Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Giáo trình Công tác xã hội cá nhân (Nghề Công tác xã hội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.71 KB, 88 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH

GIÁO TRÌNH
MƠN HỌC: CƠNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
NGHỀ: CƠNG TÁC XÃ HỘI
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG/TRUNG CẤP
Ban hành kèm theo Quyết định số: /QĐ-TCDCGNB ngày…….tháng….năm
của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình

Ninh Bình
1


TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thơng tin có thể được
pháp dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh
doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.

2


MỤC LỤC
Bài 1: Một số vấn đề cơ bản về cơng tác xã hội cá nhân
1.Lịch sử hình thành cơng tác xã hội cá nhân
2.Khái niệm, vị trí và mục đích của cơng tác xã hội cá nhân
3.Vai trị, chức năng của nhân viên xã hội trong công tác xã hội cá nhân
4.Các yếu tố cấu thành công tác xã hội cá nhân
Bài 2: Kỹ năng trong công tác xã hội cá nhân
1.Kỹ năng nghe tích cực


2.Kỹ năng quan sát
3.Kỹ năng đặt câu hỏi
4.Kỹ năng thấu cảm
5.Kỹ năng phản hồi
6.Kỹ năng vấn đàm
7.Kỹ năng tham vấn
8.Kỹ năng xử lý căng thẳng thần kinh
9.Kỹ năng xử lý khủng hoảng
Bài 3: Tiến trình cơng tác xã hội cá nhân
1.Tiếp nhận đối tượng
2.Thu thập thông tin
3.Đánh giá và xác định vấn đề của thân chủ
4.Lên kế hoạch can thiệp
5.Triển khai kế hoạch
6.Lượng giá, kêt thúc/đóng hồ sơ/chuyển giao
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


LỜI NĨI ĐẦU
Cơng tác xã hội là một ngành khoa học ứng dụng nhằm đào tạo những nhân
viên xã hội chuyên nghiệp trực tiếp làm việc với cá nhân, gia đình, nhóm, cộng
đồng có nhu cầu và cao hơn nữa là có khả năng tác động vào xã hội ở tầm vĩ mơ.
Vì vậy, cơng tác xã hội ngày nay đã dược phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới
và tác động tích cực trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần thúc đẩy sự
tiến bộ và công bằng xã hội.
Công tác xã hội cá nhân là một trong những phương pháp rất quan trọng
trong đào tạo nghề Công tác xã hội. Phương pháp này đã bắt đầu được hình thành
và phát triển trên cơ sở khoa học thông qua việc được đưa vào giảng dạy tại các

trường đại học và cao đẳng. Tuy nhiên, việc giảng dạy phương pháp này ở Việt
Nam còn gặp nhiều khó khăn do thiếu giáo trình bài giảng và tài liệu tham khảo,.
Để kịp thời đáp ứng nhu cầu thực tiễn về đào tạo và nghiên cứu công tác xã
hội ở nước ta,Trường cao đẳng nghề Cơ giới Ninh Bình tổ chức biên soạn Giáo
trình “Cơng tác xã hội cá nhân". Giáo trình này cung cấp những kiến thức cơ bản,
nền tảng, tiến trình giúp đỡ và các kỹ năng tác nghiệp. Giáo trình này bao gồm:
Bài 1: Một số vấn đề cơ bản trong công tác xã hội cá nhân
Bài 2: Kỹ năng trong công tác xã hội cá nhân
Bài 3: Tiến trình Cơng tác xã hội cá nhân
Giáo trình được biên soạn trên cơ sở tham khảo và sử dụng tài liệu của một
số giảng viên, nhà nghiên cứu về công tác xã hội ở Việt Nam và trên thế giới. Là
giáo trình được biên soạn lần đầu tại trường, do đó khơng tránh khỏi những thiếu
sót, chúng tơi mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp và bạn đọc
để giáo trình ngày càng hồn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

Nhóm biên soạn:
Phạm Thanh Bằng
Lê Hùng Cường
Nguyễn Thị Lành

4


GIÁO TRÌNH MƠ ĐUN
Tên mơ đun:Cơng tác xã hội cá nhân
Mã mơ đun: MĐ 19
Vị trí, tính chất của mơđun:
- Vị trí: Cơng tác xã hội cá nhân là mơ đun chun mơn nghề quan trọng
trong chương trình đào tạo nghề Công tác xã hội. Mô đun này được giảng dạy sau

khi sinh viên đã được học các môn học cơ sở.
- Tính chất: Là mơ đun chun mơn nghề bắt buộc.
Mục tiêu môđun:
- Về kiến thức:
+ Nêu được khái niệm, đặc điểm cơng tác xã hội cá nhân;
+ Trình bày được các nội dung các kỹ năng cơ bản trong công tác xã hội cá
nhân;
+ Nêu được cách phân tích sơ đồ phả hệ, sơ đồ sinh thái, các vấn đề để phân tích ca;
+ Phân tích được tiến trình cơng tác xã hội cá nhân.
- Về kỹ năng:
+ Vận dụng các kỹ năng cơ bản của công tác xã hội cá nhân, với các tình
huống cụ thể;
+ Thực hành tiến trình cơng tác xã hội cá nhân vào các tình huống.
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Tơn trọng, chấp nhận, thấu cảm với hồn
cảnh và vấn đề của đối tượng; Rèn luyện những tính tích cực trong học tập như sự
chăm chỉ, kỷ luật và tính sáng tạo.
Nội dung mơđun:
BÀI 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
Mã bài: MĐ19-B01

Mục tiêu của bài:
- Kiến thức :
+ Trình bày được lịch sử hình thành cơng tác xã hội cá nhân
+ Nêu được khái niệm, vị trí, mục đích và các yếu tố cấu thành của cơng tác
xã hội cá nhân
+ Trình bày được vai trò chức năng của nhân viên xã hội trong công tác xã
hội cá nhân
5



- Kỹ năng :
+ Xác định được vai trò trong quá trình trợ giúp thân chủ.
+ Áp dụng những kiến thức trên vào trong quá trình trợ giúp thân chủ
- Năng lực tự chủ và trách nhiệm:
+ Tôn trọng, đảm bảo thực hiện theo tiến trình khi làm việc với cá nhân
+ Tích cực phát biểu ý kiến, học hỏi và trao đổi với các thành viên trong lớp
học.
Nội dung chính
1. Lịch sử hình thành cơng tác xã hội cá nhân
Mục tiêu:

- Trình bày được lịch sử hình thanh cơng tác xã hội cá nhân
- Xác định được nhiệm vụ của công tác xã hội cá nhân trong nghề nghiệp và cuộc sống.
- Rèn luyện được tính tích cực, chủ động trong quá trình học tập và trong cuộc
1.1. Sự hình thành công tác xã hội cá nhân trên thế giới
Công tác xã hội là sản phẩm của thế kỷ XX, nhưng cơng tác xã hội có nguồn gốc sâu xa từ truyền
thống tương thân tương ái trong mối quan hệ giữa con người với con người đến hình thức hỗ trợ,
giúp đỡ những cá nhân gặp hồn cảnh khó khăn, éo le trong cuộc sống. Khi xã hội ngày càng
phát triển, hình thức hỗ trợ cá nhân mang tính chun nghiệp và khoa học hơn.
Trong phần nội dung lịch sử hình thành CTXH cá nhân trên thế giới được chi ra 3 giai đoạn: Giai
đoạn 1: Giai đoạn từ trợ giúp từ thiện đến từ thiện khoa học (đến thế kỷ XIX); Giai đoạn 2: Thời
kỳ hình thành cơ sở khoa học phương pháp công tác xã hội cá nhân (Từ đầu thế kỷ XX đến
những năm 50); Giai đoạn 3: Thời kỳ phát triển chuyên nghiệp (từ thập kỷ 50 của thế kỷ XX đến
nay).
a. Giai đoạn từ trợ giúp từ thiện đến từ thiện khoa học (đến thế kỷ XIX)
Đây là giai đoạn được coi là cột mốc đầu tiên phản ánh yêu cầu của hoạt động giúp đỡ cá nhân
chuyên nghiệp, là tiền đề cho sự phát triển phương pháp công tác xă hội cá nhân chuyên nghiệp
sau này.
Năm 1601, tại Anh, đạo luật Elizabeth ban hành đã tạo thành điều lệ cho tinh thần hỗ trợ những

người nghèo và người yếu thế. Đạo luật này cho thấy hoạt động từ thiện khơng chỉ bó hẹp trong
phạm vi cá nhân, tổ chức tình nguyện, hảo tâm mà cần có sự quan tâm của thiết chế xã hội.
Theo quan niệm từ thiện ở xã hội phương Tây trước đây cho đến những năm 60 của thế kỷ XIX,
hoạt động hỗ trợ được hiểu dưới hình thức “ban ơn” giữa những người “cho” và người “nhận”,
phụ thuộc vào sự hảo tâm, vào sự tử tế của người giúp đỡ. Người nhận được giúp đỡ theo quan
niệm của xã hội cũng như của những người giúp đỡ là những người “đáng” phải chịu những vấn
đề khó khăn và vấn đề của họ chính là do họ gây ra.

6


Trong triết lý đạo Phật cũng nhấn mạnh đến hoạt động dhana có nghĩa là cho, cấp phát, tặng. Vì
vậy, người ta có thể thấy rằng Cơng tác xã hội trong nghĩa hạn chế của hoạt động giúp đỡ đã có
từ thời xa xưa.
Cơng tác xã hội cá nhân là phương pháp can thiệp đầu tiên của công tác xã hội, bắt đầu hình
thành vào cuối những năm 1800. Lí luận và thực tiễn của công tác xã hội cá nhân được phát triển
và hoàn thiện trải qua một thời gian khá dài.
Mốc chính trong sự phát triển của Cơng tác xã hội cá nhân xuất hiện trong bối cảnh cơng nghiệp
hố và đơ thị hố ở các nước phương Tây, đặc biệt ở Anh và Hoa Kỳ. Đầu tiên Công tác xã hội
được khởi xướng từ hoạt động giúp đỡ những người nghèo thất nghiệp, trẻ em mồ côi, người tàn
tật... của các tổ chức từ thiện COS (Charity Organization Society). Phương thức giúp đỡ vào thời
gian đầu của các tổ chức COS là cử người đi thăm gia đình những người nghèo khổ, thất nghiệp,
mồ cơi..., tìm hiểu hoàn cảnh, nhu cầu cần giúp đỡ của họ, từ đó đưa ra những lời khun, giúp
đỡ tài chính, cung cấp các dịch vụ gia đình và cá nhân mà chủ yếu là tham vấn. Những nhân viên
công tác xã hội này là những người thăm viếng thân thiện, do những người từ tâm tình nguyện,
họ thực hiện những cuộc viếng thăm với nghĩa cử từ thiện không hề mong được thù lao tiền bạc.
Thời gian sau, qua những khám phá của các nhân viên xã hội này cho thấy rằng, ngun nhân của
khó khăn khơng chỉ xuất phát từ một khiếm khuyết của cá nhân mà cả từ các điều kiện xã hội mà
trong đó đối tượng sinh sống. Từ đó họ đi đến kết luận rằng, mơi trường có ảnh hưởng rất lớn đối
với cá nhân. Trên cơ sở đó các tổ chức từ thiện nói trên quyết định thực hiện cải cách xã hội để

cải thiện các điều kiện vật chất và xã hội của người lao động nghèo. Họ đã thành cơng ở nhiều
khía cạnh, tuy có những cải thiện nhưng nhiều gia đình vẫn tiếp tục phải sống trong tình trạng
nghèo khổ và bần cùng. Vì vậy họ cho rằng, các "nhà thăm viếng hữu nghị" phải làm việc gần gũi
hơn nữa với từng cá nhân và gia đình trên cơ sở trực tiếp với từng trường hợp một. Một trong
những khám phá của giai đoạn này mà các nhân viên đã phát hiện ra là sự phục hồi của đối tượng
không thể thực hiện chỉ bằng tham vấn mà sự giúp đỡ tài chính cũng cần thiết cho gia đình đối
tượng trong giai đoạn thích ứng và phục hồi. Các nhân viên xã hội này cũng hiểu rằng giúp đỡ
con người là một quá trình phức tạp và tế nhị địi hỏi sự hiểu biết cả về cá nhân và cả về xã hội.
Họ cũng rút ra nhiều kinh nghiệm về cách tiếp xúc để tìm hiểu từng trường hợp, ghi chép để theo
dõi diễn biến của đối tượng, nhu cầu thông tin, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan. Cũng từ đó
hình thành cơ sở ban đầu của phương pháp Công tác xã hội cá nhân và ý thức về vai trò nhiệm vụ
nhân viên xã hội, đạo đức nghề nghiệp...
Như vậy, các hoạt động giúp đỡ cá nhân lúc này không chỉ đơn thuần là ban phát những gì người
khác muốn làm từ thiện mà đã quan tâm đến nhu cầu người được hưởng lợi. Thể hiện qua các
công việc người đi giúp đỡ cá nhân đã có đánh giá hiện trạng, ghi chép phúc trình đảm bảo làm từ
thiện phù hợp với nhu cầu của người được hưởng lợi.
Tại Mỹ, công tác xã hội cá nhân cũng bắt nguồn từ nỗ lực trợ giúp cá nhân những người nghèo
của tổ chức Hiệp hội Cải thiện các điều kiện cho người nghèo (CICP) thành lập vào năm 1843.
7


Mục tiêu của CICP là đến viếng thăm người nghèo tại gia đình họ, tư vấn và hỗ trợ họ tìm kiếm
việc làm, tạo lập cho người nghèo tính tơn trọng bản thân và tự chủ. Những phát triển tiếp theo
của các tổ chức từ thiện (COS) vào những năm 1877 đã tạo ra bước tiến mới trong công tác hỗ
trợ cá nhân. Lúc này phương pháp làm việc đã có những thay đổi bằng việc đưa ra cách thức điều
tra xác định nhu cầu, ghi chép lại những vấn đề và sử dụng những nhà thăm viếng gia đình tình
nguyện. Thơng qua những nhà thăm viếng tình nguyện đã xuất hiện khái niệm “Từ thiện khoa
học”. Những chuyến viếng thăm của những người tìn nguyện đến các gia đình đã làm thay đổi
quan niệm về người nghèo là do lười nhác, khơng chịu tìm việc, để có cách nhìn khác người
nghèo là do hoàn cảnh đem lại. Kết quả đánh giá của những chuyến viếng thăm này đã trở thành

nền tảng cho việc hình thành nguyên tắc cá biệt hóa trong phương pháp cơng tác xã hội cá nhân
sau này.
Những năm 1870 đến năm 1890 đánh dấu bước tiến quan trọng đặt nền móng khoa học cho cơng
tác xã hội khi nội dung công tác xã hội đưa vào giảng dạy. Khởi đầu bằng những bài giảng cho
nhân viên xã hội tại Anh của tổ chức Octavia Hill vào năm 1873. Vào những năm 1890 những
bài giảng này tiếp tục giảng dạy tại Ln Đơn. Năm 1895 một khóa học mùa hè được tổ chức tại
Chicago dưới sự tài trợ của Hull House. Năm 1898 “Trường Từ thiện New York” – trường đầu
tiên ở Mỹ chính thức giảng dạy về cơng tác xã hội được thành lập. Chương trình ban đầu của
trường là tổ chức các khóa mùa hè và các chương trình huấn luyện những người tình nguyện và
những người thăm viếng thân thiện và chương trình đào tạo một năm. Tuy nhiên, nếu xét chương
trình đào tạo cơng tác xã hội chun nghiệp đầu tiên thì trường giảng dạy cơng tác xã hội chính là
Viện đào tạo Công tác xã hội được thành lập tại Amsterdam năm 1899.
Tóm lại, ở giai đoạn sơ khai ban đầu cho đến những năm 1860, hoạt động hỗ trợ cá nhân chủ yếu
dựa trên tinh thần từ thiện, giúp đỡ những người có khó khăn, đặc biệt là những người nghèo và
các hoạt động này mang đậm màu sắc tôn giáo và văn hóa. Tuy nhiên, ở giai đoạn từ những năm
1860 đến cuối thế kỷ XIX đã ghi nhận sự thay đổi phương pháp hỗ trợ. Xuất phát từ nhu cầu cần
giúp đõ cá nhân có khoa học và hiệu quả hơn địi hỏi những người làm cơng tác từ thiện thay đổi
phương pháp làm việc thông qua việc tiến hành đánh giá nhu cầu đối tượng, ghi chép phúc trình.
Quan trọng hơn, ở những năm cuối của thế kỷ XIX, hoạt động huấn luyện, đào tạo cách thức
cung cấp các dịch vụ xã hội đã được đưa vào trường học. Đây là những dấu mốc quan trọng cho
thấy xã hội cần có cách thức giúp đỡ chuyên nghiệp và khoa học đối với những cá nhân yếu thế
trong xã hội.
b. Thời kỳ hình thành cơ sở khoa học phương pháp công tác xã hội cá nhân (từ đầu thế kỷ XX đến những năm
50)
Vào đầu thế kỷ XX, trước những nhu cầu thực tiễn đòi hỏi hoạt động giúp đỡ cá nhân cần có
phương pháp hỗ trợ mang tính khoa học. Hình thức giúp đỡ theo mơ hình từ thiện khoa học
khơng cịn phù hợp, đặc biệt là trước sự thay đổi mạnh mẽ của xã hội do hệ quả của q trình
cơng nghiệp hóa, các phương pháp giúp đỡ đã có những bước phát triển hướng tới phương pháp
8



công tác xã hội cá nhân chuyên nghiệp dựa trên cơ sở khoa học. Vì vậy, ở giai đoạn này, phương
pháp công tác xã hội cá nhân đã dần củng cố cơ sở khoa học của nghề công tác xã hội chuyên
nghiệp.
Năm 1905, lần đầu tiên nhân viên xã hội được chính thức tuyển dụng vào làm việc tại Bệnh viện
đa khoa Massachusetts tại Boston, Mỹ để giúp đỡ bệnh nhân giải quyết vấn đề xã hội – hậu quả
của bệnh tật gây ra. Đây là điểm khởi đầu cho việc phát triển nghề công tác xã hội, người sử dụng
phương pháp giúp đỡ cá nhân được tuyển dụng là nhân viên trả công ăn lương như những nghề
nghiệp khác thời bấy giờ.
Năm 1917 Mary Richmond, nhà tiên phong đầu tiên về công tác xã hội cá nhân đã tiếp cận một
cách khoa học hơn trong lĩnh vực này. Bà cho rằng, Công tác xã hội cá nhân gồm ba mặt: nghiên
cứu xã hội, chẩn đoán và trị liệu. Trong cuốn "chẩn đoán xã hội", Mary Richmond đã nêu lên lý
thuyết và phương pháp công tác xã hội và tập trung vào việc hướng dẫn các nhân viên xã hội lên
can thiệp vào công việc của đối tượng như thế nào, và bà đã mơ tả tiến trình cơng tác xã hội theo
3 giai đoạn: 1) Thu thập những chứng cứ, dữ liệu xã hội về truyền thống gia đình và thông tin về
vấn đề hiện tại; 2) Xem xét yếu tố dẫn đến chẩn đoán và 3) Xây dựng một kế hoạch giúp đỡ có sự
tham gia của đối tượng.
Cũng cùng năm này, tổ chức đầu tiên của những người làm công tác xã hội đã được thành lập. Đó
là “Hiệp hội trao đổi Nhân viên xã hội quốc gia” của Mỹ với việc làm đầu tiên là đánh giá các
ứng viên xin vào vị trí nhân viên xã hội. (Năm 1934 Hiệp hội này đổi thành “Hiệp hội Nhân viên
xã hội y tế của Mỹ”).
Năm 1919, Hiệp hội các trường đào tạo công tác xã hội tại Mỹ và Canada đã hình thành, thiết lập
tiêu chuẩn chung về giáo dục và đào tạo công tác xã hội chuyên nghiệp.
Đến năm 1920, cùng với sự phát triển của khoa học tâm lý, đặc biệt dưới ảnh hưởng của những
khám phá của nhà tâm lý học nổi tiếng Sigmund Freud và các học trị của ơng đã cung cấp thêm
những cơ sở lý luận khoa học cho việc tìm hiểu khía cạnh tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội của đối
tượng. Các bệnh viện đa khoa bắt đầu tuyển dụng nhân viên xã hội để tìm hiểu điều kiện gia đình
và hồn cảnh sinh sống của bệnh nhân nhằm mục đích hỗ trợ chữa trị về y khoa.
Ở Châu Á, năm 1921, Trường Phụ nữ Nhật Bản đã thành lập trường quốc gia đầu tiên về an sinh
xã hội. Đây được coi là nỗ lực đưa các hoạt động dịch vụ công tác xã hội giúp đỡ những cá nhân

yếu thế trong xã hội và đảm bảo phúc lợi chung của xã hội.
Vào năm 1923, bản báo cáo Tufts H.James về đào tạo công tác xã hộ đã đưa ra những thành tố
cần thiết đảm bảo chất lượng đào tạo nhân viên xã hội, nhấn mạnh đến việc đào tạo sinh viên
đem lại những thay đổi cho xã hội cũng như cho các cá nhân trong xã hội. Sự kiện này đánh dấu
bước tiến đảm bảo cung cấp những nhân viên xã hội có chất lượng phục vụ xã hội.
Hiệp hội Nhân viên xã hội giúp đỡ trẻ em của Mỹ (AAPSW) thành lập năm 1926 là xúc tác làm
tăng cường tầm quan trọng của nhân viên làm công tác xã hội cá nhân và những nhà thực hành
thực địa.
9


Năm 1930 Virginia Robinson và Julia JessieTaft đã phát triển trường phái tiếp cận chức năng
trong công tác xã hội cá nhân kết hợp các khái niệm về công tác xã hội và động năng tâm lý trong
tác phẩm “Một sự thay đổi tâm lý trong công tác xã hội cá nhân”.
Như vậy, phương pháp công tác xã hội cá nhân đã thay đổi hướng tiếp cận từ việc chỉ quan tâm
đến điều kiện kinh tế, xã hội đến việc chú ý đến khía cạnh tình cảm và tâm lý xã hội trong các
vấn đề của đối tượng. Sự chuyển biến này đánh dấu sự phát triển của công tác xã hội cá nhân từ
nhấn mạnh các yếu tố xã hội học bên ngoài sang thái độ nhận thức xã hội của cá nhân. Cách tiếp
cận cũng có đổi mới, thay vì trước đây những người thăm viếng chủ yếu thu thập thơng tin về
hồn cảnh của đối tượng, chỉ dành ít thời gian để đào sâu về những cảm xúc của đối tượng thì lúc
này qua việc phỏng vấn người thăm viếng dành quan tâm nhiều hơn đến việc tìm hiểu sâu hơn về
đời sống tình cảm, những hy vọng và những điểm tích cực của đối tượng. Vì vậy, cơng tác xã hội
cá nhân đã có thể giải quyết được những vấn đề về lo lắng và giúp đối tượng sử dụng biện pháp
giải tỏa lo lắng, cũng như những vấn đề về tình cảm, thái độ, kiềm chế xung đột và đấu tranh với
những hiện tượng vô thức. Tuy nhiên, cách tiếp cận này vẫn mang phong cách theo hình thức
“chẩn trị”. Và như vậy, mối quan hệ công việc giữa nhân viên xã hội và đối tượng vẫn mang
dáng dấp phân biệt theo chiều hướng từ trên xuống dưới.
Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng ảnh hưởng đến Công tác xã hội cá nhân, các nhân viên xã hội
bắt đầu làm việc gần gũi với các cựu chiến binh và gia đình họ. Theo kết quả quan sát và kinh
nghiệm, họ sử dụng cách giải thích về tâm lý và tâm thần học để thay thế các lý giải mang tính xã

hội học. Họ bắt đầu điều chỉnh phương pháp làm việc với những người có nhu cầu. Một số
nguyên tắc hướng dẫn và tiền đề về giá trị hình thành trong giai đoạn này. Tiếp đó, chiến tranh
thế giới thứ hai cũng ảnh hưởng đến sự thực hành công tác xã hội cá nhân. Người ta quan sát
thấy, song song với khó khăn vật chất thì khó khăn về nhân cách ngày càng tăng. Từ đó, nhân
viên xã hội xem xét lại tính chất các dịch vụ mà họ cung ứng cho các cá nhân có vấn đề về nhân
cách. Tham vấn được tăng cường và nới rộng để bao gồm gia đình của đối tượng. Càng ngày,
người ta cũng nhận thấy ảnh hưởng của văn hoá đối với hành vi của đối tượng. Các nhân viên xã
hội trong lĩnh vực y tế và tâm thần ngày càng cần thiết.
Bước tiếp theo trong lịch sử Công tác xã hội cá nhân là việc đưa công tác xã hội vào giảng dạy ở
các trường đại học ở Hoa Kỳ và Anh. Sau đó, cơng tác xã hội được đưa vào giảng dạy trong
nhiều trường đại học ở Châu Âu. ở Châu Á và Châu Mỹ La Tinh, các trường công tác xã hội mọc
lên đồng loạt sau chiến tranh thế giới thứ hai. Trong đó Trung Quốc và Ấn Độ do sự gần gũi với
nước Anh nên đã du nhập ngành công tác xã hội sớm nhất ở Châu Á.
Có thể khẳng định, giai đoạn này chứng kiến mạnh mẽ những thay đổi mang tính chất khoa học
và chuyên nghiệp của phương pháp công tác cá nhân. Mặc dù cịn có những phê phán cho rằng
cách tiếp cận công tác xã hội cá nhân trong giai đoạn này chỉ tập trung vào yếu tố nội tâm, chưa
quan tâm đến yếu tố môi trường. Tuy nhiên, cần phải khẳng định đây là cơ sở tạo tiền đề cho sự

10


phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn sau này của phương pháp này bên cạnh các phương pháp công tác
xã hội khác.
c. Thời kỳ phát triển chuyên nghiệp (từ thập kỷ 50 của thế kỷ XX đến nay)
Giai đoạn phát triển của phương pháp công tác xã hội cá nhân được đánh dấu bằng hàng loạt
những thay đổi quan trọng. Thứ nhất là những thay đổi tính chất chuyên nghiệp về tổ chức với sự
hoàn thiện về tổ chức Hiệp hội nhân viên xã hội và hiệp hội giáo dục và đào tạo; tăng cường các
bậc học cao hơn trong đào tạo công tác xa hội. Thứ hai là, sự thay đổi phong phú hơn về cách
thức tiếp cận hỗ trợ các cá nhân hướng vào những hình thức can thiệp trao quyền, tăng cường
năng lực giải quyết vấn đề của đối tượng. Thứ ba là, sự phát triển rộng khắp của nghề công tác xã

hội ở nhiều nước trên thế giới.
Năm 1950, lần đầu tiên tại California Mỹ, công tác xã hội được cấp phép là cơ sở độc lập đào tạo.
Năm 1952, thành lập Hội dồng đào tạo công tác xã hội, cùng với Hiệp hội các trường đào tạo
công tác xã hội đã xây dựng tiêu chuẩn cho các trường đào tạo công tác xã hội. Tiêu chuẩn đào
tạo sau này đóng vai trị quan trọng trong việc kiểm định chương trình đào tạo thạc sỹ cơng tác xã
hội. Năm 1956, Hiệp đoàn quốc tế của Nhân viên xã hội thành lập (NASW) đã tạo điều kiện mởi
rộng hơn tầm hoạt động và ảnh hưởng của công tác xã hội, trong đó có phương pháp cơng tác xã
hội cá nhân với nhiều nước trên thế giới. Tại Ấn Độ, năm 1970 thành lập Hiệp hội quốc gia của
nhân viên xã hội. Điều này càng khẳng định, công tác xã hội là một khoa học ứng dụng cần thiết
phục vụ cho đời sống con người. Đồng thời, sự phát triển các bậc đào tạo sau đại học cũng được
ghi nhận là những bước tiến quan trọng phát triển nghề cơng tác xã hội, trong đó có sự phát triển
công tác xã hội cá nhân.
Năm 1950, Nhật Bản là nước Châu Á đầu tiên đã có chương trình đào tạo thạc sỹ công tác xã hội
tại Đại học Doshisha, Kyoto. Năm 1977, Nhóm thúc đẩy Đào tạo trình độ tiến sĩ về công tác xã
hội được thành lập, tạo cơ hội cho những nhân viên xã hội tiến bước xa hơn trong việc nâng cao
kiến thức, kỹ năng và nghiên cứu nghề nghiệp.
Xét về những thay đổi trong phương pháp giúp đỡ cá nhân, giai đoạn này có sự thay đổi mạnh
mẽ. Cách tiếp cận theo trường phái “chẩn trị/chẩn đoán” hay “chức năng” đã thay đổi hướng tiếp
cận. Trường phái chức năng phát triển theo cách tiếp cận tập trung cao vào định hướng mục tiêu
trong can thiệp cá nhân. Trường phái chẩn đoán tập trung hơn vào hướng tâm lý xã hội.
Các mơ hình tiếp cận được phát triển theo nhiều trường phái khác nhau. Phương pháp tiếp cận
giải quyết vấn đề (problem solving) được Perlman đưa ra tại trường Chicago vào năm 1957. Mơ
hình này tạo ra một sự khác biệt trong công tác xã hội cá nhân. Phương pháp tiếp cận giải quyết
vấn đề nhấn mạnh vào việc xác định vấn đề đối tượng gặp phải, phấn tích khía cạnh chủ quan
của con người trong hoàn cảnh. Trọng tâm đặt vào đối tượng và vấn đề của họ, tìm giải pháp giải
quyết vấn đề và thực hiện giải pháp. Mục tiêu của tiến trình là phát huy cái tôi của ðối týợng
trong việc giải quyết vấn ðề và huy ðộng các nguồn lực bên trong và bên ngồi ðể hồn thành vai
trị của mình.
11



Tiếp đến vào năm 1960, Pavlovian và Skinnerian đã đưa cách tiếp cận hành vi vào công tác xã
hội cá nhân, vì họ cho rằng hành vi của con người có thể điều chỉnh được nếu được quan sát. Như
vậy cũng có nghĩa là hành vi con người sẽ có thể học được hoặc được chỉnh sửa nếu có điều kiện.
Đây là quá trình học tập và điều chỉnh.
Đến năm 1970, mơ hình cơng tác xã hội cá nhân tập trung vào nhiệm vụ được phát triển tại Đại
học Chicago, Mỹ. Đây là mơ hình được xây dựng tập trung vào giải quyết những vấn đề tâm lý
xã hội cụ thể của các cá nhân và gia đình. Trong giai đoạn này, phương pháp tiếp cận thực hành
tổng quát cũng được phát triển. Mơ hình này cũng cung cấp những cách thực hành tổng quát, giải
quyết vấn đề dựa trên quan điểm hệ thống.
Công tác xã hội cá nhân đã hồn thiện tính chun nghiệp của phương pháp giúp đỡ thông qua
việc tuân thủ các quy điều đạo đức được Hiệp hội nghề nghiệp xây dựng. Lần đầu tiên quy điều
đạo đức của Hiệp hội nhân viên xã hội được biên soạn năm 1962 và được sửa đổi vào năm 1979.
Những năm 1980 và sau này, phương pháp công tác xã hội cá nhân có phát triển thêm những
cách tiếp cận mới như mơ hình tiếp cận sinh thái cuộc đời của Carla B.Germain (1980) hay mơ
hình tiếp cận xử lý khủng hoảng của Howard J.Parad và Naomi Golan. Bên cạnh đó các quan
điểm hệ thống, sinh thái, bình quyền, dựa trên quyền con người, dựa trên điểm mạnh của thân
chủ ...đã và đang được lồng ghép vào trong quá trình giúp đỡ cá nhân.
Theo Skidmore và Thackeray (2000) dự đoán trong thiên niên kỷ mới cách tiếp cận của công tác
xã hội cá nhân sẽ đi theo quan điểm triết trung có chọn lựa. Theo các tác giả này, cách thức tiếp
cận công tác xã hội cá nhân sẽ sử dụng nhiều thành tố từ các lý thuyết khác nhau và có sự phối
kết hợp giữa các mơ hình. Bên cạnh đó các kỹ năng đối phó sẽ ít tập trung vào các vấn đề nội tại
bên trong và sẽ sử dụng nhiều hơn các hình thức can thiệp có thể đo lường được.
Như vậy, có thể khẳng định công tác xã hội cá nhân trong giai đoạn này đã và đang phát triển
mạnh mẽ các phương pháp thực hành nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu giúp đỡ của
những cá nhân gặp khó khăn trong xã hội. Đặc biệt là có sự thay đổi quan điểm giúp đỡ tập trung
vào khai thác điểm mạnh của thân chủ, giúp họ tăng cường năng lực để tự giải quyết được khó
khăn của bản thân. Mối quan hệ giữa người giúp đỡ (nhân viên xã hội ) và người nhận giúp đỡ
(đối tượng) là mối quan hệ cùng hợp tác, hỗ trợ; trong đó sự tham gia và tự quyết định của đối
tượng được nhấn mạnh làm nên thành cơng của q trình hỗ trợ.

Tóm lại, để có được sự phát triển như ngày nay trong phương pháp công tác xã hội cá nhân có sự
đóng góp to lớn của những học giả, nhà nghiên cứu, nhà thực hành. Những học giả và các nhà
tiên phong có ảnh hưởng rất lớn đến phương pháp công tác xã hội cá nhân là: Mary Richmond,
Gordon Hamilton và Florence Hollis triển khai cách tiếp cận tâm lý xã hội; Hellen Harris
Perlman với việc gắn kết cá nhân đối tượng đối với quá trình giải quyết vấn đề; Roth Smalley và
Tybel Bloom với cách tiếp cận chức năng;William Reid và Laura Epstein với cách tiếp cận tập
trung vào nhiệm vụ; Howard J.Parad và Naomi Golan với cách tiếp cận vào chức năng hoạt động
tâm lý xã hội của một cá nhân trong giai đoạn khủng hoảng. Phương pháp công tác xã hội cá
12


nhân đã và đang khẳng định những lợi ích và đóng góp cho sự phát triển các cá nhân, đặc biệt là
những cá nhân yếu thế trong xã hội. Đồng thời, cơng tác xã hội cá nhân góp phần quan trọng
trong phát triển nghề công tác xã hội chuyên nghiệp.

1.2. Công tác xã hội cá nhân ở Việt Nam
Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có nhiều tài liệu viết về sự phát triển của phương pháp công tác
xã hội cá nhân. Qua quá trình tìm hiểu và tổng hợp thơng tin cho thấy những hoạt động mang tính
cơng tác xã hội bao hàm phương pháp công tác xã hội cá nhân đã và đang triển khai trong hoạt
động hỗ trợ những người yếu thế tại Việt Nam.
Bắt nguồn từ văn hóa tương thân, tương ái sâu sắc của người Việt từ thời Lý Cao Tơng (11761210) đã có hình thức cấp phát gạo cho người dân bị thiên tai, lỹ lụt. Vua Lý Thánh Tông (10541072) đã đưa ra chính sách nhân đạo quan tâm đến những phạm nhân như để họ có hai bữa ăn
mỗi ngày và được cung cấp chăn chiếu. Đến thời kỳ trước giai đoạn Việt Nam trở thành thuộc địa
của Pháp (trước năm 1862), nhà cầm quyền thời đó có nhấn mạnh việc đảm bảo cơng bằng và
bình đẳng xã hội. Những người vi phạm pháp luật bị phạt một phần được đóng góp cho những
người cần sự giúp đỡ. Bên cạnh đó, họ còn đưa ra các văn bản pháp lý quy định phân chia lúa gạo
cho những người nghèo khó. Người giàu được yêu cầu chăm sóc và chia sẻ một phần bữa ăn cho
người nghèo. Những vấn đề xã hội khác nhau như nghiện thuốc phiện cũng được triều đình Nhà
Nguyễn đưa vào quy định xử phạt nghiêm minh. Thời kỳ Pháp thuộc (1862-1945: tại Miền Bắc
1862-1945; miền Nam 1862-1954), dưới ảnh hưởng của tơn giáo, các trại chăm sóc trẻ em mồ
côi, trẻ em khuyết tật, trường học dành cho trẻ câm điếc đã được thành lập. Đây được coi là một

loại hình dịch vụ cơng tác xã hội cho các cá nhân bị tổn thương trong xã hội. Nội dung cơng tác
xã hội trong đó phương pháp làm việc với cá nhân được được vào giảng dạy tại Trường Công tác
xã hội Caritas vào năm 1947.
Trong thời kỳ trước khi thống nhất đất nước, ở miền Nam, các hoạt động cơng tác xã hội, trong
đó có cơng tác xã hội cá nhân đã hình thành mang tính chun nghiệp và có những bước phát
triển được ghi nhận. Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh (2002), công tác xã hội đã được giảng dạy
trong các chương trình ngắn hạn và 2 năm và bắt đầu hình thành chương trình cử nhân. Công tác
xã hội cá nhân đã được đưa vào thực hành giúp đỡ những người khốn khó trong nhà thờ.
Trong thời kỳ xây dựng đất nước, ở miền Bắc đã có nhiều hình thức giúp đõ các cá nhân có
những khó khăn như: đi thăm và tìm hiểu người nghèo để trợ giúp, hay hình thức đến chăm sóc
những người già neo đơn, thương bệnh binh, người khuyết tật của các thành viên thuộc các tổ
chức đoàn thể: Thanh thiếu niên, đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Chữ
Thập đỏ, Cơng đồn. Chính phủ cũng đưa ra rất nhiều các chính sách tăng cường các hoạt động
cứu trợ xã hội như Thông tư 202/CP và cứu trợ đột xuất cho những đối tượng là người già cô
đơn, trẻ em mồ côi, người gặp rủi ro, người bị đói;
Vào những năm đầu của thập kỷ 90, sau khi Việt Nam triển khai chính sách đổi mới kinh tế, do
nhu cầu thực tiễn về phương pháp chăm sóc người yếu thế, với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế,
13


đặc biệt là Quỹ Nhi đồng của Liên Hợp Quốc (UNICEF) và các tổ chức Cứu trợ trẻ em như Cứu
trợ em Thụy Điển, công tác xã hội cá nhân đã được đưa vào ứng dụng trong lĩnh vực chăm sóc
trẻ em. Bên cạnh đó, các phương pháp và mơ hình cơng tác xã hội cá nhân hiện nay mới chỉ được
vào giúp đỡ phần nào cho những đối tượng trong các trung tâm, cơ sở chăm sóc tập trung. Vì
vậy, phương pháp này chưa được đầu tư nhân rộng trong hoạt động hỗ trợ những người dễ bị tổn
thương ngồi cộng đồng.
Tuy nhiên, xét về khía cạnh đào tạo, công tác xã hội cá nhân là môn học sớm được đưa vào đào
tạo, tập huấn từ những năm đầu của thập kỷ 90, thế kỷ XX. Đầu tiên là tại trường Đại học Mở
bán cơng Thành phố Hồ Chí Minh (nay là trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh) và
Trường Cao đẳng Lao động – Xã hội (nay là trường Đại học Lao động – Xã hội), nội dung công

tác xã hội các nhân đã được đào tạo trong các ngành học Nghiên cứu Phụ nữ và Xã hội học.
Đến năm 2004, học phần này được chính thức quy định trong Chương trình khung của Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành kèm theo Quyết định số 35/2004/QĐ – BGD&ĐT ngày 11 tháng 10
năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo áp dụng cho tất cả các trường trong cả nước
được phép đào tạo ngành cơng tác xã hội. Trong chương trình khung, cơng tác xã hội cá nhân là
môn học bắt buộc nằm trong khối kiến thức ngành. Thời lượng dành cho môn học phương pháp
cơng tác xã hội khác. Chương trình khung mới chỉnh sửa ngành cơng tác xã hội trình độ đại học
theo Thơng tư 10/2010/TT – BGD ĐT có hiệu lực vào tháng 5 năm 2010. Mặc dù chương trình
được chỉnh theo hướng giảm thiểu tối đa thời lượng các môn học bắt buộc vẫn giữ thời lượng
đảm bảo cho môn công tác xã hội cá nhân cả nội dung học trên lớp và nội dung thực hành.
Bên cạnh đó, với các chương trình đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho cán bộ
cơ sở ở những ngành, lĩnh vực an sinh xã hội và trợ giúp xã hội, chủ đề phương pháp công tác xã
hội cá nhân đã được đưa vào là một nội dung tập huấn. Ví dụ như trong chương trình đào tạo cán
bộ ngành lao động, thương binh và xã hội, ngành dân số, gia đình và trẻ em, cán bộ hội chữ thập
đỏ, cán bộ đoàn thanh niên, cán bộ phụ nữ, của các tổ chức Liên Hợp Quốc như Quỹ Nhi đồng
Liên Hợp Quốc (UNICEF), tổ chức Cứu trợ trẻ em, các tổ chức phi chính phủ quốc tế...
Tuy chỉ mới ở giai đoạn ban đầu của sự phát triển nhưng cần phải khẳng định công tác xã hội cá
nhân ở Việt Nam đã có nền tảng hình thành và đang ở giai đoạn phát triển ban đầu cả ở việc phát
triển các mơ hình can thiệp, trợ giúp và đào tạo chuyên sâu. Hiện nay, công tác xã hội cá nhân đã
phần nào khẳng định tính hiệu quả trong quá trình hỗ trợ những thân chủ yếu thế giải quyết
những khó khăn về tâm lý xã hội và hịa nhập cộng đồng. Trong thời gian tới, khi công tác xã hội
trở thành một nghề chuyên môn ở Việt Nam, phương pháp cơng tác xã hội cá nhân sẽ có cơ hội
để phát triển mạnh mẽ hơn, chuyên nghiệp hơn, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của
những người yếu thế nói riêng và chất lượng cuộc sống của mọi người trong cộng đồng xã hội ở
Việt Nam nói chung.

2. Khái niệm, vị trí và mục đích của cơng tác xã hội cá nhân
Mục tiêu:
14



- Nêu và phân tích được khái niệm, mục đích và ý nghĩa của công tác xã hội cá nhân;
- Xác định được nhiệm vai trị của cơng tác xã hội cá nhân trong nghề nghiệp và cuộc
sống;
- Rèn luyện được tính tích cực, chủ động trong q trình học tập và trong cuộc sống.

2.1. Khái niệm công tác xã hội cá nhân
Có nhiều học giả, nhiều nhà khoa học trong nước và ngoài nước đã đưa ra quan niệm khác nhau
về công tác xã hội cá nhân.
Theo They Farley và các tác giả khác (2000): công tác xã hội cá nhân là “Hệ thống giá trị và
phương pháp được các nhân viên xã hội chuyên nghiệp sử dụng, ở đó các khái niệm về tâm lý xã
hội, hành vi và hệ thống được chuyển thành các kỹ năng giúp đỡ cá nhân và gia đình giải quyết
những vấn đề về nội tâm, quan hệ giữa các cá nhân, kinh tế xã hội và môi trường thông qua các
mối quan hệ “mặt đối mặt”. Như vậy, công tác xã hội cá nhân là một cách thức, quá trình nghiệp
vụ mà nhân viên xã hội sử dụng các kỹ năng kiến thức chuyên môn để giúp đối tượng (cá nhân
hoặc gia đình) phát huy tiềm năng, tham gia tích cực vào quá trình giải quyết vấn đề, cải thiện
điều kiện sống của mình.
Virgina P.Robinson (1930) đưa ra quan điểm khá tương đồng với Farley, tuy nhiên nhấn mạnh hơn đến
việc phát triển các kỹ năng giải quyết vấn đề : “Công tác xã hội cá nhân là một phương pháp thực hành,
có hệ thống giá trị được các nhân viên xã hội chuyên nghiệp sử dụng, trong đó những khái niệm về tâm lý
xã hội, hành vi và hệ thống được chuyển thành những kỹ năng để giúp các cá nhân và gia đình giải quyết
những vấn đề nội tâm, mối quan hệ giữa người và người, vấn đề kinh tế xã hội và vấn đề môi trường
thông qua những mối quan hệ trực tiếp mặt đối mặt”.
Theo tác giả Grace Mathew (1992) đã nhấn mạnh công tác xã hội cá nhân hướng đến việc giúp
đỡ con người giải quyết những khó khăn về chức năng xã hội của họ trên cơ sở mối quan hệ nghề
nghiệp một – một. Theo tác giả “Công tác xã hội cá nhân là một phương pháp giúp đỡ cá nhân
con người thông qua mối quan hệ một-một. Công tác xã hội cá nhân được các nhân viên xã hội ở
các cơ sở xã hội sử dụng để giúp đỡ những người có vấn đề về chức năng xã hội và thực hiện
chức năng xã hội”. Mối quan hệ một-một được tác giả nhắc đến trong khái niệm này là mối quan
hệ giữa một (nhân viên xã hội) và một (đối tượng).

Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh (1998), công tác xã hội cá nhân được định nghĩa rất ngắn gọn và
tập trung vào can thiệp những vấn đề nhân cách của đối tượng: “Công tác xã hội cá nhân là một
biện pháp can thiệp quan tâm đến những vấn đề về nhân cách mà một đối tượng cảm nghiệm”.
Tác giả Lê Chí Anh (2006): “Cơng tác xã hội cá nhân là một phương pháp giúp đỡ con người giải quyết
các vấn đề khó khăn. Nó mang tính đặc thù, khoa học và nghệ thuật. Nó giúp các cá nhân có những vấn
đề riêng tư cũng như những vấn đề bên ngồi và vấn đề mơi trường. Đó là một phương pháp giúp đỡ
thơng qua mối quan hệ để khai thác tài nguyên cá nhân và những tài nguyên khác nhằm giải quyết các vấn
đề. Lắng nghe, quan sát, vấn đàm và đánh giá là những công cụ chủ yếu của công tác xã hội cá nhân. Nhờ

15


tính năng động của mối quan hệ trong cơng tác xã hội cá nhân mà cá nhân thân chủ thay đổi thái độ, suy
nghĩ và hành vi của mình”.
Như vậy, có thể khái qt cơng tác xã hội cá nhân là phương pháp của công tác xã hội thông qua
tiến trình giúp đỡ khoa học và chuyên nghiệp, nhằm hỗ trợ cá nhân tăng cường năng lực tự giải
quyết vấn đề của mình. Trong tiến trình này, nhân viên xã hội cần biết vận dụng nền tảng kiến
thức khoa học tâm lý xã hội, xã hội học và các khoa học xã hội liên quan khác, đồng thời sử dụng
kỹ năng, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, sát cánh cùng đối tượng, hỗ trợ họ tự giải quyết vấn đề
của bản thân và có khả năng vượt qua những vấn đề khác có thể xảy ra trong tương lai.

2.2. Vị trí của cơng tác xã hội cá nhân
Cơng tác xã hội cá nhân là phương pháp công tác xã hội đầu tiên, có vị trí quan trọng và
then chốt trong nghề công tác xã hội. Ngay từ giai đoạn sơ khai cho đến hiện nay sự phát triển
của công tác xã hội cá nhân gắn liến với sự phát triển của công tác xã hội chuyên nghiệp. Với
những người làm công tác xã hội, phương pháp công tác xã hội cá nhân là phương pháp thường
được sử dụng và đem lại hiệu trực tiếp giúp cá nhân vượt qua những khó khăn để có cơ hội phát
triển. Bên cạnh vị trí và tầm ảnh hưởng quan trọng đối với an sinh của các cá nhân, gia đình,
cộng đồng và xã hội, cơng tác xã hội cá nhân có vai trị và tầm ảnh hưởng lớn tới nghề công tác
xã hội chun nghiệp. Có thể nói, cơng tác xã hội cá nhân có vị trí và tầm quan trọng trong cuộc

sống con người và trong sự nghiệp phát triển nghề nghiệp.
Vì vậy, cần khẳng định công tác xã hội cá nhân có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt về
những đóng góp to lớn đối với sự phát triển của cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Cơng tác
xã hội cá nhân tin tưởng vào giá trị vốn có và sự quan trọng của mỗi cá nhân và sự phụ thuộc lẫn
nhau của các cá nhân và xã hội. Công tác xã hội cá nhân giúp ngăn ngừa hay cải thiện những điều
kiện gây ra các vấn đề làm đổ vỡ mối quan hệ lành mạnh giữa cá nhân và gia đình, giữa cá nhân
và những người khác hay giữa cá nhân và môi trường. Công tác xã hội cá nhân giúp đối xác định
và giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của họ hay ít nhất là giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu
cực. Bên cạnh đó, công tác xã hội cá nhân giúp làm lành mạnh tối đa khả năng của các cá nhân.
Có thể khẳng định, cơng tác xã hội cá nhân có những ý nghĩa sâu xa đối với sự phát triển của con
người, gia đình, cộng đồng và xã hội. Một xã hội chỉ được đánh giá là phát triển tốt đẹp khi trong
xã hội đó mỗi cá nhân có cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc.

2.3. Mục đích của cơng tác xã hội cá nhân
Trong thực hành công tác xã hội, cá nhân và gia đình có vấn đề thường là những người có chức
năng xã hội suy giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau như tình trạng sức khoẻ, kinh tế yếu kém,
quan hệ xã hội mâu thuẫn (quan hệ gia đình: vợ chồng, bố mẹ, con cái; quan hệ đồng nghiệp tại
cơ quan; quan hệ bạn bè; tình yêu nam nữ...). Do đó, mục đích của phương pháp cơng tác xã hội
cá nhân là nhằm thiết lập mối quan hệ tốt với đối tượng, giúp cho họ hiểu rõ về chính họ hoặc về
hồn cảnh của họ, xác định lại mối tương quan với những người xung quanh, giúp họ tăng khả

16


năng huy động và vận dụng các nguồn lực của bản thân và xã hội nhằm tạo sự thay đổi cho chính
mình.
Nói một cách khác, cơng tác xã hội cá nhân nhằm phục hồi, củng cố và phát triển các chức năng
xã hội của cá nhân và gia đình thơng qua sự tham gia tích cực của cá nhân và xã hội vào q trình
giải quyết vấn đề.
Cơng tác xã hội ngày nay có xu hướng mang tính tổng qt nhiều hơn, tức là nhấn mạnh đến sức

mạnh của đối tượng nhiều hơn là chỉ chú ý đến những khó khăn của họ. Vì khi đối tượng gặp khó
khăn họ thường bị rối, chỉ thấy sự yếu kém của mình và có cái nhìn tiêu cực về bản thân cũng
như bối cảnh xung quanh mình. Do vậy, chỉ khi nào họ nhìn thấy được, nhờ sự phân tích của
nhân viên xã hội, các mặt tích cực của mình và của những người xung quanh thì họ mới có thêm
động lực vượt khó và đó cùng là cơ sở để xây dựng phương hướng cho cách giải quyết vấn đề.

3. Vai trị, chức năng của nhân viên xã hội trong cơng tác xã hội cá nhân
Mục tiêu:
- Trình bày được vai trị, chức năng của nhân viên xã hội trong cơng tác xã hội cá nhân;
- Xác định được nhiệm vụ của nhân viên xã hội chuyên nghiệp;
- Rèn luyện được tính tích cực học tập và phẩm chất nghề nghiệp.

3.1. Vai trò, chức năng của nhà giáo dục
Với chức năng và vai trò của nhà giáo dục, nhân viên xã hội trong quá trình giúp đỡ cá
nhân đối tượng sẽ cung cấp kiến thức và rèn luyện các kỹ năng để cá nhân có thể tăng cường
chức năng xã hội và ngăn ngừa vấn đề khơng tốt có thể xảy ra. Ví dụ như việc nhân viên xã hội
giúp một trẻ em lang thang những kiến thức về hậu quả của tệ nạn xã hội và dạy cho em những
kỹ năng sống ngăn chặn bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội.
Theo Sheafor và Hoejsi (2003), để thực hiện vai trị này nhân viên xã hội có ba chức
năng:
Thứ nhất là chức năng dạy những kỹ năng sống, ví dụ như dạy đối tượng kỹ năng giải
quyết xung đột, quản lý tiền, điều chỉnh với môi trường cuộc sống mới, kỹ năng phịng vệ bản
thân như nói “khơng” với tệ nạn xã hội...
Thứ hai là chức nưng thúc đẩy sự thay đổi hành vi của đối tượng. Nhân viên xã hội thúc
đẩy sự thay đổi hành vi của đối tượng thông qua việc huấn luyện đối tượng qua sắm vai, mô
phỏng hành vi tốt và thực hiện hành vi tốt. Ví dụ như dạy đối tượng là trẻ em có hành vi giao tiếp
hiệu quả với cha, mẹ hoặc thành viên khác trong gia đình.
Thứ ba là chức năng ngăn ngừa. Nhân viên xã hội thực hiện chức năng này thông qua việc
cung cấp, trao đổi kiến thức, tài liệu liên quan giúp đối tượng nâng cao nhận thức, hiểu rõ vấn đề
và nguyên nhân của vấn đề, từ đó đối tượng có thể ngăn ngừa được vấn đề nảy sinh. Ví dụ như

cung cấp kiến thức và tài liệu về quyền trẻ em cho đối tượng là trẻ em có nguy cơ xâm hại để em
đó hiểu em có quyền được bảo vệ an tồn và tránh bị xâm hại.

17


3.2. Vai trò, chức năng của nhà tham vấn
Trong quá trình hỗ trợ cá nhân, dịch vụ được nhân viên xã hội cung cấp nhiều nhất cho đối tượng
là tham vấn. Vì vậy, vai trị tham vấn của nhân viên xã hội trong giúp đỡ cá nhân đối tượng là rất
quan trọng. Mục đích của tham vấn là giúp cho đối tượng nâng cao chức năng xã hội thông qua
việc để họ hiểu hơn về những cảm xúc, chỉnh sửa hành vi và học cách ứng phó với tình huống có
vấn đề.
Chức năng của nhân viên xã hội trong vai trò của nhà tham vấn là đánh giá và chẩn đoán về tâm
lý xã hội; cung cấp dịch vụ chăm sóc ổn định cho đối tượng; Giúp đối tượng trị liệu và đánh giá
q trình q trình tham vấn.
Để có thể đánh giá và chẩn đoán tâm lý xã hội của đối tượng, nhân viên xã hội phải có được sự
thấu cảm và tâm tư tình cảm, hiểu được năng lực và nguồn lực của đối tượng. Bên cạnh đó, trong
quá trình tham vấn, nhân viên xã hội thường xuyên động viên, khích lệ đối tượng thay đổi tích
cực. Sau quá trình tham vấn, nhân viên xã hội đánh giá sự tiến bộ của đối tượng, kết quả của quá
trình giúp đỡ.

3.3. Vai trò, chức năng của người kết nối
Nhân viên xã hội thực hiện vai trò, chức năng bằng việc là người kết nối đối tượng với
các dịch vụ và nguồn lực phù hợp. Nhân viên xã hội sẽ thực hiện ba chức năng cụ thể sau:
- Đánh giá tình hình đối tượng: đây là hoạt động nhân viên xã hội phải đánh giá chính xác
các nhu cầu và khả năng của đối tượng.
- Đánh giá nguồn lực: nhân viên xã hội tìm kiếm và đánh giá các nguồn lực sẵn có liên
quan đến những nhu cầu của đối tượng. Ví dụ nếu một trong những khó khăn của đối tượng được
đánh giá là khó khăn về tài chính, nhân viên xã hội tìm kiếm cơ hội hỗ trợ về tài chính cho đối
tượng.

- Chuyển giao/kết nối: nhân viên xã hội liên lạc, chắp nối nguồn lực, tìm kiếm được với
nhu cầu của đối tượng. Đôi khi nhân viên xã hội phải điều chỉnh cả hai bên có nhu cầu và bên
đáp ứng nhu cầu đảm bảo phù hợp và hài hồ với lợi ích của cả hai bên.

3.4. Vai trò, chức năng của người biện hộ
Vai trò và chức năng của người biện hộ (hay còn được gọi là vận động chính sách) là việc
nhân viên xã hội đứng trên quan điểm của đối tượng đảm bảo quyền lợi của đối tượng tiếp cận
với nguồn lực và dịch vụ do chính sách xã hội quy định. Vai trị, chức năng của người biện hộ
được thể hiện ở cả bên trong và bên ngồi cơ quan để có được nguồn lực đầy đủ và phù hợp đáp
ứng nhu cầu của đối tượng. Ở cấp độ vĩ mô, khi người cán bộ xã hội làm việc với các tổ chức,
cộng đồng, chính phủ, vai trị biện hộ của họ là để thay đổi chính sách và luật pháp. Những thay
đổi này nhằm cải thiện các điều kiện xã hội để đáp ứng các nhu cầu của cá nhân đối tượng dễ bị
tổn thương và thúc đẩy công bằng xã hội. Người cán bộ xã hộ có thể thể hiện vai trị biện hộ ở
cấp vi mơ hơn cho cá nhân đối tượng. Ví dụ vai trị của người biện hộ giúp đỡ cho cá nhân trẻ bị
tổn thương được thực hiện ở 6 khía cạnh sau:
18


- Cung cấp cho trẻ thông tin, sự ủng hộ, sự tham khảo cho việc thực hiện những dịch vụ
thích hợp.
- Đại diện cho trẻ trước các nhà cung cấp dịch vụ.
- Thực hiện các vấn đề của trẻ liên quan đến các cơ quan và các quan chức chính phủ.
- Thúc đẩy các cam kết, thúc đẩy sự bình đẳng và công bằng của hệ thống các cơ quan
liên quan đến việc chăm sóc và bảo vệ trẻ.
- Đại diện giải quyết các vấn đề của trẻ khi liên quan đến các cơ quan pháp luật và điều
tra.
- Thực hiện các quan tâm khác với tư cách là người đại diện của trẻ.

3.5. Vai trò, chức năng của người quản lý
Nhân viên xã hội thực hiện vai trò này nhằm giúp cá nhân được giúp đỡ tiếp tục nhận

được các dịch vụ hỗ trợ thông qua việc kết nối và điều phối sử dụng các nguồn lực. Đây là quá
trình quản lý từ đầu cho đến khi kết thúc/chuyển giao cá nhân đối tượng. Nhân viên xã hội thực
hiện chức năng quản lý ca thông qua nhiều hoạt động được Sheafor và Hoejsi (2003) đưa ra như
sau:
- Thu thập thơng tin và đánh giá tình hình đối tượng, xác định nhu cầu của đối tượng;
- Xây dựng kế hoạch ca đáp ứng nhu cầu của đối tượng;
- Xác định các chương trình và nguồn cung cấp dịch vụ, thu xếp và điều phối các dịch vụ
cho đối tượng;
- Điều hành hiệu quả kế hoạch ca và điều chỉnh kế hoạch phù hợp nhu cầu đối tượng và
tình hình thực tế;
- Là người liên lạc và trung gian giữa các đối tượng và các nguồn lực;
- Biện hộ của đối tượng tiếp cận được dịch vụ phù hợp.

4. Các yếu tố cấu thành công tác xã hội cá nhân
4.1. Đối tượng
Đối tượng là cá nhân hoặc gia đình có vấn đề, họ đang cần sự giúp đỡ bởi nhiều lý do
khác nhau:
- Đối tượng có những quan tâm, mong muốn, những nhu cầu không được đáp ứng và sự suy giảm
chức năng xã hội.
- Đối tượng ở đây là con người- vừa là sản phẩm tự nhiên và xã hội, vừa là thực thể sinh vật chứa
đựng đầy đủ các yếu tố sinh hoá, tâm lý xã hội , văn hố và tinh thần tơn giáo riêng của họ. Họ có
những kinh nghiệm, mối quan hệ xã hội, cách nhận thức đánh giá bản thân và người khác, cách
đối phó với những vấn đề và tình huống khác nhau.
- Đối tượng đến với nhân viên xã hội hoặc cơ quan xã hội để tìm sự giúp đỡ cho chính mình hoặc
cũng có thể là cho người khác. Họ có thể nhận thức được hoặc khơng nhận thức được tình trạng
cần giúp đỡ của chính họ
- Đối tượng có thể là những người:
19



+ Cần sự hỗ trợ, giúp đỡ cho chính bản thân họ
+ Cần sự hỗ trợ, giúp đỡ cho cá nhân khác
+ Khơng tìm sự giúp đỡ nhưng họ lại có thể cản trở hoặc đe doạ chức năng xã hội của người khác
+ Tìm sự giúp đỡ nhưng khơng phải cho mục đích phù hợp
Vì mục đích của cơng tác xã hội là giúp cá nhân và gia đình hoạt động hiệu quả hơn trong các
mối quan hệ tâm lý xã hội nên nhân viên xã hội cần phải có những hiểu biết cơ bản về hành vi
con người. Con người là sản phẩm của tự nhiên và giáo dưỡng và luôn luôn trên đà thay đổi, bị
thúc đẩy bởi những nhu cầu cơ bản, các hoạt động cá nhân phải chịu những ảnh hưởng sinh lý,
tâm lý, văn hoá- xã hội. Cho nên nhân viên xã hội cần tìm hiểu hành vi quá khứ và dự báo hành
vi tương lai của đối tượng, tìm hiểu và giúp họ tạo động lực, phát huy khả năng sẵn có và tiềm
tàng của đối tượng để chính đối tượng là người phải hành động để giải quyết vấn đề của mình và
trong khả năng của mình. Nhân viên xã hội phải biết tìm hiểu, thảo luận và huy động động cơ của
đối tượng, nếu thẩm định đúng động cơ và năng lực của đối tượng, nhân viên xã hội có thể ít
nhiều xác định đối tượng có thể vận dụng hiệu quả của công tác xã hội cá nhân như thế nào. Để
đạt được điều đó, nhân viên xã hội phải thừa nhận có sự khác biệt về giá trị giữa mình và đối
tượng và tin rằng mỗi người phải có nhu cầu cơ bản để mà sống và mọi đối tượng đều phải được
chấp nhận cho dù họ là ai (cần lưu ý: Chấp nhận giá trị chứ không phải chấp nhận hành vi)

4.2. Vấn đề trong công tác xã hội
Là tình huống mà ở đó sự thực hiện chức năng xã hội của đối tượng bị cản trở mà bản thân cá
nhân đó khơng tự vượt qua được. Con người đối phó với những khó khăn trong cuộc sống và
những khó khăn ấy được giải quyết một cách thích đáng với những tài nguyên có sẵn. Đó là
những khó khăn của cuộc sống nằm trong khả năng và chiến lược đối phó của mỗi người, nhưng
khi những khó khăn gây nên căng thẳng và vượt ra ngoài khả năng giải quyết của mỗi người thì
chúng trở thành những vấn đề. Vì vậy những người tìm đến dịch vụ cơng tác xã hội cá nhân là
những người gặp phải vấn đề. Vấn đề mà đối tượng gặp phải có thể thuộc lĩnh vực tâm lý xã hội,
môi trường hay sự kết hợp của cả hai yếu tố đó:
- Vấn đề chức năng xã hội: Mối quan hệ cá nhân( gia đình, bạn bè) như sự bất hồ trong hơn
nhân, xung đột trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái hoặc cha mẹ lẩn tránh trách nhiệm làm cha
mẹ...Khi xung đột có tính chất dai dẳng, bao trùm phần lớn mối quan hệ đưa đến kết quả những

người liên quan- vợ chồng và con cái- khơng được hạnh phúc, thì nó trở thành một vấn đề.
- Sự mâu thuẫn với mơi trường: Mọi tiến trình bên ngồi đều có một tác động tích cực hay tiêu
cực đến con người thường được nói đến như là mơi trường của cá nhân.
- Vấn đề có thể là sự thiếu thốn về vật chất, trình độ học vấn, kỹ năng kinh nghiệm, điều kiện sức
khoẻ...để thực hiện vai trị xã hội: Có thể dễ dàng nhận thức được vì sao mà những vấn đề của
cuộc sống lại bắt nguồn từ sự nghèo khổ, thiếu thốn và các yếu tố khác có liên quan và thiếu thốn
tài nguyên vật chất luôn là vấn đề lo lắng mà một bộ phận không nhỏ dân cư đang phải đối mặt.
Tương tự như vậy hoàn cảnh sức khoẻ yếu và bệnh tật gây ra sự lo âu cho cá nhân cũng như gia
20


đình, ngồi việc phá vỡ nhịp sống của người có liên quan, nó cịn tạo ra cho họ sự lo âu đáng kể,
họ cần sự giúp đỡ ở nhiều khía cạnh khác nhau.
- Vấn đề tình cảm, rối loạn tâm lý: Để tồn tại như là những sinh vật, con người cần đến thực
phẩm, nhà cửa, áo quần. Ngoài bản năng như động vật, con người cịn có đời sống tâm lý xã hội.
Tình thương và sự an tồn, ý thức thuộc về một nhóm, lịng tự trọng, cơ hội để phát triển trí tuệ,
tình cảm và thể chất đều rất cần cho sự phát triển từ tuổi thơ ấu cho đến lúc trưởng thành. Những
nhu cầu này không được đáp ứng dẫn đến những vấn đề về sau tạo ra những tình huống khơng
lường trước được cần có sự can thiệp của nhân viên xã hội.
- Thiếu việc làm, thu nhập thấp: Nghèo và thất nghiệp là những vấn đề phải được giải quyết ở cấp
quốc gia, tuy nhiên trong thực tế, chính nhân viên xã hội lại đóng góp một phần khơng nhỏ trong
giải quyết những trường hợp nghèo khó của cá nhân.
- Khó khăn trong thích nghi: Sự thích nghi bao gồm sự thay đổi- sự thay đổi của bản thân hoặc sự
thay đổi của môi trường.
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu của môi trường xã hội với nhu cầu của cá nhân.
Mặc dù người ta thường nhìn một vấn đề như một thực thể riêng lẻ nhưng trong cuộc sống một
vấn đề hầu như không xảy ra một cách riêng lẻ mà nó thường liên kết với các vấn đề hay khó
khăn khác. Vì vậy những vấn đề khác nổi lên theo sau hay những vấn đề mà nhân viên xã hội
nhận ra sau này có thể được coi như "những vấn đề kết hợp".
Để hiểu được thân chủ và nhừng vấn đề của họ, nhân viên xã hội cần thu thập thông tin và đánh

giá về tình hình xã hội, xem xét những yếu tố nguyên nhân. Dựa vào sự đánh giá, một kế hoạch
hành động được vạch ra và những hoạt động giúp đỡ được thực hiện.

4.3. Tổ chức, cơ quan xã hội
Mỗi tổ chức xã hội đều có những quan điểm triết lý, chức năng riêng biệt và phục vụ cho một
hoặc nhiều loại đối tượng khác nhau(người khuyết tật, người già, trẻ em lang thang, nạn nhân của
thiên tai, người nghèo...)
Các dịch vụ do tổ chức xã hội cung cấp hỗ trợ cho đối tượng đều nằm trong phạm vi chức năng
và tài nguyên giới hạn của mình. Tổ chức xã hội cần đóng thêm vai trị mơi giới, giới thiệu đối
tượng đến nơi mà họ cần đến mỗi khi họ có nhu cầu vượt ra ngoài phạm vi chức năng của mình.
Một trong những nhiệm vụ của sự tương tác giữa nhân viên xã hội và đối tượng là phải hiểu biết
đối tượng như là một cá nhân với những tính độc đáo riêng của họ. Nhân viên xã hội phải tìm
hiểu những nhu cầu của đối tượng và những dịch vụ phù hợp, đồng thời cũng phải hiểu đúng
nghĩa của sự đi tìm và việc sử dụng sự giúp đỡ.

4.4. Tiến trình cơng tác xã hội cá nhân
Tiến trình cơng tác xã hội cá nhân là phương pháp tiếp cận, cách thức người nhân viên xã hội sử
dụng trong quá trình giúp đỡ đối tượng. Đây là quá trình tương tác hỗ trợ chuyên nghiệp và khoa
học giữa nhân viên xã hội và đối tượng, ở đó diễn ra các bước hoạt động chuyên môn nhằm hỗ
trợ đối tượng đạt được mục đích, mục tiêu giải quyết vấn đề khó khăn của mình. Diễn đạt theo
21


cách đơn giản hơn thì đây là trình tự các bước hoạt động của công tác xã hội cá nhân thực hiện
trong quá trình giúp đỡ cá nhân đối tượng. Trình tự các bước hoạt động được nhân viên xã hội
định hướng theo các cách tiếp cận công tác xã hội cá nhân khác nhau, tùy thuộc vào sự áp dụng
và sáng tạo của cá nhân nhân viên xã hội.
Đây là những bước chuyển tiếp theo thứ tự logíc, nhưng trong q trình giúp đỡ, có những bước
kéo dài suốt quá trình như thu thập dữ liệu, thẩm định và lượng giá(nội dung chi tiết sẽ trình bầy
ở phần sau).


22


BÀI 2
KỸ NĂNG CƠ BẢN TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
Mã bài: MĐ19-B02
Mục tiêu của bài:
- Kiến thức: Trình bày được nội dung của một số kỹ năng trong công tác xã
hội cá nhân
- Kỹ năng:
+ Vận dụng được các kỹ năng vào trong tiến trình cơng tác xã hội cá nhân.
+ Thực hành được các kỹ năng trong làm việc với các đối tượng giả định trên
lớp.
- Năng lực tự chủ và trách nhiệm :
+ Rèn luyện tính tích cực, nghiêm túc và tôn trọng trong thực hành công tác
xã hội cá nhân.
+ Sẵn sàng trợ giúp thân chủ và đồng nghiệp vượt qua những giai đoạn
khủng hoảng và căng thẳng
Nội dung của bài:
1. Kỹ năng nghe tích cực
Mục tiêu:

- Trình bày được khái niệm, vai trị và mục đích của lắng nghe tích cực;
- Nêu được những cản trở khi lắng nghe;
- Thực hiện được lắng nghe tích cực trong tình huống cụ thể;
- Rèn luyện được tính chủ động, tích cực trong học tập, và đạo đức nghề nghiệp trong
CTXH cá nhân.
1.1. Khái niệm, mục đích và kết quả của nghe tích cực
1.1.1. Khái niệm nghe tích cực

Kỹ năng nghe tích cực đề cập đến một tiến trình bao gồm nghe chăm chú những gì thân chủ nói;
quan sát các điệu bộ, cử chỉ khơng lời của họ; khuyến khích họ tự bộc lộ một cách đầy đủ và ghi
nhớ những gì thân chủ trao đổi, tâm sự với chúng ta. Nghe tích cực là việc người nhân viên xã
hội chú tâm vào lắng nghe những lời nói, biểu hiện và trạng thái cảm xúc của đối tượng và phản
hối lại những gì mình đã nghe được trong khi tiếp xúc với đối tượng. Những phản hồi của nhân
viên xã hội trong nghe tích cực được thể hiện qua những hành vi không lời, chẳng hạn như giao
tiếp bằng mắt, cơ thể và lời nói mà nó chứa đựng sự thấu cảm, tôn trọng, ấm áp, tin tưởng, chân
thành và chân thật.
Lắng nghe đóng vai trị quan trọng trong giao tiếp, chúng ta không chỉ lắng nghe bằng tai mà cả
bằng mắt, chúng ta muốn nghe và hiểu điều người khác nói với chúng ta. Vì vậy trong công tác
23


xã hội cá nhân, kỹ năng lắng nghe là một công cụ cơ bản của nhân viên công tác xã hội. Lắng
nghe tích cực, chú tâm là kỹ nãng mà ngýời nhân viên công tác xã hội phải quan tâm, thậm chí
phải rèn luyện. Mục đích của lắng nghe là hiểu lời nói và cảm nghĩ của người nói càng chính xác
càng tốt, việc tập trung tinh thần để lắng nghe là cần thiết. Người nghe phải chú ý đến những gì
được nói ra và thậm chí cả những gì khơng được nói ra, những gì được đề xuất. Lắng nghe, vì
vậy trở thành một hoạt động được thực thi một cách có ý thức đối với nhân viên xã hội, hơn thế
nữa nó cịn là một khía cạnh thực hành nguyên tắc chấp nhận.
1.1.2. Mục đích của nghe tích cực
Nghe tích cực bao hàm nghe được lời nói, tiếp nhận những thông tin không bằng lời và đáp ứng
thoả đáng cho cả hai với mục đích:
- Thơng tin với người khác với sự nồng nhiệt, tiếp nhận những thông tin không bằng lời và
chúng ta hiểu, sẵn sàng giúp đỡ người đó
- Làm cho người khác tự hiểu mình hơn
Sử dụng thích đáng nghe tích cực là một cơng cụ trong khi tư vấn cho đối tượng, sẽ mang lại kết
quả rất tốt cho mối quan hệ người giúp đỡ- người được giúp đỡ.
Để lắng nghe một cách đầy đủ, nhân viên xã hội không chỉ thụ động nhận thông tin, mà phải là
người chủ động tham gia trong q trình trao đổi thơng tin, tập trung hồn tồn sự chú ý của

mình vào quá trình giao tiếp , nghe bằng cả trực giác cũng như bằng cả khả năng suy nghĩ của
mình để khuyến khích đối tượng bầy tỏ những suy nghĩ và cảm xúc của họ.
Vậy nhân viên xã hội sử dụng lắng nghe tích cực khi nào?
- Khi đối tượng nói là họ có vấn đề
- Khi nhân viên xã hội thật sự chấp nhận, muốn giúp đỡ và khách quan với đối tượng
- Khi nhân viên xã hội không bị bức bách về thời gian, không vội vàng, sẵn sàng chờ đợi
- Khi nhân viên xã hội tin là đối tượng có thể tìm ra giải pháp cho vấn đề của họ
Và cách phản hồi khi nghe tích cực là:
- Anh( chị) có quyền cảm thấy cách anh( chị) làm
- Tôi tôn trọng anh( chị) là một con người
- Tôi thật sự muốn nghe quan điểm của anh (chị)
- Tôi không phán xét anh (chị), cảm giác của anh (chị) thuộc về anh (chị)
- Tôi tin anh xử lý được cảm giác của mình- tự giải quyết được ván đề của mình
1.1.3. Kết quả của nghe tích cực
Kết quả của nghe tích cực là:
- Giúp đối tượng xác định được vị trí của chính mình.
- Làm cho đối tượng cảm thấy là nhân viên xã hội không cố làm thay đổi họ.
- Động viên đối tượng tiếp tục giao tiếp, chia sẻ cảm giác của họ.
- Làm dễ dàng cho việc tự định hướng, tự có trách nhiệm.
- Giúp đối tượng giải toả và giải phóng được mình khỏi sự kiềm toả của người khác.
24


- Phát triển mối quan hệ và gần gũi.

1.2. Những cản trở khi lắng nghe
- Sự sao nhãng làm người nghe khơng cịn lắng nghe tích cực nữa. Sao nhãng là trạng thái nhân
viên xã hội không tập trung vào q trình nghe tích cực. Có những sự sao nhãng từ bên ngồi
dưới hình thức tiếng ồn ào trong mơi trường xung quanh và người khác nói chuyện. Có những
sao nhãng nội tâm là những ý nghĩ riêng của người nghe, có dính dáng hoặc khơng dính dáng với

người nói hoặc chủ đề của người nói. Cũng có thể thỉnh thoảng, những phát biểu của đối tượng
đưa nhân viên xã hội hồi tưởng lại những kinh nghiệm tương tự, để trí óc bay tận đâu đâu khơng
cịn chú ý nữa.
Có nhiều trường hợp, những thành kiến về đối tượng hay về câu chuyện mà họ nói tới xâm
chiếm trung tâm chú ý trong trí óc người nghe, vì thế làm hỏng việc lắng nghe. Điều này thường
hay xảy ra trong những cuộc vấn đàm khi nhân viên xã hội đã có những lần tiếp xúc trước đó với
đối tượng.
Cách khắc phục yếu tố cản trở này tốt nhất là nhân viên xã hội cần lựa chọn địa điểm gặp gỡ phù hợp và
tập trung hoàn toàn vào câu chuyện trao đổi giữa mình và đối tượng. Nếu trong trường hợp vấn đề đối
tượng chia sẻ có gây ra những cảm xúc ảnh hưởng đến việc chú ý lắng nghe, nhân viên xã hội cần ý thức
tách biệt những cảm xúc cá nhân và xác định mình đang trong quá trình giúp đỡ đối tượng.
- Sự lo âu hay lo sợ của nhân viên xã hội đối với đối tượng cũng là trở ngại cho việc lắng nghe tốt,
chẳng hạn như, khi người nghe quá lo lắng làm sao cho có sự đáp ứng cho thích hợp với người nói thì
trí óc của họ bị bận tâm với cách đối phó đó. Đây là trở ngại thường xảy ra trong cuộc gặp gỡ giữa
nhân viên xã hội và đối tượng, khi mà nhân viên xã hội lo rằng họ phải lấy được lòng tin của đối tượng.
Chẳng hạn, một nhân viên xã hội lo lắng về việc thấu cảm với đối tượng có thể cân nhắc trong đầu
những lời lẽ khác nhau và những cách thể hiện sự thấu cảm trong khi đối tượng đang trình bầy. Vì thế,
thay cho sự tập trung chú ý vào lời nói của đối tượng thì nhân viên xã hội lại tập trung chú ý vào cách
mà mình sẽ đáp ứng. Điều này đặc biệt thường xảy ra với những nhân viên xã hội còn ít kinh nghiệm
trong cuộc sống và ít kinh nghiệm trong chuyên môn. Mặc dù những câu: " tôi hiểu được những cảm
nghĩ của anh( chị)", " những cảm nghĩ như thế là tự nhiên" hoặc khơng có gì sai trái khi suy nghĩ như
vậy" là biểu hiện của sự thấu cảm. nhưng chúng không thể được lặp đi lặp lại như vẹt mà khơng có sự
lắng nghe cẩn thận những gì đối tượng nói.
- Chỉ nghe có chọn lọc là một trở ngại nữa của lắng nghe tích cực. Đó là khuynh hướng chỉ nghe
những gì mà người ta thích nghe hoặc người ta cần nghe theo ý chủ quan của mình. Trong cuộc
nói chuyện bình thường, một lượng đáng kể những thơng tin được nói đến bị để ngồi tai cũng vì
nghe chon lọc. Nhân viên xã hội cũng có thể bỏ ngồi tai câu chun một cách có ý thức hay
khơng ý thức khi những chuyện nói ra là những chuyện đau buồn hay không thú vị hoặc cũng có
thể do cách trình bầy của đối tượng dài dịng, vịng vo hay khó lắm bắt.


1.3. Một số hướng dẫn cần thiết khi lắng nghe
Trong khi thực hiện kỹ năng nghe tích cực, nhân viên xã hội cần lưu ý một số hướng dẫn sau:
25


×