Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

mô hình quan hệ đối tác chiến lược giữa nước lớn với nước lớn và nước lớn với nước nhỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.69 MB, 24 trang )


Cơ chế hợp tác an ninh
NHÓM 13

Chủ đề:
Mô hình quan hệ đối tác chiến lược giữa nước lớn với nước lớn
và nước lớn với nước nhỏ ( lấy cụ thể 2 mô hình quan hệ đối tác
chiến lược Trung Quốc- Mỹ và Việt Nam- Trung Quốc)












Mục lục

I, Lý thuyết Error! Bookmark not defined.
1, Khái niệm về quan hệ đối tác chiến lược Error! Bookmark not defined.
2, Các mô hình quan hệ đối tác chiến lược Error! Bookmark not defined.
3, Lý do hình thành mô hình đối tác chiến lược Error! Bookmark not defined.
II. So sánh mô hình quan hệ đối tác chiến lược giữa nước lớn- lớn( Trung- Mỹ) và
nước lớn với nước nhỏ( Trung- Việt) Error! Bookmark not defined.
1. Điểm giống nhau Error! Bookmark not defined.
1.1. Tính thiết thực: Error! Bookmark not defined.
1.2. Tính ổn định lâu dài: Error! Bookmark not defined.


2. Điểm khác nhau Error! Bookmark not defined.
2.1. Lợi ích các nước ở mỗi mô hình là khác nhau Error! Bookmark not defined.
2.2. Đặc điểm mô hình quan hệ Error! Bookmark not defined.
III. Đánh giá, nhận xét Error! Bookmark not defined.
1. Đánh giá chung về hai mô hình Error! Bookmark not defined.
2. Hiệu quảmột số điểm hạn chế và triển vọng của mô hình Error! Bookmark not
defined.
2.1. Vấn đề Đài Loan trong mô hình quan hệ giữa TQ- Mỹ Error! Bookmark not
defined.
2.2. Tranh chấp Biên giới lãnh thổ trong mô hình quan hệ giữa VN- TQ…………….20
Kết Luận……………………………………………………………………………… 21
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………………… 22









Lời mở đầu
Chiến tranh lạnh kết thúc đã tạo điều kiện cho việc hình thành một số hình thức mới
trong quan hệ quốc tế (QHQT) khi quan hệ giữa các quốc gia ngày càng thoát ra khỏi ảnh
hưởng và khuôn mẫu của tư duy và mô hình hai phe, hai chế độ. Ngoài các mô hình sẵn
có, các quốc gia lớn nhỏ với hệ thống chính trị và kinh tế khác nhau trên thế giới đã
không ngừng tìm ra các phương cách mới và áp dụng chúng một cách linh hoạt để thúc
đẩy quan hệ với nhau. Một trong các hình thức quan hệ mới đó là việc thiết lập quan hệ
đối tác chiến lược giữa các quốc gia.
Chuyên đề cơ chế hợp tác an ninh lần này, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu đề tài: mô hình

quan hệ đối tác chiến lược giữa nước lớn với nước lớn và nước lớn với nước nhỏ. Do thời
gian có hạn cũng một phần do kiến thức còn hạn hẹp. Chúng tôi hy vọng với việc nghiên
cứu 2 mô hình trên sẽ làm rõ một số khía cạnh về mô hình đối tác chiến lược như: khái
niệm, mục đích, các mô hình đối tác chiến lược. Đặc biệt nhấn mạnh vào những điểm
chung và những điểm khác biệt cơ bản giữa 2 loại hình quan hệ đối tác chiến lược nước
lớn- nước lớn và nước lớn- nước nhỏ.





I, Lý thuyết
Nếu như trước chiến tranh lạnh các nước chủ yếu hợp tác với nhau dựa trên mô hình
những liên minh, cộng động an ninh, tổ chức an ninh, qua đó đánh giá qua khả năng có
thể trợ giúp nhau về quân sự để răn đe hoặc trừng phạt một liên minh đối lập, tăng cường
sức mạnh quân sự bằng biện pháp hợp lực thì sau chiến tranh lạnh các nước hợp tác lại
với nhau trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa thông qua việc xây
dựng các hình thức hợp tác thích hợp và đều bị ràng buộc bởi những hình thức hợp tác đó.
Các hình thức hợp tác mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu, khiến cho việc hợp tác trở
nên chặt chẽ.

1, Khái niệm về quan hệ đối tác chiến lược
Về lý thuyết, các mối quan hệ đối tác chiến lược đều là dạng quan hệ hợp tác với mức độ
phát triển cao hơn hợp tác thông thường và mở rộng hoặc đi sâu thêm trên nhiều lĩnh vực
khác nhau.
Có thể định nghĩa mối quan hệ đối tác chiến lược như sau : Đối tác chiến lược chỉ mối
quan hệ hợp tác quan trọng vừa có tính hướng vào những mục tiêu cụ thể vừa có hàm ý
về mong muốn quan hệ lâu dài
Nếu coi hợp tác là một quá trình thì việc các nước hợp tác với nhau sẽ đem lại những lợi
ích hữu hình như kinh tế, thương mại, an ninh…Tuy nhiên, ở mức độ vô hình, hợp tác sẽ

làm sáng tỏ ý đồ trước mắt và lâu dài của các bên, tăng sự ràng buộc về lợi ích từ một
lĩnh vực rồi lan sang các lĩnh vực khác để từ đó làm cho việc kết thúc hợp tác trở nên khó
khăn hơn.
2, Các mô hình quan hệ đối tác chiến lược
Trong các mối QHQT, quan hệ đối tác chiến lược được thiết lập giữa :
- Các nước lớn với nhau
- Các nước nhỏ với nhau
- Một nước lớn và một nước nhỏ
- Một nước với một tổ chức quốc tế/ cơ chế đa phương
Một số mô hình quan hệ đối tác giữa nước lớn với nhau:
- ĐTCL mang tính xây dựng: TQ- Mỹ
- ĐTCL hướng tới thế kỉ XXI: Nga- Trung Quốc; TQ- Mỹ
Một số mô hình quan hệ đối tác giữa nước nhỏ với nhau :
- Hợp tác toàn diện: Viêt Nam- Cuba
Một số mô hình quan hệ đối tác giữa nước lớn với nước nhỏ:
- Hợp tác toàn diện: Việt Nam- Trung Quốc( 2008); Việt Nam- Nhật Bản…
- Quan hệ đối tác ổn định và bền vững: Tuyên bố chung Việt Nam- Hoa Kì
(21.6.2005)
- Tuyên bố chung về xây dựng Quan hệ đối tác chiến lược hướng tới thế kỉ XXI:
Nga và Việt Nam (4.1996)
3, Lý do hình thành mô hình đối tác chiến lược
Tìm đến mô hình đối tác chiến lược xuất phát từ nhiều yếu tố, trong đó có:
- Lợi ích của các bên khi tham gia hợp tác (kinh tế, an ninh…)
- Để cùng chống lại mối đe dọa hoặc sức ép từ bên ngoài
- Các quốc gia muốn tăng vị thế của mình trong QHQT
- Các bên tham gia hy vọng quan hệ đối tác chiến lược có thể sử dụng làm nền cho
việc thúc đẩy quan hệ tiến triển và lâu dài hơn nữa.

II. So sánh mô hình quan hệ đối tác chiến lược giữa nước lớn- lớn( Trung- Mỹ) và
nước lớn với nước nhỏ( Trung- Việt)

1. Điểm giống nhau
1.1. Tính thiết thực:
Thực tế cho thấy, tính thiết thực ở chỗ khi xác lập quan hệ hai nước là quan hệ đối tác
hay đối tác chiến lược của nhau, các nước đều xác định sẽ đi vào hợp tác trong những
việc cụ thể và trên một hoặc nhiều lĩnh vực nhằm thực hiện những mục tiêu riêng của
từng nước và từng kiểu cặp quan hệ. Đầu tiên các nước có thể sẽ phát triển quan hệ theo
chiều rộng mà trước hết là trên cơ sở “xây dựng lòng tin” và dần dần từng bước đi vào
phát triển theo chiều sâu nâng tầm quan hệ thành đối tác chiến lược.Trong quá trình hợp
tác, các nước đều thực hiện những lợi ích chiến lược riêng phục vụ những lợi ích của
từng quốc gia trên cơ sở đàm phán hòa bình, hợp tác hữu nghị chia sẻ với những lợi ích
chung của cả hai quốc gia. Kể cả với mô hình đối tác chiến lược hai nước lớn hay giữa
một nước lớn với một nước nhỏ, hai nước đều xây dựng mối quan hệ với nhau một mặt
đem lại lợi ích cho cả đôi bên( mục tiêu chung) như tăng vị thế và ảnh hưởng, mặt khác
mỗi nước đều những lợi ích chiến lược riêng như mục tiêu phát triển.
Tính thiết thực trong quan hệ hợp tác thể hiện rõ nhất trong nhu cầu hợp tác về kinh tế
giữa các nước. Thay vì xu thế đối đầu, hợp tác là cầu nối tạo ra bầu không khí đối thoại
giữa các nước trên các lĩnh vực chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng,…Dù là mô hình
quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước lớn với nhau; nước lớn- nước nhỏ hay nước
nhỏ- nước nhỏ đều cho thấy hợp tác về kinh tế là sự cần thiết, đem lại lợi ích cho nhau,
ràng buộc và kiềm chế lẫn nhau trong những vấn đề quốc tế và khu vực. Thêm vào đó,
với mô hình quan hệ đối tác giữa một nước lớn và một nước nhỏ, yếu tố lợi ích kinh tế là
rất quan trọng với sự phát triển của nước nhỏ và nước lớn đã lợi dụng con bài kinh tế để
tìm cách mở rộng tầm ảnh hưởng của mình.
Sự phân tích hai là cặp quan hệ Mỹ –Trung và Việt- Trung sau đây sẽ cho minh chứng
rõ nhận định này.

1.1. Tính ổn định lâu dài:
Các bên tiến hành những dự án hợp tác cụ thể nhưng đều có ý định duy trì quan hệ lâu
dài và phát triển quan hệ đi vào chiều sâu vì khi hợp tác với nhau, bên cạnh những lợi ích
hữu hình về kinh tế, thương mại, an ninh còn có những lợi ích vô hình chẳng hạn như hợp

tác sẽ làm sáng tỏ chiến lược trước mắt và lâu dài của các bên. Nó như mối dây liên hệ
làm tăng sự ràng buộc lợi ích từ một lĩnh vực rồi lan sang các lĩnh vực khác. Điều này
khiến cho việc kết thúc hợp tác trở nên khó khăn hơn. Đồng thời, qua hợp tác các bên có
thể giải quyết bất đồng, xây dựng các chuẩn mực ứng xử chung, các cơ cấu hợp tác chặt
chẽ hơn, thời gian hợp tác kéo dài, lĩnh vực hợp tác mở rộng hoặc đi vào chiều sâu giữ
được mối quan hệ lâu dài và ổn định hơn.
Với mỗi quốc gia có một cách hiểu và lý giải về quan hệ đối tác chiến lược khác nhau.
Tuy nhiên , nó đều là một quan hệ hai chiều đã có hoặc hướng tới trong tương lai. Vì thế,
nó không nhất định phải thể hiên thực chất quan hệ trong hiện tại mà chữ “chiến lược”
chủ yếu nhằm nhấn mạnh yếu tố lâu dài, hướng tới tương lai nhiều hơn. Biểu hiện với
cặp quan hệ Việt –Trung, do đặc thù quan hệ nước lớn và nhỏ, quan hệ hai nước chưa đi
sâu vào thực chất, còn nặng trên văn bản giấy tờ và dừng lại ở việc đưa ra những nguyên
tắc hành xử cơ bản do tính ràng buộc không cao. Trung Quốc luôn có xu thế gây sức ép
hoặc lấn lướt, sẵn sang sử dụng các biện pháp mạnh để đạt được lợi ích quốc gia. Tuy
nhiên, xây dựng quan hệ đối tác là quan trọng để đáp ứng tính nguyên tắc “ốn định lâu
đài, hướng tới tương lai” trong chính sách đối ngoại hai nước. Với mô hình quan hệ hai
nước lớn Mỹ- Trung, hai chữ chiến lược ở chỗ hai nước xác định mục tiêu lâu dài trong
quan hệ hợp tác những vấn đề quốc tế cụ thể : môi trường, khủng bố, vũ khí hạt nhân và
đặc biệt là vị trí trong mối quan hệ quốc tế.
2. Điểm khác nhau
Trước hết cần nhận thấy rằng, do vị trí địa chính trị kinh tế của các nước, ý thức hệ, mối
quan hệ trong quá khứ và vị trí của đối tác….mà ở mỗi mô hình hợp tác các nước xác
định lợi ích chiến lược riêng. Đồng thời ở mỗi mô hình cũng biểu hiện những nét khác
biệt. Vậy lợi ích của các nước ở mỗi mô hình như thế nào; đặc điểm mỗi mô hình quan hệ
ra sao? Sau đây chúng tôi xin trình bày làm rõ vấn đề trên.
2.1. Lợi ích các nước ở mỗi mô hình là khác nhau
2.1.1. Mục tiêu của mỹ và TQ trong mô hình quan hệ đối tác chiến lược
TQ- Mỹ
a) Mục tiêu của Mỹ:
Kể từ đầu thập kỷ 90 đến nay, mục tiêu chiến lược của Mỹ luôn là xây dựng một nước

Mỹ hùng cường, đảm bảo vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ và ngăn không cho bất kỳ một
quốc gia, thế lực nào nổi lên đe dọa vai trò bá chủ cả Mỹ. Tuy nhiên, bản thân Mỹ cũng
nhận thấy thế và lực trong cán cân lực lượng toàn cầu không còn được như trước nữa.
Thêm vào đó, xu thế toàn cầu hóa đã làm gia tăng phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia
và tính chất dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế. Vì vậy, Mỹ ngay lập tức đã chủ trương áp
dụng phương thức “tiếp cận mềm” tìm kiếm sự hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm với đồng
minh và các nước lớn khác trong việc duy trì an ninh thế giới và bảo đảm sự phát triển
ổn định của nền kinh tế toàn cầu, trong đó Mỹ đóng vai trò đầu tàu lãnh đạo.
Trong quan hệ với Trung Quốc, một sự kiện có tác động thúc đẩy sự hợp tác chiến lược
giữa hai nước lớn là sự kiện làm trấn động nước Mỹ và toàn thế giới 11/9. Sau đợt bị tấn
công khủng bố nghiêm trọng làm thiệt hại lớn về người và của này, nó cho thấy Mỹ rất
cần sự hợp tác của các nước trong cuộc chiến chống khủng bố .Vì vậy, Mỹ đang điều
chỉnh chiền lược theo hướng mềm dẻo hơn, chú trọng hơn đến thái độ và lợi ích của nước
khác, đặc biệt là trong quan hệ với các đối tác lớn Nga và Trung Quốc.Với Trung Quốc,
Ngày 19-10 , chủ tịch Giang Trạch Dân hội đàm với tổng thống Bush , trao đổi ý kiến về
những vấn đề quan trọng như quan hệ Trung- Mỹ và chống khủng bố v v đi đến nhận
thức chung quan trọng . Hai bên nhất trí đồng ý cùng nhau ra sức phát triển quan hệ hợp
tác mang tính chiến lược . Bush tuyên bố Trung Quốc là đối tác chứ không dùng “đối thủ
chiến lược”, tỏ thái độ sẵn sang trao đổi thông tin về tiến trình thực hiện chương trình
phòng thủ tên lửa quốc gia.
Theo đánh giá của Mỹ, Trung Quốc là một cường quốc đang ngày càng có tiếng nói
chính trị và kinh tế quan trọng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, một đối thủ sẽ là
người cạnh tranh nguy hiểm đối với vai trò bá chủ thế giới của Mỹ. Mục tiêu chính trong
chính sách của Mỹ đối với quốc gia này là kiềm chế, nhằm ngăn chặn sự nổi lên của
Trung Quốc trở thành mối đe dọa đến vai trò lãnh đạo của Mỹ.Tuy nhiên, biện pháp
ngoại giao của Mỹ với Trung Quốc có sự thay đổi từ thời B.Clinton đến thời tổng thống
Bush và nay là nhà lãnh đạo mới Obama. Chính quyền B.Clinton chủ trương kiềm chế
Trung Quốc thông qua phương thức tiếp cận mềm dùng đối thoại, tiếp cận toàn diện với
Trung Quốc, thúc đẩy hợp tác kinh tế, lôi kéo quốc gia này vào các công việc quốc tế và
định chế toàn cầu do Mỹ lãnh đạo, đồng thời thúc đẩy dân chủ nhân quyền thực hiện ý đồ

diễn biến hòa bình ,chuyển hóa nội bộ từ bên trong nhằm mục tiêu buộc TQ phải tự
nguyện thừa nhận vai trò lãnh đạo của Mỹ mà đỉnh cao là khái niệm “đối tác chiến lược
mang tính xây dựng hướng vào thế kỷ XXI”. Dưới thời Bush thì có những điều chỉnh
theo hướng cứng rắn hơn bắt đầu từ tuyên bố “đối thủ cạnh tranh chiến lược” thay cho
“đội tác chiến lược mang tính xây dựng”… với ý đồ dùng thực lực và ảnh hưởng buộc
Trung Quốc phải chấp nhận vai trò siêu cường của Mỹ. Ngày nay, Obama lên nắm quyền
và có những cố gắng duy trì hợp tác và điều phối chặt chẽ trong đối phó với cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, thúc đẩy cải cách hệ thống kinh tế toàn cầu cho dù còn tồn tại khá
nhiều những bất đồng về cả lợi ích kinh tế và an ninh.
Cũng cần thấy Trung Quốc một cường quốc đang lớn mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự, là
uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, và là đối tượng mà Mỹ duy trì và
phát triển quan hệ, nhất là trong việc bảo đảm an ninh ở châu Á- Thái Bình Dương.
Trung Quốc còn là một nhân tố quan trọng mà Mỹ sử dụng để hạn chế sự phát huy vai trò
ảnh hưởng của Nhật Bản nhằm đảm bảo cho các lợi ích của Mỹ ở khu vực châu Á- Thái
Bình Dương. Thêm vào đó, phát triển quan hệ song phương với Trung Quốc và Nga là
một trong những biện pháp được Mỹ tính toán nhằm chia tách mối quan hệ "đối tác chiến
lược Trung- Nga" trong tứ giác Mỹ- Trung- Nga- Nhật. Quan hệ tốt với Trung Quốc còn
giúp Mỹ kiểm soát được vấn đề phát triển vũ khí, trong đó có vũ khí hạt nhân, của một số
nước như Iran, Pakistan, tránh cho Mỹ cùng một lúc phải đối phó với quá nhiều vấn đề
quốc tế.
b) Mục tiêu của Trung Quốc:
Từ đầu thập niên 1990 trở lại đây, Trung Quốc từng bước bổ sung và hoàn thiện chiến
lược đối ngoại “hòa bình, độc lập, tự chủ” đã đề ra từ thập niên 90. Trung Quốc chủ
trương ngoại giao “toàn phương vị” xác lập quan hệ bạn bè hợp tác với các cường quốc
Nga, Pháp, Mỹ, Nhật vừa để tranh thủ các nước này trong hợp tác, đầu tư, thu hút vốn,
công nghệ, thị trường, tăng cường uy tín chính trị, vừa để cân bằng quan hệ chống lại chủ
trương “đơn cực hóa” của Mỹ và xây dựng một thế giới đa cực trong đó Trung Quốc ở
vào một vị thế có lợi nhất.
Bên cạnh đó, theo quan điểm của Trung Quốc, trong thời kỳ quá độ tiến lên một trật tự
thế giới mới, Mỹ là siêu cường duy nhất, có tiềm lực kinh tế và khoa học kỹ thuật lớn, có

vị trí vai trò rất quan trọng trong các vấn đề quốc tế. Duy trì quan hệ ổn định với Mỹ giúp
Trung Quốc một mặt thực hiện được mục tiêu phát triển đất nước, mặt khác giúp trung
Quốc có vị thế cao hơn trong quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ với các nước phương
Tây nói riêng. Điều đó giải thích tại sao từ 1989 đến nay Trung Quốc luôn tỏ ra mềm
mỏng và có nhiều nhượng bộ với Mỹ về những vấn đề cụ thể như dân chủ, nhân quyền,
bán vũ khí cho Iran nhằm đạt được mục tiêu lớn là cải thiện quan hệ với Mỹ, hy sinh
"tiểu cục" để đạt được "đại cục"
Hiện nay Trung Quốc thực hiện “chiến lược ngoại giao nước lớn” với nội dung là duy trì
quan hệ hợp tác giữa các nước lớn trên thế giới , lợi dụng các quan hệ này để tạo ra điều
kiện bên ngoài có lợi cho sự phát triển kinh tế Trung Quốc ,đồng thời tiếp tục tham gia
vào các thể chế quốc tế để thay đổi luật chơi của các tổ chức này hiện do Mỹ và các nước
phương tây chi phối .
Trong chính sách đối thoại của mình Trung Quốc coi quan hệ ổn định với Mỹ có ý nghĩa
chiến lược quan trọng. Cũng cần thấy rằng, sau sự sụp đổ của Liên Xô, Mỹ là siêu cường
duy nhất trên thế giới, Trung Quốc quan hệ ổn định với Mỹ mang đến cho Trung Quốc
cơ hội để vươn lên trở thành 1 cường quốc toàn diện có tầm vóc toàn cầu. Xét về mối
quan hệ đối ngoại, về mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước phương Tây luôn chịu
sự chi phối của quan hệ Trung –Mỹ. Quan hệ tốt đẹp với Mỹ sẽ là bước căn bản loại bỏ
“vành đai đen”bao vây Trung Quốc sau sự kiện Thiên An Môn, thúc đẩy quan hệ Trung
Quốc với các nước lớn khác, nâng cao vị thế tại khu vực. Ngoài ra quan hệ Trung –Mỹ
còn được dùng như biện pháp nhằn cân bằng quan hệ trong tam giác Mỹ-Trung-Nhật.
Trung Quốc coi phát triển quan hệ với Mỹ là một phương cách nhằm nâng cao vị thế của
Trung Quốc trong quan hệ tam giác này .Về chính trị nội bộ duy trí mối quan hệ tốt đẹp
với Mỹ còn có thể tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc duy trì sự ổn định của đất
nước. Về kinh tế Mỹ là 1 nước có tiếng nói quan trọng trong các tổ chức tài chính và
thương mại quốc tế như IMS, WTO, WB… có tác dụng trực tiếp hoặc dán tiếp tới sự
phát triển kinh tế của Trung Quốc.
Nói tóm lại, Trung Quốc và Mỹ có những lợi ích song trùng, nhưng về mặt chiến
lược, lợi ích của hai bên lại không phù hợp với nhau. Mục tiêu của Mỹ là duy trì địa vị
lãnh đạo thế giới, không để cho các nước cạnh tranh vai trò này của Mỹ. Trong khi đó,

Trung Quốc mặc dù tạm thời chấp nhận vai trò siêu cường của Mỹ, nhưng muốn thiết lập
một thế giới đa cực, trong đó Trung Quốc là một cực, có vị trí và vai trò quan trọng trên
trường quốc tế. Sự mâu thuẫn về lợi ích chiến lược này có tính chất lâu dài, cạnh tranh
nhau, nhưng không mang tính chất loại trừ nhau.
2.1.2. Mô hình quan hệ đối tác chiến lược Trung- VN
Việt Nam – Trung Quốc là hai nước “ liền núi, liền sông” đã tồn tại bên nhau hàng ngàn
năm lịch sử.sự ra đời VNDCCH và CHNDTH tạo điều kiện mối quan hệ phát triển 1 tầm
cao mới, nhân dân và ĐCS TQ đã giúp đỡ nhân dân ta kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược nhưng đáng tiếc vì nhiều nguyên nhân mà sau khi VN thống
nhất, quan hệ hai nước căng thẳng dẫn chiến tranh biên giới 1979. Đến tận 11/1991 trước
những đòi hỏi cấp thiết của việc đổi mới, hai nước chính thức bính thường hóa quan hệ
với khai thông hợp tác trên nhiều mặt. Trong chuyến thăm TQ của Lê Khả Phiêu lãnh đạo
hai nước xác định đưa quan hệ đối tác giữa hai nước theo nguyên tắc 16 chữ: “ láng giềng
hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lại và “láng giềng tốt, bạn
bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.
Việt Nam và Trung Quốc xác định quan hệ hai nước nhằm mục đích phục vụ hợp tác và
phát triển giữa 2 nước vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Tuyên bố
chung Việt Nam và Trung Quốc 1999 xác định mục tiêu : “tiếp tục không ngừng phát
triển quan hệ hữu nghị, hợp tác, thúc đẩy quan hệ nhà nước phát triển toàn diện”
a) Mục tiêu của Trung Quốc
Chính sách đối ngoại của Trung Quốc chịu sự chi phối của các nhân tố truyền thống tư
tưởng và nội bộ Trung Quốc, bởi vậy từng bước xác lập ảnh hưởng ở Việt Nam là một
nội dung trong thực hiện “chính sách nước lớn”, tư tưởng Đại Hán bành trướng, chủ
nghĩa dân tộc của dân tộc Trung Hoa là những nhân tố tác động đến việc hình thành
chính sách Việt Nam của Trung Quốc. “Gia tăng ảnh hưởng”, an ninh và phát triển là
những mục tiêu cơ bản của Trung Quốc. Do vị trí chiến lược đặc biệt ở Đông Nam Á nên
về lâu dài Việt Nam là địa bản trọng điểm phục vụ chiến lược nước lớn. Việt Nam là cửa
ngõ để Trung Quốc tiến xuống phía Nam, là khu vực đệm an ninh cho Trung Quốc ở đây.
Mục tiêu cơ bản vẫn giữ ta trong tầm khống chế. Thực tế cho thấy việc Việt Nam quá
mạnh hay yếu đều ảnh hưởng tới Trung Quốc. Không muốn một nước láng giềng quá

mạnh, dễ đe dọa an ninh những cũng không muốn Việt Nam quá yếu, dễ bị nhân tố bên
ngoài lợi dung gây bất ổn an ninh phương Nam của Trung Quốc. Chủ trương xây dựng và
phát triển quan hệ hữu nghi với Việt Nam nhằm đảm bảo an ninh cho mình trước các mối
đe dọa khác.
Quan hệ hợp tác ổn định với Việt Nam nằm trong chiến lược ngoại giao dầu lửa cùng với
sự phát triển kinh tế cao với tốc độ trung bình hàng năm 8- 10% hiện nay, nhu cầu nhập
khẩu dầu lửa của Trung Quốc ngày càng gia tăng. Việt Nam nằm trên tuyến đường giao
thông huyết mạch giữa Châu Á- Thái Bình Dương và Ấn độ Dương- nơi có nhiều tuyến
đường ống dầu chạy qua. Ổn định quan hệ với Việt Nam cũng là phương cách Trung
Quốc đảm bảo an ninh dầu lửa của mình. Việc giải quyết vấn đề Biển Đông hay “tam gác
tranh chấp cùng khai thác” ở nơi được xem là có trữ lượng dầu mỏ lớn là một trong
những mục tiêu hướng tới trong quá trình xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác Trung
Quốc- Việt Nam.
Vị thế của ta trong khu vực ngày nâng cao. Là nước lớn trong khối ASEAN, vai trò và
tiếng nói ngày được củng cố, quan hệ hợp tác ổn định và toàn diện với ta tạo điều kiện
thuận lợi cho Trung Quốc thực hiện chính sách khu vực của Trung Quốc.
Quan hệ đối tác với Việt Nam là biện pháp nhằm phá thế bao vây” của Mỹ và các nước
phương Tây. Thuyết về “mối đe dọa Trung Quốc” đặt các nướcc đặc biệt Mỹ trước tính
toán “ một trong những biện pháp mới để tác động đến hành xử của Trung Quốc là ủng
hộ sự phát triển năng động và dân chủ của các quốc gia xung quanh Trung Quốc, sự phát
triển kinh tế của Việt Nam cũng sẽ phục vụ cho lợi ích của Mỹ liên quan tới Trung Quốc.
Với sự lớn mạnh về mọi mặt, Việt Nam đang ngày một trở thành yêu tố quan trọng trong
chính sách khu vực của M. Việt Nam giữ khoảng cách với Trung Quốc là mục tiêu mà
Mỹ mong muốn nhằm kiềm chế Trung Quốc. Giữ quan hệ tốt với ta là một nhân tố quan
trọng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
Quan hệ hữu nghị, hơp tác với Việt Nam giúp Trung Quốc tạo dựng một hình ảnh tốt đẹp
trong khu vực. Đối với các nước trong khu vực, cùng với những tuyên bố về trỗi dậy hòa
bình, xây dựng mối quan hệ đối tác với ta giúp Trung Quốc giảm bớt những hoài nghi
của các nước láng giềng xung quanh về chính sách bá quyền của Trung Quốc, cũng như
gây lại lòng tin và tăng cường ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực.

Như vậy, việc xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác với ta không chỉ vì mục tiêu hòa bình,
ổn định và hợp tác trong khu vực; phát triển quan hệ song phương mà con là biện pháp
Trung Quốc thực hiện qua các mục tiêu của ngoại giao láng giềng, ngoại giao dầu lửa,
ngoại giao nước lớn và đặc biệt là để đối phó với thuyết về mối đe dọa Trung Quốc.
Quan hệ với Việt Nam được xem là một công cụ” trong quan hệ của Trung Quốc với
cộng đồng thế giới.
b) Mục tiêu của Việt Nam
Việt Nam là nước nhỏ, yếu so với “người láng giềng khổng lồ” Trung Quốc
1
và có vị trí
hết sức nhạy cảm trong địa chiến lược của Trung Quốc. Lịch sử quan hệ phức tạp giữa
hai nước khiến ta không thể tránh khỏi lo ngại. Việt Nam đã phải đối phó với nhiều cuộc
chiến tranh xâm lược của Trung Quốc từ các triều đại Phong Kiến Trung Hoa đến chiến
tranh biên giới 1979 và hiện nay là những tranh chấp lãnh thổ cùng “chính sách gặm
nhấm lãnh thổ” cua Trung Quốc. Luôn bị đặt trước thách thức về an ninh quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ từ phía Trung Quốc. Lịch sử quan hệ thăng trầm hai nước cho thấy thực
tế: chừng nào Việt Nam chưa xây dựng được một mối quan hệ láng giềng ổn định, hữu
nghị tốt đẹp với Trung Quốc thì chừng ấy ta còn chưa có hòa bình, ổn định lâu dài để tập
trung phát triển, xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác toàn diện, ổn định lâu dài là biện
pháp đảm bảo an ninh của Việt Nam.
Cùng với sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc, hầu hết các quốc gia trong khu vực
đang nhìn nhận Trung Quốc như một nhà lãnh đạo khu vực hoặc chí ít là họ cũng đang
tính toán tới lợi ích và mối quan tâm trong hoạch định chính sáchđối ngoại của mình.
Đương nhiên, Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó.
Tuy vị thế của ta không ngừng tăng lên nhưng vẫn chưa có vai trò quyết định đối với các
vấn đề khu vực. Ta đang phải đối mặt với không ít khó khăn và bất ổn bắt nguồn từ
những tranh chấp lãnh thổ với các nước trong khu vực đặc biệt là vấn đê Biển Đông.
Thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước sẽ giúp
hóa giải các nguy cơ, trở ngại trong quan hệ với Trung Quốc nói riêng và các nước khác
nói chung. Thêm vào đó, Trung Quốc là nước lớn, đang trỗi dậy mạnh mẽ, tăng cường và

phát triển quan hệ với Trung Quốc là biện pháp nhằm nâng cao vị thế và uy tín của Việt
Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Trung Quốc giữ vai trò là một “chỗ dựa tâm lí”
về cân bằng sức mạnh cho Việt Nam trong hội nhập khu vực và quốc tế.
Cũng nhận thấy rằng, cả hai nước cùng chung định hướng phát triển XHCN, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng Sản đều đang thực hiện đổi mới, cải cách mở cửa. Trung Quốc là

1
Theo số liệu trên báo Duy thực.
nước đi trước vào 1978, Việt Nam cải cách 1986. Do đó, Trung Quốc là tấm gương để
Việt Nam học hỏi kinh nghiệm, thực hiện mục tiêu phát triển của mình.
2.2. Đặc điểm mô hình quan hệ
2.2.1. Mô hình quan hệ Trung- Mỹ: vừa phối hợp và cạnh tranh trong
cùng tồn tại .
Nói về mối quan hệ đối tác chiến lược giữa TQ- Mỹ. Trong CTL, về thực chất giữa
Trung Quốc và Mỹ đã từng có mối quan hệ đồng minh chiến lược. Nhưng sau khi Liên
Xô sụp đổ (1991), đối thủ chủ yếu của mối quan hệ đồng minh chiến lược đó không còn,
quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ trải qua nhiều thăng trầm, hợp tác và xung đột trong
cùng tồn tại hòa bình. Giữa hai nước vừa có đấu tranh gay gắt lại vừa duy trì được sự
phối hợp chặt chẽ trên một số mặt, vừa có xung đột về lợi ích chiến lược lại vừa có hợp
tác trên cơ sở lợi ích chung.
Nếu như trong thời kỳ CTL, quan hệ hợp tác chiến lược Mỹ - Trung chủ yếu gói gọn
trong lĩnh vực an ninh, thì sau CTL, mối quan hệ đó được mở rộng, phức tạp và đa dạng
hơn, phát triển thành hệ thống lớn, tương đối ổn định với nội dung bao hàm nhiều nhân tố
như chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự Tính chất quan hệ cũng đa dạng hơn: hợp tác,
phối hợp, cạnh tranh, cảnh giác, đối kháng, thậm chí xung đột lẫn nhau. Nói một cách cụ
thể, tính chất của quan hệ hợp tác chiến lược Mỹ - Trung đã chuyển từ hợp tác là chính
sang vừa hợp tác vừa đối lập, mà mặt đối lập có phần được nhấn mạnh hơn. Những năm
đầu thập niên 90, trong cục diện quốc tế ở bước quá độ, Mỹ chưa coi Trung Quốc là đối
thủ cạnh tranh chủ yếu. Chỉ khoảng 4-5 năm trở lại đây, tính không rõ ràng trong quan hệ
chiến lược giữa các cường quốc dần mất đi, Mỹ mới coi Trung Quốc là một đối thủ cạnh

tranh chiến lược tiềm tàng. Mỹ nhận thức được Trung Quốc sớm muộn cũng trở thành
một nước lớn có những ảnh hưởng quan trọng trên chính trường quốc tế, cho nên sẽ rất
nguy hiểm nếu Mỹ lại lựa chọn giải pháp kiềm chế và đối đầu quân sự với Trung Quốc.
Do vậy, Mỹ luôn xác định đường lối chiến lược là "tiếp xúc toàn diện với Trung Quốc,
cùng nhau hợp tác mưu cầu lợi ích chung".
Về phần mình, Trung Quốc rất cần mối quan hệ ổn định với Mỹ để mưu cầu tính toán
chiến lược riêng. Mối quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - Trung được xây dựng với sự đồng
thuận của cả hai bên. Tuy nhiên trên thực tế, trong các vấn đề toàn cầu, khu vực và song
phương, lợi ích giữa Trung Quốc và Mỹ vừa có điểm đồng vừa bất đồng, khiến cho quan
hệ hai nước có xung đột trong hợp tác, có thỏa hiệp trong đấu tranh, có điều chỉnh trong
cạnh tranh Hợp tác là nhu cầu rõ ràng, nhưng cạnh tranh, xung đột cũng không kém
phần gay gắt. Tính hai mặt của Mỹ trong chính sách đối với Trung Quốc thể hiện rõ, Mỹ
không thay đổi thực chất "tiếp xúc đi liền với kiềm chế" đối với Trung Quốc. Mục tiêu cơ
bản trong chính sách "tiếp xúc toàn diện" là nhằm thay đổi chế độ xã hội ở Trung Quốc
bằng du nhập những quan điểm giá trị và ý thức hệ phương Tây vào Trung Quốc. Ngoài
vấn đề Đài Loan, Mỹ luôn gây sức ép với Trung Quốc trong nhiều vấn đề khác. Mỹ luôn
chỉ trích Trung Quốc "không tôn trọng nhân quyền và không có tự do dân chủ cơ bản", có
nhiều động thái can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc trong các vấn đề về Tây
Tạng, Tân Cương. Những hành động đó của Mỹ luôn bị Trung Quốc phản đối quyết liệt
trong các cuộc gặp gỡ song phương và diễn đàn quốc tế đa phương. Về mặt chiến lược,
Trung Quốc phản đối hệ thống chính trị quốc tế do Mỹ đề xướng lấy hình thái ý thức,
quan niệm giá trị và chế độ xã hội theo kiểu phương Tây làm cơ sở; phản đối Mỹ dùng
chiêu bài nhân quyền để áp đặt, can thiệp vào công việc nội bộ nước khác. Thời gian gần
đây, việc Mỹ ném bom vào Sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư, cũng như quyết định triển
khai xây dựng Hệ thống phòng thủ tên lửa chiến trường (TMD), trong đó có dự định đưa
TMD bố trí tại Đài Loan vào năm 2007 đã làm cho quan hệ chính trị giữa hai nước
xuống tới mức thấp nhất; đồng thời cũng cho thấy, cùng với sức ép chính trị, Mỹ đang có
xu hướng tăng sức ép về mặt quân sự đối với Trung Quốc. Tuy vậy, phân tích kỹ thực tế
thời gian qua, kể cả sau sự kiện Kosovo, có thể thấy dòng chính của quan hệ Mỹ - Trung
vẫn là phối hợp và cạnh tranh chứ không phải đối kháng và xung đột. Nhìn về lâu dài,

Mỹ vẫn coi Trung Quốc là đối thủ tiềm tàng; chính sách "Tây hoá", "phân hoá" và đe dọa
về chính trị - quân sự đối với Trung Quốc sẽ không thay đổi. Tuy nhiên, giữa hai nước
vẫn sẽ tồn tại không gian hợp tác an ninh chiến lược và phòng ngừa khả năng xuất hiện
xung đột quân sự trực tiếp vì điều đó có hại cho cả hai nước cũng như cho quá trình định
hình cục diện quốc tế mới. Như vậy, vừa hợp tác vừa xung đột là xu thế chính trong mô
hình quan hệ của các nước với nhau sau chiến tranh lạnh nhưng đặc biệt thể hiện ở mô
hình hợp tác giữa các nước lớn. Điều này được minh chứng rõ nét qua mô hình quan hệ
TQ- Mỹ.
b) Mô hình quan hệ giữa TQ- VN
Trong quan hệ quốc tế, quan hệ “ đối tác chiến lược” là mối quan hệ đối tác mang tính
chất lâu dài, ổn định và sự bình đẳng giữa hai bên luôn là nguyên tắc cơ bản nhất. Bình
đằng luôn là nguyên tắc nền tảng duy trì mối quan hệ giữa hai bên. Tuy nhiên, trên thực
tế: “Mọi quốc gia đều bình đẳng nhưng có một số quốc gia bình đẳng hơn”. “Đối tác
chiến lược” nghe có vẻ bình đẳng nhưng liệu có bình đẳng thực sự? Chúng ta hãy tìm
hiểu mô hình quan hệ đối tác chiến lược trong quan hệ giữa nước lớn- nước nhỏ cụ thể là
mô hình quan hệ đối tác chiến lược TQ- VN để phần nào làm rõ mỗi băn khoăn này.
Với TQ, lợi ích luôn là số một, TQ không muốn chia sẻ lợi ích với nước khác đặc biệt là
nước láng giềng trong khu vực như VN; cũng không muốn ta hùng mạnh đối trọng với
TQ bởi vậy TQ dè dặt trong vấn đề hợp tác với ta, luôn sử dụng vấn đề Biên giới trên
biển đặc biệt là vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa để ép ta chấp nhận yêu cầu chính trị của
TQ. Mặc dù cũng đã kí những hiệp định về biên giới lãnh thổ trên bộ cũng như Vịnh Bắc
Bộ nhưng trên thực tế, tranh chấp vẫn xẩy ra thường xuyên giữa hai nước. Trên lĩnh vực
kinh tế, cũng còn bộc lộ những mặt hạn chế như sự phát triển giữa các lĩnh vực hợp tác
không đồng đều, quan hệ chính trị đi trước, tốt đẹp hơn nhiều so với quan hệ kinh tế-
thương mại và an ninh. Thêm vào đó, thâm hụt và cạnh tranh thương mại giữa hai nước
càng tăng lên. Vấn đề hàng lậu, hàng kém phẩm chất từ TQ tràn quan lãnh thổ VN. Đây
là vấn đề bức thiết, đòi hỏi hai nước cần tập trung giải quyết sớm để tránh ảnh hưởng đến
sự phát triển chung.
Thực tế cho thấy, trong ưu tiên chính sách của Trung Quốc, Mỹ và các nước phát triển
vẫn được đặt ở vị trí hàng đầu. Vì những điểm hạn chế về tiềm lực nên VN chưa thể là

đối tác thương mại quan trọng của TQ
2
. Quan hệ đối tác tốt với Việt Nam mang nhiều ý
nghĩa chính trị- an ninh hơn là ý nghĩa kinh tế- thương mại vốn được xem là giữ vị trí
quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa các quốc gia cũng như trong đời sống quốc tế hiện
nay.
Hợp tác là quá trình phối hợp chính sách trong đó các nước vì lợi ích mà điều chỉnh hành
vi thuận theo lợi ích của nước khác và đáp ứng nhu vầu của các nước khác trong mối
quan hệ giữa các nước đó với nhau. Quan hệ giữa hai nước VN- TQ do đặc thù của quan
hệ giữa nước lớn và nước nhỏ nên Trung Quốc có xu thế gây sức ép hoặc lấn lướt, sẵn
sàng sử dụng các biện pháp mạnh để đạt được lợi ích tối đa. Ví như cách hành xử của TQ
ở Vịnh Bắc Bộ. Mặc dù đã kí “thỏa thuận về nguyên tắc giải quyết vấn đề Vịnh Bắc Bộ”
quy định hòa bình giải quyết mâu thuẫn, trong khi chưa giải quyết hai bên cam kết không
có bất kì hành động nào làm phức tạp thêm tình hình, nhưng TQ vấn đơn phương dùng
vũ lực đối với ngư dân Việt Nam (trong sự kiện 1.2005…) tuy là sự kiện không lớn
nhưng thấy rõ sự thiếu thiện chí từ phía TQ. Trong quan hệ với ta, TQ xử lí quan hệ
không trên cơ sở các nguyên tắc đã thỏa thuận mà đơn phương sử dụng vũ lực dựa trên
lợi ích nước lớn để đưa ra quyết định hành động đối với nước nhỏ. Điều đó cho thấy dù
hai bên đã thiết lập các cơ chế quốc gia về các mâu thuẫn và tranh chấp lịch sử nhưng sự
thiếu lòng tin, sự nghi kị quốc gia và thiện chí hợp tác giữa hai bên hai nước vẫn là những
nhân tố khiến việc giải quyết được các mâu thuẫn tiềm tàng đặc biệt là các vấn đề mang
tính nhạy cảm chiến lược là rất khó khăn. Ví như trong nhận thức của VN, thiện chí hợp
tác của TQ không lớn và cho rằng TQ luôn tìm cách khống chế và lấn lướt VN. VN luôn
lo ngại về tham vọng của nước láng giềng khổng lồ này. Về phía TQ, TQ lại luôn coi
quan hệ Việt- Mỹ là vấn đề nhạy cảm trong chiến lược nhằm mục đích đối trọng lại với
TQ, chưa tin tưởng ở người bạn láng giềng Việt Nam. Chính bởi chưa đủ lòng tin nên
quan hệ giữa hai nước khó đi vào chiều sâu, thậm chí ngày càng gia tăng mâu thuẫn như
vấn đề Biển Đông- vấn đề nóng giữa quan hệ hai nước.
III. Đánh giá, nhận xét


2
Đỗ tiến sâm, viện nghiên cứu TQ, tạp chí n.c TQ, 5/2002, t34.
1. Đánh giá chung về hai mô hình
Đối tác chiến lược là mô hình được các quốc gia sử dụng rất phổ biến kể từ sau chiến
tranh lạnh cho tới nay. Mục đích hai bên là cùng nhau hợp tác thực hiện những mục tiêu
chung, xây dựng những cơ chế giải quyết tranh chấp, biện pháp thúc đẩy quan hệ và
phương pháp đánh giá tiến bộ cũng như chia sẻ thành tựu hợp tác. Mối quan hệ đối tác
bao gồm sự gần gũi, bình đẳng, có đi có lại và thỏa thuận về những mục tiêu chung.
Theo lí thuyết là thế nhưng trên thực tế mô hình quan hệ đối tác chiến lược còn những
mặt hạn chế như bình đẳng là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hợp tác nhưng thực chất
“đối tác” trong mô hình quan hệ đối tác chiến lược đã thực sự đã bình đẳng?; các bên đã
thực sự thỏa thuận và hợp tác cùng tiến tới mục tiêu chung, giải quyết các vấn đề tồn tài
hay chưa? v.v còn là những câu hỏi ngỏ cho chúng ta suy ngẫm.
Phân tích hai mô hình điển hình trong quan hệ quốc tế: lớn- lớn và lớn- nhỏ ở trên đã
phần nào khái quát được những nét cơ bản về đối tác chiến lược; đặc điểm quan hệ của
mô hình quan hệ Đồng thời cũng thấy được những mặt tích cực và một số mặt còn hạn
chế trong mô hình.
2. Một số điểm hạn chế và triển vọng của mô hình
So với trước khi thiết lập mối quan hệ đối tác và khi sau thiết lập các nước trong các mô
hình cụ thể đã đạt được những lợi ích chung cũng như mục đích riêng từng nước tuy
nhiên mô hình quan hệ vẫn bộc lộ một số điểm hạn chế biểu hiện ở những vấn đề tranh
chấp, xung đột giữa các bên. Những vấn đề còn tồn tại đó trực tiếp ảnh hưởng tới mối
quan hệ hai nước, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới an ninh khu vực và an
ninh toàn cầu. Với những mâu thuẫn tranh chấp nổi bật đó, trong tương lai mô hình quan
hệ đối tác chiến lược liệu có hiệu quả hay sẽ tiến triển như thế nào? Phần này, chúng tôi
xin chỉ ra một số hạn chế tồn tại giữa các nước ở hai mô hình và đưa ra dự đoán về triển
vọng về mối quan hệ giữa hai nước.
2.1. Vấn đề Đài Loan trong mô hình quan hệ giữa TQ- Mỹ
Vấn đề Đài Loan là vấn đề nội bộ của Trung Quốc nhưng lại rất nhạy cảm trong quan hệ
Trung- Mỹ. Từ năm 1979 đến nay, sự căng thẳng về vấn đề này luôn thể hiện nhiệt độ

trong quan hệ Trung- Mỹ. "Luật quan hệ với Đài Loan" do Quốc hội Mỹ thông qua
ngày10/4/1979, nói rõ chính sách của Mỹ là: khẳng định quyết định của Mỹ thiết lập
quan hệ ngoại giao với Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa chính là dựa trên lòng mong đợi
rằng tương lai của Đài Loan sẽ được giải quyết bằng biện pháp hoà bình; coi bất kỳ cố
gắng nào nhằm quyết định tương lai của Đài Loan bằng biện pháp không hoà bình, kể cả
biện pháp tẩy chay hoặc cấm vận, đều là mối đe doạ đối với hoà bình và an ninh của khu
vực Tây Thái Bình Dương và là mối quan tâm sâu sắc của Mỹ; cung cấp cho Đài Loan vũ
khí phòng thủ; duy trì khả năng của Mỹ để chống lại bất kỳ phương sách sử dụng vũ lực
và các biện pháp cưỡng ép khác có thể phá hoại chế độ an ninh hoặc chế độ kinh tế xã hội
của nhân dân ở Đài Loan(10). Trên thực tế, Đài Loan được Mỹ sử dụng để kiềm chế con
đường ra biển của Trung Quốc, đồng thời, gây sức ép khi cần thiết với Trung Quốc trong
quan hệ song phương. Cố vấn an ninh quốc phòng Mỹ Berger đã thừa nhận rằng trong
các đời Tổng thống Mỹ trước đây, chính sách của Mỹ đối với Đài Loan đều lấy "Luật
quan hệ với Đài Loan" làm chỗ dựa(11). Dựa trên Luật này mà đầu năm 1996 một số
nghị sỹ Mỹ đã yêu cầu chính quyền B. Clinton phải đưa hai tầu sân bay đến gần eo biển
Đài Loan để đảm bảo cho cuộc tuyển cử dân chủ đầu tiên ở Đài Loan được tiến hành
thuận lợi. Mỹ cũng dựa vào Luật này để bán vũ khí cho Đài Loan. Thậm chí, một số nghị
sĩ Mỹ đã đi xa hơn với quan niệm cho rằng "Luật quan hệ với Đài Loan" có giá trị pháp
lý cao hơn ba tuyên bố Trung- Mỹ(12). Trong chuyến thăm Đài Loan gần đây, cựu cố
vấn an ninh quốc gia A.Lake đã nói thẳng ra rằng: "Mỹ và Trung Quốc tuy cải thiện mối
quan hệ nhưng tuyệt đối không hy sinh lợi ích của Đài Loan, đó là lập trường và chính
sách trước sau như một của Mỹ"(13). Trước những câu hỏi do Trung Quốc đưa ra, Mỹ và
Nhật Bản không bác bỏ cũng không thừa nhận rằng phạm vi phòng thủ của Hiệp ước an
ninh Mỹ- Nhật ký năm 1996 có bao gồm cả việc bảo vệ Đài Loan hay không, khiến cho
Trung Quốc có những lý do để nghi ngờ và phản đối mạnh mẽ. Điều này cho thấy trong
thời gian tới, Đài Loan vẫn là vấn đề nhậy cảm trong quan hệ Trung- Mỹ.
Như vây, các nước lớn trong bối cảnh hiện nay đều bầy tỏ nguyện vọng cải thiện quan hệ,
nhưng chừng nào sự cân bằng chiến lược giữa các nước vẫn chưa hoàn toàn được xác lập
vững chắc thì trong bối cảnh đó những điều bất ngờ vẫn có thể xảy ra. Cho dù quan hệ
"đối tác chiến lược" hay "hợp tác chiến lược" giữa các nước lớn được xác lập thì quan hệ

giữa các nước lớn vẫn phát triển theo những bước thăng trầm khác nhau. Đây cũng là
phương hướng phát triển quan hệTrung- Mỹ trong thời gian tới.
2.2. Tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trong quan hệ Viêt- Trung
Ngoài tranh chấp phân định biên giới trên bộ 1999 đã kí và phân định Vịnh Bắc Bộ 2000
thì tranh chấp chủ quyền với Biển Đông là vấn đề tồn tại lâu và gây nhức nhối. Tranh
chấp chủ quyền trên Biển Đông không chỉ liên quan tới 2 nước mà còn liên quan tới Đài
Loan, Philippine, brunay, Malaisia, Indonesia. Thực tế, quần đào Hoàng Sa đã thuộc về
TQ, và quần đảo Trường Sa đang còn trong quá trình tranh cãi. TQ vẫn tiếp tục chính
sách “gặm nhấm” để thâu tóm dần quần đảo Trường Sa. Tuy VN có đầy đủ bằng chứng
chứng mình hai quần đảo thuộc chủ quyền và sẵn sàng đàm phán để giả quyết tranh chấp
nhưng do lập trường khác biệt giữa hai nước cùng những hành động thiếu thiện chí của
TQ như nhiều lần đi ngược lại các cam kết như làm trái với các nguyên tắc trong bộ quy
tắc ứng xử trên biển Đông( nhiều lần cho tàu khoan hoạt động trong vùng biển Việt Nam).
Thực tế cũng cho thấy tình thế tranh chấp ngày một phức tạp nhất là sau sự kiện 26/5 vừa
qua: TQ cắt cáp tàu Bình minh của Việt Nam khi đang trong quá trình thăm dò dầu khí.
Trước những phản ứng quyết liệt từ Việt Nam, TQ đã khẳng định việc cắt cáp là do lỗi từ
phía ta. Tới vụ việc gần đây nhất, ngày 9/5, TQ tiếp tục cắt cáp tàu Việt Nam và cho rằng
VN đã hành động sai, VN ngang ngược làm rùm beng vấn đề tranh chấp BĐ giữa hai
nước nhằm kích động các nước phương Tây chống lại TQ và phê phán ta vi phạm hiệp
định giữa hai nước v.v…
Thực sự khó có thể sự đoán được quan hệ chiến lược giữa VN- TQ thời gian tới sẽ diễn
biến ra sao. Nguyên tắc 16 chữ: “ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lại và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” có hiệu quả và
phát huy tác dụng nhằm giúp kiềm chế hai bên, giải quyết tranh chấp bằng con đường
đàm phán? Khuôn khổ quan hệ VN- TQ: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định
lâu dài, hướng tới tương lai còn nhiều nhân tố cản trở. Chúng tôi cho rằng, khả năng hai
nước vừa hợp tác vừa cạnh tranh trong phát triển và đấu tranh trong giải quyết các vấn đề
biên giới lãnh thổ vẫn là hai nhân tố chính quan trọng chi phối quan hệ hai nước đặc biệt
là vấn đề tranh chấp Biển Đông.
Kết luận

Thông qua việc tìm hiểu mô hình quan hệ đối tác chiến lược giữa nước lớn- lớn và nước
lớn- nhỏ cùng với sự so sánh giữa hai mô hình quan hệ đối tác chiến lược cụ thể Trung-
Mỹ và Trung- Việt, chúng tôi hy vọng phần nào đã làm sáng tỏ những vấn đề căn bản khi
tìm hiểu về đề tài mô hình quan hệ đối tác chiến lược rằng tại sao các nước hợp tác chiến
lược với nhau; các hình thức hợp tác là gì? Qua đó thấy được hiệu quả thực tế và triển
vọng của mô hình quan hệ đối tác chiến lược. Thực tế mà nói, “ Tìm đến nhau mới chỉ là
bước khởi đầu. Sát cánh bên nhau là một bước tiến. Làm việc cùng nhau là thành công”
( Henry Fofd)
3
. Hợp tác nói thì rất dễ nhưng để đạt hiệu quả và thành công thì không phải
dễ dàng chưa kể hợp tác để hướng tới đối tác chiến lược của nhau. Hy vọng rằng những
hạn chế còn tồn tại giữa hai mô hình đối tác trên nói riêng và mô hình đối tác chiến lược
nói chung sẽ được dần được khắc phục bởi chính những nỗ lực của các chủ thể tham gia,
cùng hướng tới mô hình “ đối tác chiến lược” theo đúng nghĩa thực của nó.






3
Alan McLennan, “ Building Stragegic partnership”, www.gadens.com.au




DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Sách, Tạp chí và Khóa luận tốt nghiệp
1. Khóa luận tốt nghiệp sv hvng: quan hệ đối tác chiến lược Mỹ-Trung
2. Khóa luận tốt nghiệp sv hvng: quan hệ đối tác chiến lược Trung- Việt

3. Lý thuyết quan hệ đối tác chiến lược
II. Sách tiếng anh
1. Building strategic model between US and China
2. Gerrit W. Grong Bih jawlin (Edt)- American Relations at a time of Change. Centre
of Strategic and International Studies- Washington, D.C1994.
3. Richard Bernstein & Ross H.Muro: Coming Battle with China. Alfred A. Knof,
USD,1997.
1. Các trang Web
1. Alan McLennan, “ Building Stragegic partnership”, www.gadens.com.au
2. />174020/ns050530173243
3.
4.





×