực
và trên thế giới.
1.2.3.2. Tình hình Ấn Độ
Những năm đầu thế kỷ XXI, Ấn Độ đã điều chỉnh chính sách đối ngoại

với các nước lớn và một số khu cực trên thế giới; “Liên kết với phương Tây
và hướng về phía Đơng”, thực hiện chính sách ngoại giao toàn diện, lấy ngoại
giao kinh tế làm trung tâm... góp phần nâng cao vị thế quốc tế của Ấn Độ.
Tháng 6/2013, Narendra Modi được lựa chọn để trở thành người đứng đầu
đảng Nhân dân Ấn Độ (BJP), chính thức tham gia chiến dịch tranh cử giành
lấy vị trí Thủ tướng Ấn Độ. Tháng 5/2014, với tư cách lãnh đạo đảng BJP,
Narendra Modi đã giành lấy chiến thắng vang đội trong cuộc tổng tuyển cử
Ấn Độ, với 282 trên 543 ghế Hạ viện. Chưa một đảng phái chính trị nào ở Ấn
Độ thắng lợi với cách biệt lớn như thế từ năm 1984. Chiến thắng của ông đã
ngay lập tức phủ sóng các mạng xã hội cùng vơ vàn các trang báo quốc tế, với
những niềm tin rằng phong cách cầm quyền tân tâm, có phần quyết liệt và lạ
kỳ của vị chính trị gia này sẽ thay đổi diện mạo cho Ấn Độ, đưa quốc gia này
bước vào một thời đại mới - “thời đại Narendra Modi”.
Sau khi lên nhậm chức Thủ tướng Ấn Độ vào tháng 5/2014, N. Modi
tiến hành điều chỉnh và thực thi hàng loạt chính sách để nâng tầm vị thế cho
sự trỗi dậy mạnh mẽ của Ấn Độ. Trên phương diện kinh tế, với chính sách
kinh tế Modinomics, trong khi nền kinh tế tồn cầu có xu hướng tăng trưởng


21
chậm lại, Ấn Độ trở thành điểm sáng trong tăng trưởng kinh tế với tốc độ tăng
GDP nhanh chóng từ 6,9% (năm 2013 - 2014) lên mức 7,2% (năm 2014 2015), 7,6% (năm 2015 - 2016), 6,7% (năm 2017 - 2018), 7,5% (2018 2019). Tỷ lệ thâm hụt ngân sách giảm xuống còn 3,9% GDP (năm 2015 2016), chỉ số lạm phát được khống chế ở mức 5,39% (tháng 4/2016). Nhờ
những chính sách cải cách của Chính phủ trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài,
FDI vào Ấn Độ đang ngày càng gia tăng mạnh mẽ trong khi FDI vào các
nước trên toàn cầu lại tiếp tục suy giảm. Năm 2015, Ấn Độ đã vượt Trung
Quốc, trở thành quốc gia thu hút vốn FDI lớn nhất trên thế giới với 63 tỷ
USD, con số này tăng lên 75 tỷ USD vào năm 2016 [31]. Khu vực dịch vụ
của Ấn Độ là ngành phát triển nhanh trên thế giới, chiếm 60% nền kinh tế và
28% việc làm trong khi sản xuất và nông nghiệp là hai lĩnh vực quan trọng
khác của nền kinh tế Ấn Độ. Năm 2019, GDP của Ấn Độ đạt 2.940 tỷ USD,

đã vượt qua Anh và Pháp để trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trên thế giới [33].
Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Ấn Độ đã khơng
tránh khỏi làn sóng dịch bệnh Covid-19. Theo số liệu công bố của Bộ Thống
kê và Thực thi chương trình Ấn Độ vào cuối tháng 8/2020, trong quý I/2020
của năm tài chính 2020 - 2021 (tháng 4 - 6/2020), GDP theo giá cố định của
nước này chỉ đạt khoảng 37,8 tỷ USD, sụt giảm khoảng 23,9% so với mức
tăng trưởng dương 5,2% của cùng kỳ năm trước. Đây là mức sụt giảm GDP
mạnh nhất kể từ khi các số liệu kinh tế theo quý của Ấn Độ bắt đầu được công
bố năm 1996 và là mức giảm mạnh nhất trong nhóm các nền kinh tế lớn trên
thế giới (theo dữ liệu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - OECD).
Trong đó, đầu tư nước này giảm tới 47% so với năm trước, tiêu dùng hộ gia
đình giảm gần 27% [71].
Trên phương diện đối ngoại, Ấn Độ khơng cịn đi theo chính sách cân
bằng “thận trọng, dè dặt”, mà nhanh chóng thúc đẩy quan hệ với Mỹ và Nhật
Bản. Tương tự, trên phương diện ngoại giao láng giềng, Chính phủ Modi
cũng phá vỡ thông lệ. Tháng 5/2014, N. Modi mời lãnh đạo của tất cả các


22
quốc gia Nam Á tham gia lễ nhậm chức Thủ tướng của mình. Sau đó, N.
Modi đến thăm các nước láng giềng Ấn Độ, có ý đồ đóng vai trị lãnh đạo
Nam Á, định hình lại quan hệ quốc tế khu vực Nam Á.
Chính sách đối ngoại của Thủ tướng N. Modi có liên quan mật thiết đến
việc thay đổi định vị chiến lược của Ấn Độ. Sau khi lên nắm quyền, Chính
phủ N. Modi định vị Ấn Độ là lực lượng lãnh đạo, không phải là lực lượng
cân bằng đi theo chiến lược “Không liên minh 2.0”1. Trên phương diện quan
hệ nước lớn, Ấn Độ chủ trương hình thành “Liên kết đa phương” (Multiple
Alignment) với các nước lớn theo các vấn đề. Với ngoại giao láng giềng, để
đảm bảo vị thế “lãnh đạo Nam Á” của Ấn Độ, Chính phủ N. Modi đưa ra một
loạt các chính sách ngoại giao láng giềng, trong đó có “Láng giềng trước

tiên”, “Hành động hướng Đơng”, “Liên minh phía Tây”… Trên sân chơi đa
phương, Modi tích cực đề xuất chủ trương của Ấn Độ, như thúc đẩy Liên hợp
quốc thành lập Ngày Quốc tế Yoga vào ngày 21/6 hằng năm, xây dựng cơ chế
đa phương do Ấn Độ làm chủ đạo, như Liên minh Năng lượng Mặt trời quốc
tế (ISA),…
Chính phủ N. Modi đã có những điều chỉnh trong sách lược ngoại giao,
đặc biệt là điều chỉnh và cải thiện đáng kể quan hệ với Trung Quốc và Nga.
Ngày 27 - 28/4/2018, lãnh đạo hai nước Trung Quốc và Ấn Độ đã tổ chức
cuộc gặp khơng chính thức lần đầu tiên tại Vũ Hán, nâng cao hiểu biết lẫn
nhau giữa các nhà lãnh đạo, cải thiện mối quan hệ Trung - Ấn. Cùng với đó,
tháng 5/2018, N. Modi tới Nga tham dự cuộc gặp thượng đỉnh khơng chính
thức với Tổng thống Nga Putin. Trên phương diện ứng phó với chiến lược
“Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” do Mỹ đề ra, khi tham dự Đối thoại
Shangri-La tại Singapore ngày 01/6/2018, Thủ tướng Modi đã bày tỏ quan

1

Tháng 2/2012, Trung tâm nghiên cứu chính sách (CPR) của Ấn Độ từng đưa ra một báo cáo quan trọng
“Khơng liên minh 2.0: chính sách ngoại giao và chiến lược thế kỷ XXI của Ấn Độ”. Nội dung cơ bản là ủng
hộ việc xây dựng một con đường chiến lược cho Ấn Độ mà khơng hồn tồn bác bỏ con đường “không liên
kết”, thể hiện “quyền tự chủ chiến lược” với trọng tâm của khu vực châu Á và hai mối quan tâm an ninh cấp
bách nhất của Ấn Độ là Trung Quốc và Pakistan; hướng tới chủ nghĩa đa phương và cách tiếp cận với các thể
chế quốc tế [73].


23
điểm tương đối “cân bằng” của Ấn Độ về chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương”.
Tháng 5/2019, lần thứ hai N. Modi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử
Hạ viện. Ngày 02/11/2019, Ấn Độ ban hành bản đồ chính trị mới, đưa vùng

lãnh thổ tranh chấp giữa Ấn Độ với Trung Quốc và Pakistan vào bản đồ Ấn
Độ. Đầu năm 2020, dịch Covid-19 bùng phát đột ngột, chính sách đối ngoại
của Chính phủ N. Modi cũng theo đó tăng tốc điều chỉnh. Theo đó, Ấn Độ
chủ trương quan hệ tốt với Mỹ, đối phó với Trung Quốc, đẩy mạnh quan hệ
với các quốc gia châu Âu, xoa dịu Nga, huy động Nhật Bản, chỉnh đốn, phối
hợp với các quốc gia láng giềng. Ấn Độ định vị Trung Quốc là “kẻ gây rắc
rối” của Ấn Độ, cần phải quản lý, các nước lớn khác đều là lực lượng Ấn Độ
có thể dựa vào.
1.3. Nhân tố chủ quan
1.3.1 Mối quan hệ truyền thống, hữu nghị Việt Nam - Ấn Độ trong
lịch sử
Là một trong những nền văn minh lớn và cổ xưa nhất trên thế giới, văn
minh Ấn Độ đã tỏ rõ ưu thế và để lại nhiều dấu tích đậm nét trong nền văn
hóa của nhiều quốc gia trong khu vực. Do nhiều yếu tố, trước hết là sự gần
gũi về địa lý, nền văn hóa đặc sắc của Ấn Độ đã có tác động trực tiếp tới các
nước láng giềng Đơng Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Từ những thế kỷ đầu Công nguyên, trên cả ba miền Bắc, Trung và Nam
đã diễn ra sự giao lưu văn hóa bản địa với văn hóa Ấn Độ. Do sự xâm nhập
diễn ra một cách hịa bình và có nhiều điểm tương đồng về phong tục, tập
quán, tín ngưỡng của cư dân Việt, văn hóa Ấn Độ đã bén rễ ở vùng đất này,
hịa quyện vào văn hóa bản địa, trở thành một bộ phận khó tách rời và góp
phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam. Mối liên hệ lâu đời và bền chặt
này làm cơ sở vững chắc cho quan hệ hai nước sau này [14].
Bước sang thời kỳ cận đại, Việt Nam và Ấn Độ đều trở thành mục tiêu
xâm lược của cường quốc thực dân phương Tây. Trong quá trình xâm chiếm


24
thuộc địa, cả Việt Nam và Ấn Độ đều rơi vào ách thống trị của thực dân
phương Tây. Vì vậy hai nước đã cùng nhau cố gắng tiến hành cuộc đấu tranh

gian khổ và cùng giành độc lập. Đầu thế kỷ XX các sĩ phu yêu nước của Việt
Nam đã chủ trương tổ chức Đông Á đồng minh và Chấn Hoa hưng Á nhằm
liên kết các chí sĩ yêu nước trong vùng đứng lên làm cách mạng giải phóng
dân tộc. Nhà cách mạng Phan Bội Châu đã từng viết bài giới thiệu thân thế, sự
nghiệp của Mahatma Gandhi, ca ngợi cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ, lấy
đó làm tấm gương để khích lệ cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt
Nam. Cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm đầu thế kỷ XX,
đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Mahatma
Gandhi đã lôi cuốn sự chú ý của Nguyễn Ái Quốc tới Ấn Độ. Trong nhiều bài
báo viết vào những năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã hào hứng miêu tả lại cuộc
đấu tranh dưới nhiều hình thức của nhân dân Ấn Độ, ca ngợi ý chí kiên cường
đấu tranh vì tự do, độc lập của các tầng lớp nhân dân Ấn Độ không phân biệt
tôn giáo hay giàu nghèo…
Đầu năm 1927, tại Brussels (Bỉ) diễn ra “Hội nghị quốc tế của các dân
tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân và đế quốc”, được tổ chức theo sáng
kiến của Hội Liên hiệp thuộc địa mà Nguyễn Ái Quốc là một người tham gia
sáng lập và Motilal Nehru (cha của Jawaharlal Nehru) đã tham dự với tư cách
là đại diện chính chính thức của Đảng Quốc đại Ấn Độ. Tại diễn đàn này,
Nguyễn Ái Quốc và Motilal Nehru, hai con người ưu tú, đại diện cho hai dân
tộc bị áp bức đã có dịp tiếp xúc với nhau lần đầu tiên, khởi đầu cho một tình
bạn tốt đẹp giữa Nguyễn Ái Quốc và gia đình Nehru. Chính lịng yêu nước và
cuộc đấu đấu tranh giải phóng dân tộc đã đưa Jawaharlal Nehru và Nguyễn Ái
Quốc hai vĩ nhân, hai tâm hồn lớn gặp nhau.
Là dân tộc từng bị chủ nghĩa thực dân áp bức gần hai thế kỷ, các nhà
lãnh đạo cách mạng Ấn Độ rất thiện cảm với cuộc đấu tranh vì độc lập và tự
do của nhân dân Việt Nam. Chính vì vậy, ngay sau khi giành được độc lập
(1947) Chính phủ lâm thời Ấn Độ do Jawaharlal Nehru đứng đầu đã tuyên bố


25

khơng đồng tình với hành động xâm lược của thực dân Pháp chống lại Đông
Dương. Tháng 6/1946 trên đường sang Pháp để đàm phán hịa bình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cùng các đại biểu trong đoàn đã dừng chân tại Calcutta (Ấn
Độ). Tại đây Hồ Chí Minh đã có những cuộc tiếp xúc với các chính khách và
giới báo chí Ấn Độ. Trong các cuộc tiếp xúc này, Người đã bày tỏ sự ủng hộ
của Nhà nước và nhân dân Việt Nam đối với phong trào địi độc lập hồn tồn
của Ấn Độ, đồng thời, Người cũng tỏ lịng mong muốn nhận được sự ủng hộ
của nhân dân Ấn Độ đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam.
Tháng 12/1946, khi cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam bùng nổ,
đáp lại thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các nhà lãnh đạo và nhân
dân thế giới, Thủ tướng Jawaharlal Nehru và M. Gandhi đã tỏ rõ thái độ ủng
hộ của Chính phủ và nhân dân Ấn Độ đối với cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp của nhân dân Việt Nam. Tháng 01/1947, những người lãnh đạo Ấn
Độ đã kêu gọi nhân dân Ấn Độ ủng hộ nhân dân Đông Dương trong cuộc đấu
tranh chống thực dân dân và chỉ ra rằng cuộc đấu tranh mà nhân dân châu Á
chống xâm lược phương Tây để giải phóng dân tộc, cũng là cuộc đấu tranh
nhân dân Ấn Độ. Vì vậy, Chính phủ Ấn Độ đã tun bố lấy ngày 21/7/1947 là
“Ngày Việt Nam”. Vào ngày này nhiều thành phố trên đất nước Ấn Độ đã tổ
chức nhiều hoạt động với sự tham gia của đông đảo sinh viên, công nhân và
các tầng lớp nhân dân lao động khác để ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân
dân Việt Nam.
Ngay sau khi Ấn Độ giành được độc lập, Chính phủ và nhân dân Việt
Nam rất vui mừng trước thắng lợi của nhân dân Ấn Độ. Trong hoàn cảnh
kháng chiến gian khổ nhưng khi biết Ấn Độ giành được độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tự tay thảo điện chúc mừng gửi Thủ tướng Jawaharlal Nehru,
người bạn cũ của mình với những lời tràn đầy tình cảm. Ngày 30/1/1948 lãnh
tụ Mahatma Gandhi qua đời. Mặc dù trong hoàn cảnh kháng chiến khó khăn,
chia sẻ sự mất mát to lớn với nhân dân Ấn Độ, Chủ Tịch Hồ Chí Minh và
Chính phủ Việt Nam đã chỉ thị các địa phương tổ chức truy điệu Mahatma
Gandhi vào ngày 20/02/1948.



×