Tải bản đầy đủ (.docx) (139 trang)

Hoàn thiện hoạch toán thụ và xác định kết quả tiêu thụ thành phẩm tại công ty cổ phần dược phẩm trung ương 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.7 KB, 139 trang )

Khoá luận tốt nghiệp - 1 -
LỜI NÓI ĐẦU
Xây dựng cơ bản là một trong những ngành sản xuất có vị trí hết sức
quan trọng tạo cơ sở vật chất cho nền kinh tế, góp phần không nhỏ trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong những năm qua, được sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, ngành xây dựng Việt Nam đã phát triển
hết sức nhanh chóng, hàng năm chi phí đầu tư cho xây dựng cơ bản luôn
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của cả nước về quy mô và chất
lượng.
Bên cạnh đó, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, mục tiêu
tối đa hoá lợi nhuận luôn là mục tiêu cơ bản của các doanh nghiệp, nó chi
phối mọi hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, để tồn tại và phát triển, các
doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp xây lắp nói
riêng phải sử dụng đồng vốn hiệu quả nhất, kiểm soát tốt, tiết kiệm tối đa chi
phí sản xuất để có thể bỏ thầu với mức giá hợp lý nhưng vẫn phải đảm bảo
chất lượng các công trình. Do đó, việc kế toán chính xác, khoa học chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp có vị trí đặc biệt quan trọng và ý
nghĩa vô cùng to lớn trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thực tế thời gian qua, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp đã phát huy được tác dụng nhất định trong quản lý. Tuy
nhiên, các quan điểm và phương pháp kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp còn có nhiều hạn chế do nhận thức theo tư duy cũ, có
tính chất truyền thống chưa thay đổi kịp với nền kinh tế thị trường, phản ánh
chưa đầy đủ thực trạng của quá trình sản xuất. Vì vậy, kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm xây lắp chưa thực sự là cơ sở tin cậy để đánh giá
kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 2 -
Với những lý do trên, việc tổ chức hợp lý và khoa học quá trình kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp
xây lắp đang là một yêu cầu bức xúc không chỉ với bản thân doanh nghiệp mà


còn là yêu cầu nâng cao chất lượng quản lý kinh tế. Hơn nữa, tổ chức kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp chính xác cũng chính là
biện pháp để sử dụng vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách Nhà nước có hiệu quả
tránh thất thoát lãng phí.
Nhận thức rõ vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác kế toán nói
chung, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp nói riêng,
cùng với thời gian thực tập tại Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu và sự
hướng dẫn tận tình của cô giáo Th.S Trần Thu Phong, em đã lựa chọn nghiên
cứu v à vi ết đ ề t ài: “ Kế toán chi phí sản xuất v à t ính giá thành sản phẩm
xây lắp t ại Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu” .
N ội dung c ủa kho á lu ận g ồm ba ph ần:
Ph ần I: Nh ững v ấn đ ề l ý lu ận chung v ề kế toán chi phí sản xuất v à
t ính giá thành sản phẩm t rong doanh nghi ệp xây lắp.
Ph ần II: Th ực tr ạng kế toán chi phí sản xuất v à t ính giá thành sản
phẩm xây lắp t ại Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu.
Ph ần III: M ột s ố ý ki ến ho àn thi ện kế toán chi phí sản xuất v à t ính
giá thành sản phẩm xây lắp t ại Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu.
M ặc d ù đ ã c ó nh ững c ố g ắng t ìm hi ểu v à đ ư ợc s ự gi úp đ ỡ t ận t ình c ủa c ô
gi áo, c ác anh ch ị t ại ph òng kế toán Xí nghiệp Cơ khí và Xây lắp xăng dầu
nh ưng do tr ình đ ộ v à nh ận t h ức c òn h ạn ch ế n ên b ài kho á lu ận c ủa em c òn
nhi ều thi ếu s ót. V ì v ậy em k ính mong c ác th ầy c ô gi áo đ óng g óp ý ki ến đ ể b ài
kho á lu ận c ủa em đ ư ợc ho àn th i ện h ơn.
Em xin ch ân th ành c ảm ơn!
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 3 -
PH ẦN I:
NH ỮNG V ẤN Đ Ề L Ý LU ẬN CHUNG V Ề
K Ế TO ÁN CHI PH Í S ẢN XU ẤT V À
T ÍNH GI Á TH ÀNH S ẢN PH ẨM X ÂY L ẮP
1.1 Đ ặc đi ểm ho ạt đ ộng kinh doanh xây lắp c ó ảnh h ư ởng đ ến h ạch to án chi

phí sản xuất v à t ính giá thành sản phẩm.
1.1.1 Đặc điểm sản phẩm xây lắp của ngành xây dựng và ảnh
hưởng của nó tới việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm
Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất mang tính chất công
nghiệp với chức năng tái sản xuất tài sản cố định cho tất cả các ngành trong
nền kinh tế quốc dân. Sản phẩm của ngành xây dựng là công trình, hạng mục
công trình, vật kiến trúc… được tiến hành một cách liên tục từ khâu thăm dò,
điều tra, khảo sát đến thiết kế thi công và quyết toán công trình khi hoàn
thành. Như vậy, cũng giống như một số ngành sản xuất công nghiệp khác, sản
xuất xây dựng cơ bản cũng có tính chất dây chuyền, giữa các khâu của hoạt
động sản xuất có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nếu một khâu ngưng trệ sẽ
ảnh hưởng đến hoạt động của các khâu khác. Tuy nhiên, sản xuất xây lắp có
những đặc điểm riêng sau:
Sản phẩm xây lắp có tính chất cố định, nơi sản xuất gắn liền với nơi tiêu
thụ sản phẩm, phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện địa chất, thuỷ văn, khí hậu.
Đặc điểm này cho thấy:
- Nơi tiêu thụ sản phẩm cố định
- Nơi sản xuất biến động nên lực lượng sản xuất thi công (lao động,
thiết bị thi công, phục vụ thi công, vật tư kỹ thuật…) luôn luôn di động.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 4 -
Chất lượng và giá cả (chi phí xây lắp) sản phẩm chịu ảnh hưởng trực tiếp
của các điều kiện tự nhiên. Do vậy để giảm thiểu lãng phí, thất thoát cho
nguyên nhân khách quan bởi các tác động trên đòi hỏi trước khi xây lắp công
trình phải làm thật tốt công tác chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị xây lắp. Công tác
điều tra khảo sát, thăm dò các điều kiện tự nhiên không chính xác sẽ dẫn đến
lãng phí nghiêm trọng vì thiết kế công trình, dự án không đảm bảo đúng yêu
cầu các quy phạm kỹ thuật, kết cấu phù hợp với các quy phạm kỹ thuật, kết
cấu phù hợp với các điều kiện và đặc điểm tự nhiên, chất lượng công trình

kém.
Đặc điểm này đòi hỏi cần có giải pháp tài chính để kiểm tra việc sử dụg
và quản lý vốn đầu tư ngay từ khâu đầu tiên là xác định chủ trương đầu tư, lựa
chọn địa điểm, điều tra khảo sát, thăm dò… để dự án đầu tư đảm báo tính khả
thi cao.
Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản phẩm
có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động của các ngành khác.
Sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác là vật phẩm tiêu dùng
(dùng cho sản xuất hay dùng cho đời sống sinh hoạt của con người, của xã
hội) có thời gian sử dụng rất ngắn như: nguyên vật liệu dùng vào sản xuất để
sau đó biến đổi thành bán thành phẩm và thành phẩm. Sản phẩm xây lắp với
tư cách là công trình xây lắp đã hoàn thành mang tính chất là tài sản cố định
nên nó có thời gian sử dụng rất lâu dài và tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất,
sử dụng nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu cho tới khi thanh lý.
Từ đặc điểm này đòi hỏi chất lượng công trình phải tốt, muốn vậy phải chú
trọng nâng cao công tác quản lý kinh tế, quản lý tài chính và chất lượng xây
lắp ở trong tất cả các khâu công tác: điều tra, khảo sát, lập dự án đầu tư, thiết
kế, thực hiện tốt quy chế đấu thầu, thi công, thanh toán vốn đầu tư, nghiệm
thu, quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành và chế độ bảo hành công trình.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 5 -
Do đặc điểm thời gian sử dụng dài, tuổi thọ cao nên sai lầm trong xây lắp
sẽ gây tổn thất lớn cả về giá trị (chi phí xây lắp công trình) và chất lượng công
trình, từ đó gây hậu quả trước mắt và lâu dài. Do đó, trong quá trình thực hiện
phải giám sát chặt chẽ mọi chi phí phát sinh ở từng giai đoạn xây lắp và giám
sát chất lượng công trình. Đó là công việc thường xuyên, hàng ngày, theo
từng giai đoạn, thông qua công tác thanh quyết toán để kiểm tra giám sát chất
lượng công trình, đảm bảo việc sử vốn đúng mục đích, có hiệu quả.
Sản phẩm xây lắp mang tính tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hoá
nghệ thuật và quốc phòng.

Đặc điểm này có thể dẫn đến phát sinh các mâu thuẫn, mất cân đối trong
quan hệ phối hợp đồng bộ giữa các khâu công tác từ quá trình chuẩn bị đầu
tư, chuẩn bị xây dựng cũng như quá trình thi công. Để khắc phục thất thoát,
lãng phí có thể xảy ra chẳng những phải thận trọng về chủ trương mà đòi hỏi
phải có trình độ tổ chức, phối hợp các khâu từ công tác thẩm định dự án, thẩm
định đấu thầu xây dựng, đấu thầu mua sắm thiết bị, kiểm tra chất lượng từng
loại khối lượng theo kết cấu công trình trong quá trình thi công… đến khi
nghiệm thu khối lượng thực hiện từng phần, tổng nghiệm thu và quyết toán
dự án hoàn chỉnh và đưa vào khai thác sử dụng.
Sản phẩm xây lắp có tính chất đơn chiếc, riêng lẻ.
Mỗi sản phẩm đều có thiết kế riêng theo yêu cầu của nhiệm vụ thiết kế.
Mỗi công trình có yêu cầu riêng về công nghệ, về quy phạm, về tiện nghi, về
mỹ quan, về an toàn. Do đó khối lượng, chất lượng và xp xây lắp của mỗi
công trình đều khác nhau, mặc dù về hình thức có thể giống nhau khi xây lắp
trên những địa điểm khác nhau.
Từ đặc điểm này cho thấy, sản phẩm xây lắp xó thể giống nhau về hình
thức nhưng về kết cấu, quy phạm thì không giống nhau hoàn toàn nếu xây lắp
ở những địa điểm khác nhau. Chính vì vậy mà mặc dù có thể sản xuất hàng
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 6 -
loạt theo mẫu thiết kế thống nhất nhưng chi phí xây lắp không thống nhất.
Mỗi công trình, dự án đầu tư đều bị chi phối bởi các điều kiện, đặc điểm tự
nhiên yêu cầu khác nhâu nên chi phí xây lắp cũng khác nhau.
1.1.2 Đặc điểm của quá trình sản xuất xây lắp và ảnh hưởng
của nó tới việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Địa điểm sản xuất không cố định
Khi chọn địa điểm xây dựng phải điều tra nghiên cứu khảo sát thật kỹ về
điều kiện kinh tế, địa chất, thuỷ văn, kết hợp với các yêu cầu về phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội trước mắt cũng như lâu dài. Sau khi đi vào sử dụng,
công trình không thể di dời cho nên nếu công trình là nhà máy, Xí nghiệp cần

nghiên cứu các điều kiện về nguồn cung cấp nguyên vật liệu, nguồn lực lao
động, nguồn tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo điều kiện thuận lợi khi công trình đi
vào hoạt động sản xuất kinh doanh sau này.
Một công trình xây dựng cơ bản hoàn thành điều đó có nghĩa là người
công nhân xây dựng phải chuyển đến thi công ở một công trình khác. Do đó,
sẽ phát sinh các chi phí như điều động công nhân, máy móc thi công, chi phí
về xây dựng các công trình tạm thời cho công nhân và cho máy móc thi công.
Cũng do đặc điểm này mà các đơn vị xây lắp thường sử dụng lực lượng
lao động thuê tại chỗ để giảm bớt chi phí khi di dời.
Thời gian xây lắp công trình kéo dài
Các công trình xây dựng cơ bản thường có thời gian sử dụng dài nên mọi
sai lầm trong quá trình thi công thường khó sửa chữa phải phá đi làm lại. Sai
lầm trong xây dựng cơ bản vừa gây lãng phí, vừa để lại hậu quả có khi rất
nghiêm trọng, lâu dài và khó khắc phục. Do đặc điểm này mà trong quá trình
thi công cần phải thường xuyên kiểm tra giám sát chất lượng công trình.
Sản xuất tiến hành ngoài trời, chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi điều kiện
thiên nhiên, điều kiện làm việc nặng nhọc.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 7 -
Do đặc điểm này, trong quá trình thi công cần tổ chức quản lý lao động,
vật tư chặt chẽ, đảm bảo thi công nhanh, đúng tiến độ khi điều kiện thời tiết
thuận lợi. Trong điều kiện thời tiết không thuận lợi ảnh hưởng đến chất lượng
thi công, có thể sản xuất phát sinh các khối lượng các công trình phải phá đi
làm lại và các thiệt hại phát sinh do ngừng sản xuất, doanh nghiệp cần có kế
hoạch điều độ cho phù hợp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành.
Kỹ thuật thi công phức tạp, trang bị kỹ thuật tốn kém.
Trong quá trình thi công xây lắp thường có nhiều đơn vị tham gia, nhiều
thành phần kinh tế tham gia thực hiện phần việc của mình theo một trình tự
nhất định về thời gian và không gian trên một mặt bằng thi công chật hẹp nên
đòi hỏi các doanh nghiệp phải có trình độ phối hợp cao trong sản xuất để đảm

bảo tiến độ thi công và chất lượng công trình.
Vấn đề trang thiết bị kỹ thuật dùng trong quá trình sản xuất xây lắp nhiều
khi đòi hỏi những máy móc kỹ thuật hiện đại, giá trị vật chất lớn. Trong
những trường hợp như vậy doanh nghiệp xây lắp có thể lựa chọn một trong
hai phương án sau: một là doanh nghiệp bỏ ra một số vốn lớn để đầu tư mua
sắm máy móc thiết bị thi công, hai là đi thuê của đơn vị khác về sử dụng.
Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có tính toán cụ thể và so sánh lựa chọn
phương án nào là tốt hơn nhất để đảm bảo máy móc thiết bị phục vụ sản xuất
kịp thời đầy đủ, tiêu tốn chi phí thấp nhất nhưng đạt hiệu quả sản xuất tối ưu
nhất.
Sản xuất xây lắp mang tính chất đơn chiếc theo đơn đặt hàng.
Sản phẩm xây lắp không có sự giống nhau hoàn toàn, không thể tiến
hành sản xuất hàng loạt mà phải sản xuất từng chiếc theo đơn đặt hàng thông
qua hình thức ký kết hợp đồng sau khi thắng thầu (hoặc do thầu trong trường
hợp chỉ định thầu). Sau khi sản phẩm hoàn thành thì không cần thiết phải tìm
thị trường để bán sản phẩm. Sản xuất xây lắp chỉ tiến hành khi đã được chủ
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 8 -
đầu tư chấp nhận và ký hợp đồng giao nhận thầu. Trong quá trình thi công
công trình được thực hiện với sự tham gia giám định kỹ thuật của người mua.
1.1.3 Mục tiêu kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp
Trong doanh nghiệp xây lắp thông tin chi phí và giá thành xây lắp giữ
vai trò quan trọng trong hệ thống thông tin của doanh nghiệp. Ngày này với
những tiến bộ kỹ thuật, phương thức quản lý và sự toàn cầu hoá kinh tế, mở
rộng phạm vi cạnh tranh thì sự tăng nhanh nhu cầu, tính tốc độ, tính linh hoạt,
chính xác của thông tin chi phí ngày càng bức thiết hơn cho việc đưa ra các
quyết định kinh tế liên quan đến giá vốn, giá bán, lợi nhuận, kiểm soát, hoàn
thiện định mức chi phí của các nhà quản trị doanh nghiệp.
Như vậy, cung cấp thông tin chi phí sản xuất và tính giá thành xây lắp

chính là mục tiêu của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây
lắp. Điều này được thể hiện rõ hơn qua ba mục tiêu chính sau:
- Việc cung cấp thông tin chi phí sản xuất và tính giá thành xây lắp để
phục vụ cho việc định giá thành các công trình, đưa ra được mức giá thầu nhỏ
hơn tổng dự toán được duyệt nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng công trình
cũng như lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Việc cung cấp thông tin chi phí sản xuất và tính giá thành xây lắp
phục vụ tốt hơn quá trình kiểm soát chi phí, bảo đảm tính tiết kiệm hiệu quả
và gia tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Việc cung cấp thông tin chi phí sản xuất và tính giá thành xây lắp
nhằm phục vụ cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống định mức chi phí, cũng
như phục vụ cho việc kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí
sản xuất và tính giá thành xây lắp từ đó thiết lập được các đòn bẩy kinh tế.
1.1.4 Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 9 -
Chi phí sản xuất xây lắp và tính giá thành sản phẩm xây lắp là hai mặt
của quá trình sản xuất, nó là chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất
của doanh nghiệp. Trong công tác quản lý thông qua các thông tin về chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp, những nhà quản lý nắm được chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm thực tế của từng công trình, hạng mục
công trình để phân tích đánh giá tình hình thực hiện các định mức kinh tế kỹ
thuật, các dự toán chi phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành để có các
quyết định đúng đắn nhằm quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất, tiết kiệm chi phí
sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. Kế toán là công cụ quản lý kinh tế quan
trọng được tổ chức ở các doanh nghiệp cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Căn cứ vào đặc điểm tổ chức quản lý và quy trình công nghệ để xác
định chính xác đối tượng tập hợp chi phí và phương pháp kế toán chi phí hợp
lý.

- Ghi chép tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chính xác cho từng đối
tượng tập hợp chi phí, trên cơ sở đó kế toán tình hình thực hiện định mức chi
phí và dự toán chi phí, kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chi phí phát sinh.
- Xác định đối tượng tính giá thành, lựa chọn phương pháp tính giá
thành thích hợp. Tính toán chính xác giá thành thực tế của công trình, hạng
mục công trình, kiểm tra tình hình thực hiện giá thành của doanh nghiệp.
- Xác định đúng đắn, bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng công tác
xây lắp hoàn thành. Định kỳ kiểm tra, đánh giá khối lượng thi công dở dang
theo nguyên tắc quy định.
- Xác định đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng
công trình, từng tổ đội thi công trong thời kỳ nhất định. Kịp thời lập báo cáo
kế toán về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Cung cấp
chính xác, nhanh chóng các thông tin hữu dụng về chi phí sản xuất và giá
thành phục vụ cho yêu cầu quản lý của lãnh đạo.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 10 -
1.2 Các vấn đề về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các
doanh nghiệp xây lắp
Do đặc thù hoạt động của các doanh nghiệp xây lắp, do đặc điểm của
các sản phẩm xây lắp mà trong việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm ở các doanh nghiệp xây lắp cần phải thực hiện theo những
đặc điểm và yêu cầu riêng của ngành xây lắp.
Về kế toán chi phí nhất thiết phải được phân tích chi tiết theo từng khoản
mục chi phí, từng hạng mục công trình hoặc là công trình theo từng đối tượng
cụ thể nhằm mục đích so sánh, kiểm tra việc thực hiện dự toán chi phí, đồng
thời để xem xét, đánh giá hiệu quả trong kinh doanh xây lắp. Đối tượng hạch
toán chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp là các công trình, hạng mục công
trình, các đơn đặt hàng trong các giai đoạn công việc của từng hạng mục công
trình.
Đặc biệt, đối với giá thành các công trình lắp đặt không bao gồm giá trị

thiết bị do chủ đầu tư bỏ ra đưa vào lắp đặt mà chỉ tính đến những thiết bị, chi
phí do doanh nghiệp xây lắp bỏ ra. Như vậy, về giá thành xây dựng và lắp đặt
chỉ bao gồm giá trị xây dựng và các thiết bị chính kèm theo (theo yêu cầu đặt
hàng, theo thiết kê).
1.2.1 Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp
1.2.1.1 Khái niệm, nội dung, bản chất kinh tế của chi phí sản xuất sản phẩm
xây lắp
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp là quá trình biến
đổi một cách có ý thức, có mục đích các yếu tố đầu vào tạo thành các công
trình, hạng mục công trình, các sản phẩm lao vụ…
Các yếu tố về tư liệu sản xuất, đối tượng lao động (biểu hiện cụ thê là
hao phí về lao động vật hoá) dưới sự tác động có mục đích của sức lao động
(biểu hiện cụ thể là hao phí về lao động sống) qua quá trình biến đổi sẽ trở
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 11 -
thành các công trình, hạng mục công trình… Để đo lường các hao phí mà
doanh nghiệp bỏ ra trong từng thời kỳ sản xuất kinh doanh nhằm tổng hợp,
xác định kết quả đầu ra, phục vụ yêu cầu quản lý. Mọi hao phí đều được thể
hiện bằng thước đo tiền tệ gọi là chi phí sản xuất kinh doanh.
Vậy, Chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp xây lắp là biểu
hiện bằng tiền những hao phí lao động sống và lao động vật hoá mà mọi
doanh nghiệp xây lắp bỏ ra trong quá trình sản xuất thi công và bàn giao sản
phẩm xây lắp trong một thời kỳ nhất định.
Đứng trên góc độ nghiên cứu và quản lý khác nhau thì chi phí sản xuất
cũng có những cách hiểu khác nhau:
- Đối với nhà quản lý doanh nghiệp: Chi phí sản xuất kinh doanh là
tổng số tiền phải bỏ ra để mua các yếu tố cần thiết tạo ra sản phẩm, dịch vụ
mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp.
- Đối với kế toán: Chi phí sản xuất kinh doanh gắn liền với một kỳ sản
xuất kinh doanh nhất định và phải là chi phí thực.

Như vậy, nhận thức chi phí có thể khác nhau về quan điểm và hình thức
thể hiện chi phí nhưng tất cả đều thừa nhận vấn đề chung: Chi phí là phí tổn
tài nguyên, vật chất, lao động và phải phát sinh gắn liền với mục đích sản xuất
kinh doanh.
Đây chính là bản chất kinh tế của chi phí sản xuất, nó giúp các nhà quản
trị phân biệt được chi phí với chi tiêu:
Theo khái niệm về chi phí sản xuất như đã nêu ở trên thì chỉ được tính là
chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan
đến khối lượng sản phẩm xây lắp làm ra trong kỳ hạch toán. Như vậy, về
phương diện kê toán, nó được ghi vào bên Nợ của tài khoản chi phí.
Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền
vốn của doanh nghiệp bất kỳ nó được dùng vào mục đích gì. Về phương diện
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 12 -
kế toán, nó được ghi vào bên Có của tài khoản tài sản. Tổng số chi tiêu của
một doanh nghiệp trong kỳ bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi mua
sắm vật tư…), chi tiêu cho quá trình kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản
phẩm, công tác quản lý…) và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ.
Mặc dù chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ
mật thiết với nhau, trong đó chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có
chi tiêu thì không có chi phí. Chi tiêu chỉ được coi là chi phí khi khoản chi
tiêu đó được sử dụng ngay vào quá trình sản xuất trong kỳ. Tỏng số chi phí
trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu
dùng hết cho quá trình sản xuất xây lắp tính vào kỳ này. Chi phí và chi tiêu
không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian, có những
khoản chi tiêu kỳ này tính vào chi phí kỳ sau (chẳng hạn xuất công cụ dụng
cụ nhưng phân bổ vào chi phí nhiều kỳ, chi mua nguyên vật liệu về nhập kho
nhưng chưa sử dụng…) và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng
thực tế chưa chi tiêu (chi phí phải trả).
Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi phí và chi tiêu trong các doanh nghiệp là

do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức dịch chuyển giá trị của từng
loại tài sản vào quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp và yêu cầu kỹ thuật hạch
toán của chúng.
Chi phí sản xuất gắn liền với việc sử dụng tài sản, vật tư, lao động, tiền
vốn. Vì thế quản lý chi phí sản xuất thực chất là việc quản lý việc sử dụng
hợp lý, tiết kiệm các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn của doanh nghiệp
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, chi phí sản xuất là cơ sở tạo
nên giá thành sản phẩm xây lắp là các công trình, hạng mục công trình hoàn
thành nên quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất là mục tiêu hạ giá thành sản phẩm
xây lắp.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 13 -
Việc tập hợp chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp cần phải được tiến hành
trong những khoảng thời gian nhất định không phân biệt sản phẩm đã hoàn
thành hay chưa.
Để quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được chặt chẽ,
làm cơ sở cho việc phân tích quá trình phát sinh chi phí sản xuất hình thành
giá thành sản phẩm cũng như kết cấu tỷ trọng của chi phí sản xuất, người ta
cần tiến hành phân loại chi phí.
1.2.1.2 Phân loại chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh là việc sắp xếp chi phí sản xuất
kinh doanh vào từng loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất
định. Việc phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học, hợp lý là tiền đề của
việc kiểm tra, phân tích chi phí, thúc đẩy việc quản lý chặt chẽ chi phí để tiến
tới tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Hiện nay mỗi doanh nghiệp có
các cách phân loại khác nhau nhưng nhìn chung có 9 cách phân loại sau:
a) Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí (phân loại chi phí theo nội dung kinh tế):
Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia ra thành
các yếu tố sau:
- Chi phí nguyên vật liệu : là toàn bộ chi phí về các loại nguyên vật liệu

chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ
bản mà doanh nghiệp đã sử dụng trong quá trình sản xuất sản phẩm.
- Chi phí nhân công : Là toàn bộ tiền công, tiền lương phải trả, các
khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân sản xuất trong doanh
nghiệp.
- Chi phí công cụ, dụng cụ : Là phần giá trị hao mòn của các loại công
cụ, dụng cụ trong quá trình xây lắp.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 14 -
- Chi phí khấu hao tài sản cố định : Là toàn bộ số tiền trích khấu hao tài
sản cố định (giá trị bộ phận tài sản cố định bị hao mòn) sử dụng vào hoạt
động xây lắp của doanh nghiệp.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài : Là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp phải
trả về các loại dịch vụ mua bên ngoài sử dụng vào quá trình xây lắp của
doanh nghiệp như tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại…
- Chi phí khác bằng tiền : Là toàn bộ khoản chi phí phát sinh trong quá
trình xây lắp của doanh nghiệp ngoài các yếu tố trên và được thanh toán bằng
tiền. Ngoài ra chi phí khác bằng tiền còn bao gồm các khoản chi phí bảo hành,
chi phí bảo hiểm cho các công trình xây lắp trong nhiều năm.
Ý nghĩa của việc phân loại chi phí theo yếu tố chi phí:
Cách phân loại này giúp cho các nhà quản trị có được thông tin về kết
cấu, tỷ trọng của từng loại yếu tố chi phí mà doanh nghiệp đã chi trong hoạt
động kinh doanh nhằm phục vụ cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn
lưu động, việc lập, phân tích và đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí
sản xuất cũng như có kế hoạch cung ứng vật tư.
b) Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm (phân loại
theo công dụng kinh tế):
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành xây lắp và để thuận tiện
cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo khoản mục. Cách
phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng

đối tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành sản phẩm sản phẩm xây lắp ở
Việt Nam gồm các khoản mục chi phí sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên
vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu... thực tế sử dụng trong quá
trình xây lắp cho từng công trình, hạng mục công trình.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 15 -
- Chi phí nhân công trực tiếp : Bao gồm tiền lương, phụ cấp lương trả
cho công nhân trong danh sách mà doanh nghiệp quản lý và lao động thuê
ngoài sử dụng trực tiếp vào trong quá trình xây lắp. Trong doanh nghiệp xây
dựng khi hạch toán chi phí nhân công trực tiếp sản xuất không bao gồm các
khoản trích theo lương và tiền ăn giữa ca của công nhân trực tiếp xây lắp.
- Chi phí máy thi công: Là toàn bộ chi phí có liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp đến quá trình vận hành máy thi công tại công trường. Chi phí này
cũng không bao gồm BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân vận hành máy thi
công.
- Chi phí sản xuất chung: Đối với ngành xây dựng, chi phí sản xuất
chung là những chi phí phát sinh trong phạm vi công trường, đội xây lắp (trừ
chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí máy thi công).
Ngoài ra, nó còn bao gồm lương nhân viên quản lý đội, chi phí BHXH,
BHYT, KPCĐ, tiền ăn giữa ca của toàn bộ công nhân trong đội.
Khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ (giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu gr còn
bao gồm cả hai khoản mục sau:
- Chi phí bán hàng : Là những chi phí bảo đảm cho việc thực hiện chiến
lược, và chính sách bán hàng của doanh nghiệp.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp : Bao gồm chi phí liên quan đến công
việc hành chính, quản trị ở phạm vị toán doanh nghiệp. Ngoài ra, chi phí quản
lý doanh nghiệp còn bao gồm cả những chi phí mà không thể ghi nhận vào
các khoản mục chi phí nói trên.
Ý nghĩa cách phân loại này:

Cách phân loại này giúp cho các nhà quản lý, kế toán thấy được vai trò,
vị trí chi phí trong hoạt động doanh nghiệp. Trên cơ sở đó giúp nhà quản lý
đánh giá được kết cấu chi phí trong sản xuất kinh doanh, xây dựng dự toán
theo khoản mục. Đồng thời giúp cho kế toán xác định tốt hơn mối quan hệ
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 16 -
chuyển đổi giữa chi phí đầu vào và chi phí sản phẩm. Hơn nữa cách phân loại
này cũng giúp nhà quản trị xác định được giá thành sản phẩm và giá thành
toàn bộ để từ đó có kế hoạch, chính sách hợp lý thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm
nhằm bù đắp chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
c) Phân loại chi phí theo chức năng trong sản xuất kinh doanh:
Dựa vào chức năng của các hoạt động trong quá trình sản xuất kinh
doanh và chi phí liên quan đến việc thực hiện chức năng mà chi phí sản xuất
kinh doanh được chia làm 3 loại:
- Chi phí sản xuất : Là những chi phí phát sinh liên quan đến việc chế
tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ trong phạm vi phân xưởng. Nó
bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí
sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung.
- Chi phí tiêu thụ : Bao gồm toàn bộ chi phí cần thiết để đảy mạnh quá
trình lưu thông hàng hoá, đảm bảo việc đưa hàng hoá đến tay người tiêu dùng.
- Chi phí quản lý : Là những chi phí liên quan đến việc tổ chức hành
chính và các hoạt động văn phòng của doanh nghiệp.
Trong đó, chi phí tiêu thụ và chi phí quản lý cũng được coi là chi phí
ngoài sản xuất.
Ý nghĩa của cách phân loại này:
Cách phân loại này là cơ sở xây dựng giá thành và giá thành toàn bộ.
Phân loại chi phí theo chức năng cũng giúp xác định rõ vai trò, chức năng
hoạt động của chi phí trong quá tình hoạt động sản xuất kinh doanh ở các
doanh nghiệp đồng thời cung cấp thông tin một cách hệ thống cho việc lập
báo cáo tài chính. Việc phân biệt chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất

cũng giúp cho nhà quản trị xây dựng kế hoạch tăng giảm chi phí ngoài sản
xuất ở các giai đoạn khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đẩy mạnh
tiêu thụ sản phẩm.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 17 -
d) Phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển chi phí:
Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia
thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
- Chi phí sản phẩm : Là những chi phí gắn liền với công trình được thi
công xây dựng, bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp, chi phí máy thi công và chi phí sản xuất chung. Như vậy, chi phí sản
phẩm luôn gắn liền với sản phẩm và chỉ được thu hồi khi sản phẩm tiêu thụ.
- Chi phí thời kỳ : Bao gồm những khoản chi phí phát sinh trong kỳ
hạch toán và nó không phải là một phần giá trị sản phẩm xây lắp được sản
xuất. Vì vậy, chi phí này được xem là phí tổn cần được khấu trừ ra từ lợi tức
của thời kỳ mà chúng phát sinh. Chi phí này gồm chi phí bán hàng và chi phí
quản lý doanh nghiệp.
Ý nghĩa của cách phân loại này:
Chi phí thời kỳ phát sinh ở thời kỳ nào thì giảm lợi tức của kỳ đó nên
nếu trong kỳ không tiêu thụ được sản phẩm tức là không có doanh thu thì
không thể bù đắp được chi phí này. Như vậy, tiêu thụ sản phẩm không chỉ
nhằm mục đích bù đắp chi phí sản phẩm mà còn tạo ra donah thu để bù đắp
chi phí thời kỳ. Vì vậy phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển chi phí
giúp cho nhà quản trị thấy được ý nghĩa quyết định của tiêu thụ sản phẩm,
thúc đẩy họ đưa ra biện pháp hữu hiệu nhất nhằm tiêu thụ sản phẩm đồng thời
sử dụng có hiệu quả và giảm chi phí thời kỳ để đạt được lợi nhuận cao nhất.
e) Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí:
Theo cách phân loại này thì toàn bộ chi phí của doanh nghiệp được phân
thành 3 loại sau:
- Định phí : Là các chi phí mà tổng số không thay đổi khi có sự thay đổi

về khối lượng của hoạt động sản xuất hoặc khối lượng sản phẩm sản xuất
trong kỳ.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 18 -
- Biến phí : Là những chi phí thay đổi về tổng số tỷ lệ theo mức thay đổi
của mức độ hoạt động, khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ.
- Chi phí hỗn hợp : Là những chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí lẫn
định phí như chi phí điện, nước, điện thoại… ở mức độ hoạt động căn bản.
Chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điẻm của định phí, quá mức độ đó nó thể hiện
đặc điểm của biến phí.
Ý nghĩa của cách phân loại này:
Cách phân loại này có ý nghĩa rất lớn đối với nhà quản trị. Trước hết nó
thúc đẩy nhà quản trị tăng năng suất lao động tức là tăng năng lượng sản
phẩm sản xuất trong một đơn vị thời gian nhằm giảm định phí. Thứ hai nó
được sử dụng để lập báo cáo quản trị cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập
kế hoạch, kiểm tra và chủ động điều tiết chi phí cho phù hợp. Bên cạnh đó do
cách phân loại này giúp cho nhà quản trị xác định được sản lượng hoà vốn,
doanh thu hoà vốn và đòn bẩy kinh doanh tạo điều kiện cho họ đưa được các
quyết định ngắn hạn nhanh chóng, chính xác khi có sự thay đổi về mức độ
hoạt động.
Sản lượng hoà vốn =
Tổng định phí
Số dư đảm phí
Doanh thu hoà vốn =

Độ lớn đòn bẩy kinh doanh =
Số dư đảm phí
Thu nhập thuần
Trong đó:
Nguyễn Phương Nga – KT13041

Khoá luận tốt nghiệp - 19 -
Số dư đảm phí = Doanh thu - Biến phí
Tỷ lệ số dư
đảm phí
=
Số dư đảm
phí
Doanh thu
x 100
f) Phân loại chi phí theo quan hệ với quá trình sản xuất (phân loại chi phí theo
phương pháp quy nạp):
Theo cách phân loại này, chi phí được phân thành hai loại là:
- Chi phí trực tiếp : Là chi phí phát sinh liên quan trực tiếp đến từng đối
tượng chịu chi phí, có thể quy nạp trực tiếp vào từng đối tượng chịu chi phí.
- Chi phí gián tiếp : Là những chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đói
tượng chi phí như chi phí nguyên vật liệu phụ, chi phí nhân công phụ, chi phí
quảng cáo… Với chi phí gián tiếp, nguyên nhân gây ra chi phí và đối tượng
chịu chi phí rất khó nhận dạng. Vì vậy thường phải tập hợp chung, sau đó lựa
chọn tiêu thức phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí.
Ý nghĩa của cách phân loại này:
Trước hết, do chi phí trực tiếp liên quan đến từng đối tượng chịu chi phí
và thông tin ít sai lệch nên giúp cho các nhà quản trị xác định tỷ lệ các chi phí
trong sản xuất một cách hợp lý từ đó thúc đẩy họ thực hiện giảm chi phí nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Còn đối với chi phí gián tiếp thường gây ra
những sai lệch khi lựa chọn tiêu thức phân bổ khác nhau nên nó tác động tích
cực đến nhận thức khi lựa chọn phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí thích
hợp, giúp các nhà quản trị đưa ra được quyết định chính xác.
g) Phân loại chi phí theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh:
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động sản xuất kinh doanh,
toàn bộ chi phí được chia thành 3 loại:

- Chi phí sản xuất kinh doanh : Bao gồm các chi phí liên quan đến hoạt
động sản xuất tiêu thụ và quản lý.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 20 -
- Chi phí hoạt động tài chính : Là những chi phí liên quan đến hoạt động
đầu tư tài chính.
- Chi phí bất thường : Gồm những chi phí ngoài dự kiến do chủ quan
hay khách quan đưa tới.
Ý nghĩa của cách phân loại này:
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp xác định mức độ ảnh hưởng của
các loại chi phí tác động đến hoạt động của doanh nghiệp để từ đó có sách
lược tiết kiệm chi phí cũng như trích trước chi phí tránh gây sự biến động khi
phát sinh chi phí lớn hay chi phí bất thường đảm bảo mục tiêu lợi nhuận và
nâng cao chất lượng sản phẩm.
h) Phân loại chi phí theo mức độ kiểm soát chi phí:
Theo cách phân loại này có các chi phí sau:
- Chi phí kiểm soát được: Là những chi phí mà nhà quản trị xác định
được chính xác mức phát sinh của nó trong kỳ, đồng thời nhà quản trị cũng có
quyền quyết định về sự phát sinh của nó.
- Chi phí không kiểm soát được: Là những chi phí mà nhà quản trị
không thể dự đoán chính xác định mức phát sinh của nó trong kỳ và sự phát
sinh của nó vượt quá tầm kiểm soát, quyết định của nhà quản trị.
Ý nghĩa của cách phân loại này:
Xác định chi phí nào là chi phí kiểm soát được, chi phí không kiểm soát
được là một vấn đề quan trọng đối với nhà quản trị, giúp các nhà quản trị
hoạch định được ngân sách chi phí chính xác hơn, tạo điều kiện hạn chế tình
trạng bị động về vốn và trách nhiệm quản lý.
i) Một số cách phân loại chi phí khác:
Ngoài một số cách phân loại trên, trong quá trình sản xuất kinh doanh
doanh nghiệp còn sử dụng một số các thuật ngữ khác về chi phí như:

Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 21 -
- Chi phí chênh lệch: Để thực hiện việc ra quyết định, nhà quản trị phải
so sánh nhiều phương án khác nhau, các phương an này thường có sự khác
nhau về số lượng và loại dự phí. Những khoản chi phí nào có ở phương án
này nhưng chỉ có một phân loại không có ở phương án gọi là chi phí chênh
lệch. Chi phí chênh lệch là một khái niệm để nhận thức, so sánh chi phí khi
lựa chọn các phương án kinh doanh. Nó giúp các nhà quản trị thấy được sự
khác biệt về chi phí, lợi ích trong các phương án tốt hơn.
- Chi phí chìm: Là những chi phí luôn xuất hiện trong tất cả các quyết
định của nhà quản trị hoặc trong các phương án sản xuất kinh doanh khác.
Chi phí chìm không phải là định phí mà nó là chi phí mà nhà quản trị phải
chấp nhận trong các quyết định khác nhau. Chi phí chìm là một khái niệm
được dùng trong lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh, nó giúp giảm
bớt thông tin, tính phức tạp trong lựa chọn phương án mà vẫn đạt được một
quyết định thích hợp, hiệu quả.
- Chi phí cơ hội: Là nguồn thu nhập tiềm tàng bị mất đi hay phải hy
sinh để lựa chọn, thực hiện một hành động. Chi phí cơ hội không xuất hiện
trên tài liệu chi phí ở phạm vi chi phí của kế toán tài chính. Chi phí cơ hội là
một khái niệm bổ sung để nhận thức tốt hơn tiềm năng, lợi ích kinh tế trong
hoạt động của doanh nghiệp. Cách phân loại này có tác dụng rất lớn đối với
các nhà quản trị trong việc lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, tìm ra
được cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có
hiệu quả cao nhất, tiết kiệm chi phí và làm tăng lợi nhuận.
1.2.2 Giá thành xây lắp
1.2.2.1 Khái niệm
Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lao động sống
và lao động vật hoá để hoàn thành khối lượng sản phẩm xây lắp nhất định.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 22 -

Sản phẩm xây lắp có thể là một hạng mục công trình, một công trình hoàn
thành toàn bộ.
1.2.2.2 Bản chất của giá thành sản phẩm xây lắp và mối quan hệ giữa chi phí
với giá thành sản phẩm
Trong quá trình sản xuất thi công, chi phí sản xuất xây lắp thể hiện hao
phí trong kỳ của một doanh nghiệp xây lắp. Chi phí này phải được xem xét
trong mối quan hệ với mặt thứ hai của quá trình sản xuất đó là kết quả sản
xuất. Quan hệ so sánh này đã hình thành chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp.
Nói cách khác, giá thành xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các khoản chi
phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra bất kể ở thời kỳ nào nhưng có liên quan đến
khối lượng công việc, sản phẩm xây lắp hoàn thành. Như vậy, giá thành có hai
chức năng chủ yếu là bù đắp chi phí và chức năng lập giá.
Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí và giá thành xây lắp qua sơ đồ
sau:
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
CHI PHÍ SẢN XUẤT PHÁT SINH TRONG KỲ
TỔNG GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
A
B
C
D
AC = AB + BD – CD
Hay:
Tổng giá thành
sản phẩm xây
lắp hoàn thành
=
Chi phí sản
xuất xây lắp dở

dang đầu kỳ
+
Chi phí sản
xuất xây lắp
phát sinh
trong kỳ
-
Chi phí sản
xuất xây lắp dở
dang cuối kỳ
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 23 -
Khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc không
có sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ thì tổng giá thành sản phẩm bằng
tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Như vậy, giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau vốn có
bên trong của nó là phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống
và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, và
lượng giá trị sử dụng thu hồi được cấu thành trong khối lượng sản phẩm công
việc lao vụ xây dựng cơ bản hoàn thành. Như vạy bản chất của giá thành sản
phẩm là sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố chi phí vào sản phẩm xây lắp
công việc lao vụ nhất định đã hoàn thành.
Cũng qua sơ đồ trên ta thấy được giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất
là hai mặt thống nhất của cùng một quá trình thể hiện ở các mặt sau:
- Chi phí sản xuất là căn cứ, cơ sở để tính giá thành sản phẩm lao vụ,
công trình đã hoàn thành. Chi phí sản xuất trước hết thể hiện theo các yếu tố
chi phí, sau đó đến giai đoạn tính giá thành, chi phí sản xuất được thể hiện
theo các khoản mục tính giá thành.
- Mức tiết kiệm hay lãng phí các nguồn lực sẽ ảnh hưởng tới giá thành
dẫn đến kết quả tài chính khi thi công công trình.

Chi phí và giá thành sản phẩm là hai khái niệm khác nhau thể hiện ở
những điểm sau:
- Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền tổng hợp những hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá trong một thời kỳ nhất định. Chi phí sản xuất
không chỉ liên quan đến khối lượng sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan
đến sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Chi phí sản xuất gắn liền
với từng thời kỳ phát sinh.
- Giá thành sản phẩm xây lắp là tổng hợp các hao phí gắn liền với một
khối lượng xây lắp đã hoàn thành bàn giao.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 24 -
1.2.2.3 Dự toán xây lắp và kết cấu giá thành sản phẩm xây lắp trong kế toán
Để thực hiện tốt kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây
lắp cần phải phân biệt dự toán sản phẩm xây lắp và giá thành sản phẩm xây
lắp.
Dự toán xây lắp là dự kiến, tính toán một cách tỉ mỉ, chi tiết về lượng giá
trị vật tư, nhân lực, máy móc thiết bị… theo một điều kiện thi công sản xuất
trung bình, mức giá trung bình từng vùng và mức lợi nhuận cho phép, thuế
GTGT để thực hiện thi công xây lắp một khối lượng công việc, hạng mục
công trình, một công trình nhất định.
Theo quy định hiện hành dự toán xây lắp của một công trình bao gồm
các khoản mục sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
- Chi phí nhân công trực tiếp
- Chi phí máy thi công
- Chi phí sản xuất chung
Tuy nhiên giữa kết cấu các khoản mục chi phí trong dự toán xây lắp và
giá thành sản phẩm xây lắp tồn tại một số khác biệt. Điều này thể hiện ở
khoản mục chi phí sản xuất chung:
- Trong khoản mục chi phí sản xuất chung của dự toán xây lắp bao

gồm toàn bộ chi phí trực tiếp khác (ngoài chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi
phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công). Bên cạnh đó còn có chi phí
phục vụ, quản lý quá trình thi công được tính theo một tỷ lệ quy định trên chi
phí nhân công trực tiếp.
- Trong khoản mục chi phí sản xuất chung của giá thành sản phẩm xây
lắp chỉ gồm toàn bộ chi phí trực tiếp thi công xây lắp ngoài hiện trường nhưng
không thuộc những khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân
công trực tiếp, chi phí máy thi công.
Nguyễn Phương Nga – KT13041
Khoá luận tốt nghiệp - 25 -
Như vậy, trong kế toán, khoản mục chi phí sản xuất chung chỉ là một bộ
phận của chi phí chung trong dự toán xây lắp. Để thể hiện rõ hơn mối quan hệ
giữa chi phí dự toán xây lắp và chi phí kế toán ta có bảng sau:
Nguyễn Phương Nga – KT13041

×