Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Giáo trình Xã hội học đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.37 MB, 89 trang )

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

GIÁO TRÌNH

XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG
Biên soạn: TS. TẠ MINH

Lưu hành nội bộ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2007


Phần 2: Một số chuyên ngành Xã hội học cụ thể;

LỜI NÓI ĐẦU

Phần 3: Phương pháp và kỹ thuật điều tra Xã hội

Xã hội học là một khoa học nghiên cứu về xã hội, về
hệ thống các mối quan hệ xã hội của con người. Tuy còn là
một ngành khoa học mới mẻ ở nước ta, nhưng trong sự tồn
tại và phát triển, xã hội học đã và đang trở thành ngành khoa
học có vị trí quan trọng đối với tất cả các lónh vực của đời
sống xã hội. Những tri thức nhập môn Xã hội học và phương
pháp luận của nó ngày càng trở nên thiết thực và có tác dụng
không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần X (18/04/2006 – 25/04/2006) của Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn nhấn mạnh đến vai trò của các ngành
khoa học, trong đó có khoa học xã hội – có ý nghóa cực kỳ
quan trọng đối với sự phát triển bền vững của xã hội nước ta
hiện nay.


Trong quá trình biên soạn cuốn Xã hội học Đại cương,
chúng tôi dựa vào chương trình giáo dục Đại học đại cương
do Bộ Giáo dục - Đào tạo quy định năm 1995. Chúng tôi
cũng đã cố gắng tham khảo, chọn lọc nhiều nguồn tài liệu
của các tác giả trong và ngoài nước, đã dựa vào thực tiễn
sinh động của đời sống xã hội ở nước ta trong hơn hai mươi
năm đổi mới. Đặc biệt, chúng tôi đã tham khảo những tài
liệu của Giáo sư, Tiến só Phạm Tất Dong, Phó giáo sư - Tiến
só Nguyễn An Lịch, Phó giáo sư - Tiến só Nguyễn Minh Hòa,
Tiến só Vũ Quang Hà cùng một số tài liệu của các tác giả
khác.

học.
Nhân đây, chúng tôi xin bày tỏ lòng cám ơn Phó giáo
sư - Tiến só Trần Thị Kim Xuyến, Trưởng Khoa Xã hội học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia TP.HCM đã đọc và đóng góp những ý kiến quý
báu, được thực hiện trong Lời giới thiệu cho lần xuất bản đầu
tiên của cuốn sách này. Chúng tôi cũng xin cám ơn Tiến só
Trương Văn Vỹ, Thạc só Lê Văn Bửu, Thạc só Tăng Hữu Tân
và các bạn đồng nghiệp, đã động viên khích lệ và có những
ý kiến đóng góp về mặt kết cấu và nội dung của tài liệu.
Mặc dù đã rất cố gắng trong khi biên soạn, cuốn sách
này không tránh khỏi những thiếu sót, mong sự lượng thứ của
độc giả và mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía
độc giả và các đồng nghiệp để sách Xã hội học đại cương
được hoàn thiện hơn trong lần tái bản.
Tác giả
ThS. Tạ Minh


Cuốn Xã hội học Đại cương gồm ba phần:
Phần 1: Khái quát lịch sử hình thành và phát triển Xã
hội học;
3

4


BÀI 1
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH XÃ HỘI HỌC

PHẦN I

I. SỰ RA ĐỜI CỦA XÃ HỘI HỌC
Xã hội học là một ngành khoa học xã hội nghiên cứu
về con người với tư cách là chủ thể xã hội. Nghiên cứu cách
thức ứng xử và quan hệ của con người trong các nhóm xã
hội, trong các cộng đồng và các tổ chức hình thành nên xã
hội.

XÃ HỘI HỌC
LÀ MỘT KHOA HỌC

Thuật ngữ Xã hội học có nguồn gốc từ chữ La tinh
Societas nghóa là xã hội và chữ Hy Lạp Logos có nghóa là
học thuyết. Xã hội học cũng có nghóa là lý thuyết về xã hội.
Đây là một ngành khoa học mới ra đời, còn rất non trẻ so với
các khoa học xã hội khác. Lần đầu tiên thuật ngữ Xã hội học
được công bố năm 1839 bởi Auguste Comte (1798 - 1857),
một nhà triết học người Pháp, người sáng lập ra “chủ nghóa

thực chứng”. Ông cũng là người đầu tiên khởi xướng ra
ngành khoa học này, và được coi là cha đẻ, là thuỷ tổ của
ngành Xã hội học.
Hơn một thế kỷ qua, Xã hội học đã có những bước phát
triển quan trọng và nó đã thu được một số thành tựu to lớn
trên thế giới, có tác dụng không nhỏ trong đời sống xã hội.
Đặc biệt Xã hội học được áp dụng và phát triển mạnh ở các
nước công nghiệp phát triển. Lý luận Xã hội học đã thâm
nhập vào các lónh vực của đời sống xã hội, trở nên thân
thuộc với mọi tầng lớp nhân dân thông qua hệ thống giáo
dục của các trường đại học và cao đẳng. Đây cũng là môn
5

6


khoa học bắt buộc đối với sinh viên ở bậc đại học và cao
đẳng.
Sự phát triển của Xã hội học luôn gắn liền với sự phát
triển của xã hội. Xã hội càng phát triển, càng văn minh thì
yêu cầu hiểu biết về Xã hội học càng cần thiết, vì nó luôn
trang bị những tri thức tiến bộ cho sự phát triển của nhân loại,
của đời sống xã hội con người cùng với mối quan hệ của nó.
Cùng với các ngành khoa học khác, Xã hội học đã chỉ ra
những con đường, những biện pháp, cách thức hoàn thiện,
phát triển các mặt của đời sống xã hội cho phù hợp với quy
luật vận động của xã hội.
Ở Việt Nam, khoa học xã hội còn rất mới mẻ nhưng nó
đã có những tác dụng nhất định trong việc nhận thức và ứng
dụng vào quản lý xã hội, quản lý đất nước, trong sự nghiệp

công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trên tất cả các lónh
vực của đời sống xã hội. Hơn lúc nào hết, trong điều kiện
hiện nay, muốn hoàn thành sự nghiệp đó cần phải phát huy
được vai trò của nhân tố con người, trong đời sống xã hội cần
phải không ngừng hoàn thiện các mối quan hệ xã hội, Marx
đã cho rằng: Sự phát triển của xã hội, thể hiện ra trước hết là
hiện thực cải tạo thực tiễn của con người và hoạt động của
quần chúng nhân dân lao động được quy định bởi tiến trình
của lịch sử.
Là một môn khoa học về xã hội, môn khoa học nghiên
cứu về các quan hệ xã hội, nó ra đời do yêu cầu của bản
thân sự vận động xã hội, đặc biệt là trong những bối cảnh xã
hội có nhiều biến động. Là môn khoa học nghiên cứu về con
người, về cách ứng xử và quan hệ của con người trong các
nhóm, các tổ chức xã hội, sự ra đời của Xã hội học nhằm đáp
ứng ba nhu cầu căn bản sau đây:
7

Thứ nhất, Xã hội học ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu nhận
thức xã hội. Con người là một thực thể xã hội, con người tồn
tại và phát triển trong xã hội. Và, trong tiến trình lịch sử con
người luôn muốn tìm hiểu thực chất mối quan hệ giữa người
với người trong đời sống xã hội. Do vậy, xã hội được tạo ra
bởi các quan hệ xã hội. Đó là mối quan hệ giữa người với
người được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn.
Trong việc giải quyết những vấn đề của đời sống xã hội, cải
tạo xã hội thì con người phải nhận thức được xã hội, hiểu biết
được xã hội và phải có những kiến thức phong phú về một xã
hội hết sức đa dạng. Xã hội học phải nhận thức và nghiên cứu
xã hội mới có phương cách để biến đổi chúng nhằm mục đích

phục vụ con người. Khi nhận thức một xã hội cụ thể phải dựa
theo quan điểm lịch sử, cụ thể và căn cứ vào những tiêu chí
văn hóa, dân cư, dân tộc và đường lối, chính sách của một
quốc gia cụ thể. Đồng thời cũng cần phải phản ánh trung thực,
thực trạng xã hội rất phức tạp, đa dạng và phải tính đến đặc
điểm đặc thù của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc cụ thể trong điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể.
Thứ hai, Xã hội học ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt
động thực tiễn. Thực tiễn cuộc sống của xã hội là hết sức
phong phú. Xã hội học luôn gắn liền với sự vận hành của
một xã hội cụ thể, luôn gắn liền với quá trình hoạt động thực
tiễn của con người trên tất cả các lónh vực của đời sống xã
hội. Xã hội học là một khoa học xuất phát từ thực tiễn và chỉ
có dựa vào thực tiễn thì nó mới thực hiện được các nhu cầu
khác.
Thứ ba, Xã hội học ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển của bản thân sự vận động của xã hội ngày càng đa
dạng, phong phú và hết sức phức tạp nhằm giải quyết những
vấn đề do cuộc sống của xã hội đặt ra.
8


II. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI CỦA XÃ HỘI
HỌC
1. Điều kiện kinh tế xã hội
Để cho Xã hội học ra đời thì nó phải hội đủ ba điều
kiện và tiền đề. Đó là điều kiện kinh tế - xã hội, là điều kiện
cơ bản nhất, nó phản ánh thực trạng kinh tế - xã hội trong
điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể – những diễn biến và biến
động diễn ra trong đời sống xã hội tư bản chủ nghóa. Đó là

cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ từ những năm giữa thế
kỷ XVIII ở châu Âu đã thúc đẩy nền sản xuất tư bản chủ
nghóa phát triển. Đó là quá trình công nghiệp hóa hiện đại,
đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh từ giữa
thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, đã thúc đẩy sự phát triển đô
thị một cách nhanh chóng, từ đó đã hình thành nên các trung
tâm công nghiệp, trung tâm thương mại và kéo theo sự hình
thành các tầng lớp dân cư mới, hình thành nên các nhóm xã
hội, các cộng đồng xã hội khác nhau.
Cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ, đô thị được hình
thành, tạo ra những sự chuyển dịch dân cư hết sức to lớn,
mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc và những quan hệ xã
hội hết sức phức tạp. Đồng thời, do ảnh hưởng của cuộc cách
mạng công nghiệp, chủ nghóa tư bản phát triển ở một trình
độ nhất định đã dẫn tới sự thay đổi chung về cơ cấu xã hội,
làm tan vỡ xã hội nông thôn truyền thống thời phong kiến,
làm thay đổi cả lối sống dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo và
sự bất bình đẳng xã hội. Trong xã hội thì tình trạng nghèo
nàn, quẫn bách, cùng cực của tầng lớp lao động, lao động bị
bóc lột và lạm dụng nhất là đối với phụ nữ và trẻ em. Các
khu nhà ổ chuột của dân nghèo xuất hiện, cùng với sự đồi
bại của bộ máy quan liêu.
9

Sự phát triển của đô thị đã làm đảo lộn trật tự và thói
quen của cộng đồng. Sự cách biệt giữa thành thị và nông
thôn đã làm thay đổi mối quan hệ đã ổn định từ lâu mà con
người đã gắn bó với cộng đồng. Sự thay đổi đó làm cho con
người băn khoăn về tương lai, suy nghó về sự ổn định của trật
tự xã hội.

Các yếu tố trên đã đặt ra cho các nhà khoa học cần
phải nghiên cứu để giải quyết những bức xúc ấy, để tìm hiểu
xã hội và xem bản chất xã hội là gì. Đó là một trong những
điều kiện để Xã hội học ra đời.
2. Điều kiện chính trị
Cuộc cách mạng tư sản nổ ra ở Hà Lan, và đặc biệt là
ở nước Anh (1642 - 1648), báo hiệu giờ cáo chung của chế
độ phong kiến châu Âu đã đến. Tiêu biểu là cuộc Đại cách
mạng Tư sản Pháp (1789 - 1794), ảnh hưởng rất lớn đến đời
sống xã hội - đòn quyết định tiêu diệt chế độ phong kiến
châu Âu. Đó là một cuộc cách mạng triệt để, đập tan chế độ
quân chủ chuyên chế của xã hội phong kiến, là hồi chuông
kết thúc đêm trường Trung cổ ở châu Âu. Nó đã đưa ra các
vấn đề về xã hội mới mẻ: Tự do - Bình đẳng - Bác ái... Nó
tạo ra bầu không khí tự do cho nhóm trí thức và làm xuất
hiện những tư tưởng tiến bộ, họ có cách nhìn khoa học đối
với xã hội - tự nhiên, họ giải thích thế giới một cách khoa
học, giải thích xã hội bằng những quy luật của chính nó. Đây
là một tiền đề ra đời của xã hội học nhằm xem xét quá khứ,
giải quyết hiện tại, dự báo cho tương lai và mô tả, xem xét
xã hội trên cơ sở khoa học.
Như vậy, những biến đổi chính trị - xã hội đã làm thay
đổi thế chế chính trị, trật tự xã hội ở châu u, quyền lực
chính trị đã chuyển sang tay giai cấp tư sản, đã góp phần
10


củng cố và phát triển chủ nghóa tư bản. Trong bối cảnh đó,
các nhà tư tưởng xã hội và các nhà xã hội học đã ra sức miêu
tả, tìm hiểu các quá trình, hiện tượng xã hội để giải thích

những biến động đang diễn ra trong xã hội.
3. Tiền đề khoa học - trí thức
Cùng với những biến động diễn ra trong đời sông kinh
tế - chính trị - xã hội, đó là sự phát triển tri thức của nhân
loại thời cổ như toán học của Pithagore, hình học của Ocloid,
vật lý của Arsimes đã được khôi phục lại sau đêm trường
Trung cổ. Về khoa học xã hội cũng như những tư tưởng của
Aristote, Platon, Decarte, đã được các nhà tư tưởng kế thừa
và phát huy. Do sự phát triển của trí thức nhân loại dẫn tới
sự phân hóa các ngành khoa học khác nhau. Trong đó có
ngành xã hội học. Nó là một nhu cầu, một tiền đề để xã hội
học ra đời.
Tóm lại, cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ vào
giữa thế kỷ XVIII đã tạo nên một sự đảo lộn ghê gớm trong
xã hội. Sự phát triển của kinh tế đã tạo điều kiện cho chủ
nghóa tư bản phát triển. Sự phát triển của kinh tế đã tạo nên
các đô thị lớn, tạo nên sự chuyển dịch dân cư khổng lồ cùng
với mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc căng thẳng. Các
quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, đa dạng, xã hội biến động,
khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội luôn diễn ra. Để quản
lý một xã hội như vậy đòi hỏi phải có một ngành khoa học đóng
vai trò như một bác só khám bệnh cho cơ thể sống xã hội và tiến
tới giải phẫu các mặt, các lónh vực... Xã hội học ra đời đáp ứng
những nhu cầu bức xúc đó.

11

4. Ý nghóa của sự ra đời xã hội học
Sự ra đời của xã hội học đã có một vị trí và ý nghóa cực
kỳ quan trọng đối với đời sống xã hội. Xã hội học cùng với

các ngành khoa học khác trang bị cho chúng ta những tri thức
khoa học, những hiểu biết để nhận thức các quy luật khách
quan của thực tiễn xã hội, qua đó nhận biết sự vận động của
hệ thống các mối quan hệ xã hội của các nhóm và cộng đồng
xã hội. Đồng thời xã hội học trang bị những tri thức nhằm
hiểu biết về con đường và các biện pháp để đạt được mục
đích cải tạo thế giới, cải tạo hiện thực phục vụ con người,
đặc biệt những nội dung tri thức của Xã hội học giúp cho mỗi
cá nhân nhận thức và tránh được bốn điều:
 Chớ nói điều trái lễ
 Chớ nghe điều trái lễ
 Chớ xem điều trái lễ
 Chớ làm điều trái lễ

III. NHỮNG NHÀ XÃ HỘI HỌC TIỀN BỐI
1. Xã hội học của Auguste Comte (1798–1857)
Ông là nhà lý thuyết xã hội, nhà thực chứng luận người
Pháp, người đầu tiên đưa ra thuật ngữ Xã hội học. Ông học ở
trường từ năm 1807 và đã đậu các kỳ thi Toán học và các
môn Xã hội nhân văn một cách xuất sắc. Ông đã có thời gian
là thư ký cho Saint-Simon, chủ nghóa xã hội không tưởng
Pháp, từ 1817 đến 1824. Ông đã chịu sự ảnh hưởng của Triết
học Ánh sáng (Phục hưng) và cũng là người chứng kiến
những biến động chính trị xã hội, các cuộc cách mạng công
nghiệp và những cuộc xung đột giữa khoa học và tôn giáo ở
Pháp. Các tác phẩm chính: Triết học thực chứng, xuất bản
12


1830 - 1842 (nhiều tập) và Hệ thống Chính trị học thực

chứng, xuất bản 1851 - 1854.
Phương pháp luận cơ bản của A.Comte là coi Xã hội
học là khoa học về các quy luật tổ chức xã hội. Xã hội học
phải hướng tới sự tìm ra những quy luật khái quát phản ánh
mối quan hệ căn bản nhất của các sự vật, các hiện tượng
trong xã hội. Xã hội học phải có nhiệm vụ góp phần tổ chức
lại xã hội và lập lại trật tự xã hội dựa vào các quy luật tổ
chức và biến đổi xã hội bằng phương pháp luận của chủ
nghóa thực chứng.
Tư tưởng chủ yếu trong xã hội học của Auguste Comte
là sự đoạn tuyệt với tư duy tự biện thuần túy và nó đã hình
thành nên những tri thức thực chứng để xem xét, nhìn nhận
những vấn đề xã hội liên quan đến con người. Ông luôn nhấn
mạnh đến vị trí vai trò của tổ chức xã hội và lập lại trật tự xã
hội theo đúng khuôn mẫu hành vi.
Theo ông, Xã hội học cũng giống như Khoa học tự
nhiên, như Vật lý, Sinh học trong việc vận dụng các phương
pháp luận nghiên cứu để tìm ra bản chất của xã hội, ông gọi
Xã hội học là Vật lý Xã hội. Ông phân loại các phương pháp
Xã hội học thành bốn nhóm:
 Quan sát;

 Tónh học xã hội nghiên cứu về trật tự xã hội, cơ cấu
xã hội, các thành phần và mối liên hệ của chúng: đơn vị cơ
bản nhất, sơ đẳng nhất của xã hội chính là gia đình và ông
đưa ra cách giải quyết nhấn mạnh tới vai trò của Nhà nước,
yếu tố văn hóa, tinh thần xã hội.
 Động học xã hội là nghiên cứu các quy luật biến
đổi xã hội trong các hệ thống xã hội theo thời gian. Ông
đưa ra quy luật ba giai đoạn để giải thích sự phát triển của

hệ thống cơ cấu xã hội:
 Thần học;
 Siêu hình;
 Thực chứng.
Ông cho rằng mỗi giai đoạn trước là điều kiện phát triển
của mỗi giai đoạn sau. Ở giai đoạn thực chứng, nhờ nắm vững
và giải thích có khoa học sự vận hành của xã hội mà con
người kiểm soát, quản lý bằng cách tuân thủ và vận dụng
được các quy luật của Tónh và Động học xã hội và các nhà trí
thức có khả năng đóng vai trò thủ lónh, lãnh đạo và quản lý xã
hội. Xã hội học có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu nhận thức, nhu
cầu giải thích những biến đổi xã hội, góp phần lập lại trật tự
ổn định xã hội.
2. Xã hội học của Karl Marx (1818 - 1883)

 Thực nghiệm;
 So sánh;
 Phân tích lịch sử.
Vật lý Xã hội học của ông được hợp thành từ hai bộ
phận chính: Tónh học xã hội và Động học xã hội (cơ thể xã
hội).

13

Là nhà triết học, nhà lý luận của phong trào Cộng sản
và công nhân thế giới và là nhà sáng lập chủ nghóa cộng sản
khoa học, là nhân vật đóng vai trò quan trọng trong lịch sử
phát triển của Xã hội học, Marx không để lại một lý thuyết
hoàn chỉnh về Xã hội học nhưng toàn bộ di sản đồ sộ của
Marx đã ảnh hưởng rất lớn đến Xã hội học, đặc biệt là học

thuyết về hình thái kinh tế - xã hội.
14


Marx đã chứng kiến một trật tự xã hội tư bản với một
thiểu số người là giai cấp tư sản bóc lột, áp bức, thống trị đa
số người khác là giai cấp công nhân. Từ đó, Marx đã có hệ
thống quan điểm phản ánh sâu sắc những biến đổi của thế
kỷ 19 với các cuộc cách mạng chính trị, công nghiệp hóa tư
bản chủ nghóa.
Marx đã phân tích sự vận động xã hội, đã chỉ ra quy
luật phát triển lịch sử của xã hội. Marx cho cơ sở của sự
phân hóa xã hội thành các giai cấp là các mối quan hệ xã
hội, ở đó hàm chứa những xung đột đối kháng. Mâu thuẫn
giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực của lịch sử, của sự
phát triển xã hội.
Cuộc đời của Marx là quá trình kết hợp giữa nghiên
cứu khoa học và hoạt động thực tiễn. Với hai phát kiến vó đại
của Marx và Engels là lý luận về giá trị thặng dư và chủ
nghóa duy vật lịch sử, Marx đã chuyển từ chủ nghóa duy tâm
sang chủ nghóa duy vật, từ người dân chủ sang người cộng
sản. Lý luận chủ nghóa duy vật lịch sử là lý luận và phương
pháp luận của Xã hội học mác-xít.
Nghiên cứu Xã hội học cần phân tích con người sản
xuất ra các phương tiện để sinh tồn như thế nào? Những điều
kiện nào cản trở những năng lực của con người trong xã hội?
Marx cho rằng sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sẽ dẫn đến
sự bất bình đẳng và phân tầng xã hội. Do vậy, cần phải xóa
bỏ chế độ sở hữu tư nhân và thay vào đó là chế độ sở hữu xã
hội (toàn dân và tập thể) để xây dựng xã hội công bằng, văn

minh.
Về quy luật phát triển của lịch sử, Marx đã chỉ rằng
lịch sử xã hội loài người trải qua năm hình thái kinh tế - xã
hội:
15

 Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản nguyên thủy;
 Hình thái kinh tế - xã hội Chiếm hữu nô lệ;
 Hình thái kinh tế - xã hội Phong kiến;
 Hình thái kinh tế - xã hội Tư bản chủ nghóa;
 Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghóa.
Quy luật phát triển lịch sử xã hội được làm sáng tỏ qua
hệ thống các khái niệm, phạm trù của chủ nghóa duy vật lịch
sử như: Tư liệu sản xuất, Quan hệ xã hội, Lực lượng sản
xuất, Phương thức sản xuất, Hình thái kinh tế - xã hội... Đặc
biệt là quan niệm về bản chất của xã hội và con người được
bắt nguồn tư trong quá trình sản xuất, trong các hoạt động
sản xuất ra của cải vật chất để phát huy năng lực của con
người trong xã hội.
Ngoài ra, Marx còn đề cập đến một loạt vấn đề xã hội
như khái niệm tha hóa, mối quan hệ giữa đời sống kinh tế
với các định chế xã hội khác, quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng, phân hóa xã hội, hôn nhân gia đình,
đô thị, nông thôn qua một loạt tác phẩm, tiêu biểu là:
 Hệ tư tưởng Đức, 1845;
 Sự khốn cùng của Triết học, 1847;
 Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, 1848;
 Tư bản luận, 1867, 1885, 1894.
3. Xã hội học của Herbert Spencer (1820 - 1903)
Ông là nhà Xã hội học người Anh sống trong tình hình

chính trị - xã hội Anh thế kỷ 19 không có nhiều biến động
gay gắt như ở Pháp. Ông đã phát triển “Lý thuyết Xã hội”
vào năm 1876. Do ảnh hưởng thuyết tiến hóa Darwin (1809 16


1882), ông đưa ra quan điểm tiến hóa xã hội. Ông giải thích:
chỉ có các cá nhân nào, hệ thống xã hội nào có khả năng
thích nghi nhất với môi trường xung quanh thì mới có thể tồn
tại được trong cuộc đấu tranh sinh tồn.
Spencer coi xã hội như là một cơ thể sống, cũng như
mọi hiện tượng tự nhiên, xã hội vận động và phát triển theo
quy luật. Ông cho rằng nguyên lý cơ bản nhất của Xã hội
học là nguyên lý tiến hóa. Các xã hội loài người phát triển
tuân theo những quy luật tiến hóa từ xã hội có cơ cấu nhỏ,
đơn giản, chuyên môn hóa thấp, không ổn định, dễ phân rã
đến xã hội có cơ cấu lớn, phức tạp, chuyên môn hóa cao, có
sự liên kết bền vững và ổn định.
Ông cho rằng các hiện tượng, quá trình xã hội luôn gắn
liền với các cá nhân với tất cả các đặc điểm về động cơ, nhu
cầu, tình cảm, trí tuệ và hành động phức tạp, đa dạng.
Nguyên lý cơ bản của Xã hội học là nguyên lý tiến hóa
xã hội. Sự tiến hóa xã hội tất yếu sẽ đưa ra xã hội tiến lên từ
xã hội thuần nhất, đơn giản đến xã hội phức tạp, đa dạng, từ
trạng thái bất ổn định, không hoàn hảo đến trạng thái cân
bằng, hoàn hảo.
Ông phân chia xã hội thành hai loại:
 Xã hội quân sự với đặc trưng là cơ chế tổ chức, điều
chỉnh mang tính tập trung, độc đoán để phục vụ mục tiêu
quốc phòng và chiến tranh;
 Xã hội công nghiệp với đặc trưng là cơ chế tổ chức

ít tập trung và ít độc đoán nhằm phục vụ mục tiêu sản xuất
hàng hóa và dịch vụ.
Tóm lại, Spencer đã để lại nhiều ý tưởng quan trọng
được tiếp tục phát triển trong các trường phái, lý thuyết Xã
hội học hiện đại. Ông dùng lý thuyết tiến hóa để giải thích
17

sự biến chuyển xã hội, ông cho rằng tiến hóa là một quá
trình tự nhiên và sự tiến hóa không làm cản trở bước tiến của
nhân loại.
4. Xã hội học của Emile Durkheim (1858 - 1917)
Ông là nhà Xã hội học nổi tiếng người Pháp, là nhà
khoa học chuyên ngành đầu tiên trong lịch sử Xã hội học,
người đặt nền tảng xây dựng chủ nghóa chức năng và chủ
nghóa cơ cấu và là nhà Xã hội học cả từ cơ sở khoa học lẫn
chính trị. Ông là người có công đầu tiên đưa khoa học xã hội
học vào nghiên cứu giảng dạy trong các trường Đại học ở
Pháp. Trong thời kỳ làm việc ở Bordeaux, ông đã cho ra đời
ba tác phẩm quan trọng:
 Sự phân công lao động xã hội,
 Các quy tắc của phương pháp Xã hội học,
 Tự tử.
 Durkheim quan niệm về Xã hội học:
Là khoa học nghiên cứu sự kiện xã hội, xã hội học, sử
dụng phương pháp thực chứng (quan sát) để nghiên cứu, giải
thích nguyên nhân và các chức năng của sự kiện xã hội, chịu
ảnh hưởng nhiều về lý luận của các nhà tư tưởng châu u
như Staint-Simon, A.Comte, H.Spencer... Ông chủ trương Xã
hội học phải trở thành khoa học về các quy luật tổ chức xã
hội. Ông quan niệm xã hội biến đổi từ xã hội đơn giản (cơ

học) đến xã hội phức tạp (hữu cơ). Xã hội học của ông xoay
quanh mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Muốn Xã hội học trở thành khoa học thì cần phải xác
định đối tượng nghiên cứu một cách khoa học. Phải coi xã
hội, cơ cấu xã hội, thiết chế xã hội, đạo đức, truyền thống,
18


phong tục, tập quán, ý thức tập thể... là các sự kiện xã hội,
các sự vật, các bằng chứng có thể quan sát được.
Trong việc xác định đối tượng nghiên cứu của xã hội
học là sự kiện xã hội, ông đã đề ra các qui tắc của phương
pháp xã hội học, đặc biệt là phương pháp luận cấu trúc - chức
năng để từ đó phát hiện ra nguyên nhân, chức năng hệ quả
của các sự kiện xã hội đối với sự vận động ổn định trật tự của
hệ thống xã hội.
 Phương pháp nghiên cứu Xã hội học của Durkheim:
– Sự kiện xã hội được hiểu theo hai nghóa: thứ nhất,
các sự kiện xã hội vật chất như nhóm, dân cư và tổ chức xã
hội; thứ hai, các sự kiện xã hội phi vật chất như hệ thống
chính trị, chuẩn mực, phong tục tập quán xã hội;
bản:

– Theo Durkheim, sự kiện xã hội có ba đặc trưng cơ

 Sự kiện xã hội là những gì bên ngoài cá nhân, các
cá nhân không chỉ sinh ra trong môi trường đã có sẵn các sự
kiện như các thiết kế, chuẩn mực, giá trị, niềm tin, cơ cấu xã
hội..., họ còn được học tập, chia sẻ và tuân thủ các chuẩn
mực xã hội;

 Các sự kiện xã hội bao giờ cũng là chung đối với
nhiều cá nhân, nó được toàn cộng đồng xã hội chia sẻ, chấp
nhận;
 Các sự kiện xã hội bao giờ cũng có sức mạnh kiểm
soát, hạn chế, cưỡng chế hành động và hành vi của các cá
nhân.
 Các khái niệm cơ bản trong Xã hội học Durkheim:

19

– Khái niệm đoàn kết xã hội: Khái niệm này gần giống
khái niệm hội nhập xã hội hiện nay đang sử dụng. Dùng khái
niệm này chỉ mối quan hệ giữa cá nhân - xã hội, giữa cá
nhân - cá nhân, giữa cá nhân - nhóm xã hội. Nếu không có
đoàn kết xã hội thì cá nhân riêng lẻ, biệt lập, không tạo
thành xã hội với tư cách là một chỉnh thể (trong tác phẩm
“Phân công lao động xã hội”, ông cho rằng, đoàn kết là
phương thức của những mối quan hệ, là một kiểu quan hệ,
một hình thức của khả năng xã hội. Ông phân biệt rõ hai
hình thức đoàn kết: đoàn kết máy móc và đoàn kết có tổ
chức, trong đó đoàn kết máy móc sẽ dần bị thay thế bởi đoàn
kết có tổ chức).
– Đoàn kết cơ học là kiểu đoàn kết xã hội dựa trên sự
thuần nhất đơn điệu của các giá trị, niềm tin, cá nhân gắn bó
với nhau vì có sự kiểm soát của xã hội và vì lòng trung thành
của cá nhân đối với truyền thống, tập tục và quan hệ gia
đình...
– Đoàn kết hữu cơ là kiểu đoàn kết xã hội dựa trên sự
phong phú, đa dạng của các mối liên hệ, tương tác giữa các
cá nhân với các bộ phận cấu thành xã hội.

Tóm lại, Xã hội học của Durkheim nghiên cứu các sự
kiện xã hội. Ông đã xây dựng được cơ sở lý thuyết Xã hội
học. Ông cho rằng xã hội tiến bộ được là do có sự góp phần
chung của niềm tin, giá trị của mỗi thành viên. Ông quan
niệm các chuẩn mực xã hội, quy tắc xã hội luôn có tác dụng
điều tiết hành vi và thái độ của cá nhân thông qua những giá
trị mà cá nhân đã nội tâm hóa. Tác phẩm Tự tử không chỉ
thuần túy mang tính cá nhân mà nó còn mang cả yếu tố xã
hội nữa.

20


5. Xã hội học của Max Weber (1864 - 1920)
Ông là nhà Xã hội học người Đức, đã có những đóng
góp rất lớn về mặt phương pháp luận đối với Xã hội học hiện
đại trong bối cảnh lịch sử xã hội và triết học Đức cuối thế kỷ
19 với những cuộc tranh luận về bản chất phương pháp khoa
học xã hội - khoa học tự nhiên (KHXH - KHTN):
 Ông quan niệm, về phương pháp luận của xã hội
học thì đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên là các sự
kiện vật lý của giới tự nhiên, còn đối tượng nghiên cứu của
khoa học xã hội là hoạt động xã hội của con người.
 Tri thức khoa học tự nhiên là sự hiểu biết về giới tự
nhiên có thể giải thích nó bằng các quy luật khách quan,
chính xác, còn tri thức khoa học xã hội là sự hiểu biết về xã
hội do con người tạo ra.
 Khoa học tự nhiên chỉ cần quan sát các sự kiện của
tự nhiên và tường thuật lại kết quả quan sát là đu; còn khoa
học xã hội, ngoài phạm vi quan sát thì còn phải giải thích, lý

giải động cơ, quan niệm và thái độ của các cá nhân. Đặc
biệt, giải thích xem những chuẩn mực văn hóa, hệ giá trị và
những hiểu biết của cá nhân ảnh hưởng như thế nào đến
hành động của họ.
Ông cho rằng, Xã hội học là khoa học cố gắng giải
thích hành động xã hội và tiến đến giải thích nhân quả về
đường lối và hiệu quả hành động xã hội.
Hành động xã hội là đối tượng nghiên cứu của Xã hội
học. Đó là hành động được chủ thể gắn cho nó một ý nghóa chủ
quan nào đó, là hành động có tính đến hành vi của người khác,
được định hướng tới người khác, trong đường lối trong quá trình
của nó.

21

Không phải hành động nào cũng có tính xã hội. Ví dụ:
Hành động chỉ nhằm đến các sự vật mà không tính đến hành
vi của người khác thì không được gọi là hành động xã hội;
hành động của các cá nhân trong một đám đông cũng không
coi là hành động xã hội, như trời đổ mưa trên đường phố thì
nhiều người che dù, mặc áo mưa... thì không phải hành động
xã hội; hai người đi xe quệt nhau; hành động bắt chước thuần
túy hay làm theo người khác đều không phải là hành động
xã hội. Nhưng sự bắt chước đó là mốt, là mẫu mực, nếu
không sẽ bị người khác chê cười thì hành động bắt chước đó
là hành động xã hội, vì vậy rất khó xác định được biên giới
giữa hành động xã hội và hành động không xã hội...
Có bốn loại hành động xã hội:
+ Hành động duy lý – công cụ là hành dộng được thực
hiện với sự cân nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương

tiện, mục đích sao cho có hiệu quả nhất: hành động kinh tế.
+ Hành động duy lý – giá trị là hành động được thực
hiện vì bản thân hành động. Loại hành động này có thể
nhằm vào những mục đích phi lý nhưng lại thực hiện bằng
những công cụ, phương tiện duy lý: hành vi tín ngưỡng.
+ Hành động duy lý – truyền thống là hành động tuân
thủ những thói quen, nghi lễ, phong tục, tập quán được
truyền từ đời này sang đời khác: “hành động theo người
xưa”, “các cụ dạy”, “cổ nhân nói”...
+ Hành động duy cảm (xúc cảm) là hành động do xúc
cảm hoặc tình cảm bộc phát gây ra mà không có sự cân
nhắc, xem xét, phân tích: như hành động đám đông quá
khích...
Tóm lại, công lao quan trọng của M.Weber đối với Xã
hội học hiện đại là việc đưa ra những quan niệm và cách giải
22


quyết độc đáo những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên
cứu khoa học Xã hội học. Xã hội học có nhiệm vụ trả lời
những câu hỏi về động cơ, ý nghóa của hành động xã hội.
Xem xét động cơ nào thúc đẩy, chi phối, dẫn dắt cá nhân,
nhóm xã hội phải hành động và những hành động đó có ý
nghóa như thế nào với các thành viên trong xã hội. Xã hội
học để giải thích nguyên nhân, điều kiện và hệ quả của hành
động xã hội. Ngoài ra, lý thuyết Xã hội học của ông còn
nghiên cứu những vấn đề về các hành động xã hội và phân
tầng xã hội, về xã hội tư bản nói chung đều đề cập đến hai
yếu tố kinh tế và yếu tố phi kinh tế trong quá trình hình
thành và biến đổi cơ cấu xã hội.


IV. KHÁI QUÁT XÃ HỘI HỌC MARX - LENIN
Marx và Engels là những nhà sáng lập ra Xã hội học
khoa học. Các ông đã phân tích khá sâu sắc và toàn diện xã
hội tư bản chủ nghóa, phân tích một cách sâu sắc những mâu
thuẫn trong xã hội tư bản, đã chứng minh quan điểm duy vật
về lịch sử và xã hội. Marx và Engels đã phát hiện ra những
quy luật phát triển của chủ nghóa tư bản, phát hiện ra tính
quy luật tất yếu của bước quá độ từ chủ nghóa tư bản sang
chủ nghóa xã hội. Di sản đồ sộ của Marx và Engels đã được
quán triệt và phát triển thông qua các tác phẩm: Tư bản, Đấu
tranh giai cấp ở Pháp, Ngày 18 tháng sương mù của Lui
Bonapactơ, Nội chiến ở Pháp...
Từ giữa thế kỷ thứ XX đến nay, khoa học xã hội học
đã phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhân loại đã chứng
kiến, ghi nhận kế thừa vận dụng và sáng tạo lý luận xã hội
học của Marx, Engels, Lenin. Tư tưởng Xã hội học quan
trọng của Lenin được thể hiện rõ trong nhiều tác phẩm.
Lenin nhấn mạnh sự cần thiết dựa vào các sự kiện có thật,
23

chính xác, thực tiễn sống động không thể chối cãi để xây
dựng và phát triển một xã hội mới – xã hội chủ nghóa.
Ở những năm đầu thế kỷ thứ XX, Lenin đã nghiên cứu
rất nhiều những vấn đề về Xã hội học. Một lần nữa Người
đã nhấn mạnh rằng để nghiên cứu xã hội học mang tính thực
sự khoa học phải xuất phát từ những sự kiện thật chính xác.
Phải xét đến các sự thật riêng biệt, những sự thật có liên
quan đến những vấn đề đang xét, những sự thật đã được lựa
chọn.

Trong khi phát triển và tiếp tục hoàn thiện khoa học xã
hội học Marxism-Leninism, các nhà kinh điển của chủ nghóa
Marx-Lênin luôn sử dụng phương pháp làm việc thể hiện sự
thống nhất giữa lý luận và kinh nghiệm. Đó là một đòi hỏi
quan trọng trong các hoạt động của các nhà xã hội học nhằm
phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghóa xã hội.
Ở Việt Nam, ngành Xã hội học tuy mới được xây dựng,
song đã có rất nhiều cố gắng phát huy tác dụng để nhận thức
và ứng dụng vào quản lý xã hội. Nhiều nhà xã hội học đã
kết hợp chặt chẽ với các cấp ủy Đảng, các tổ chức nhà nước
và các đoàn thể quần chúng đã có những công trình khảo sát,
phân tích dự đoán dự báo tình hình thực tiễn xã hội, từ đó đề
xuất những giải pháp quản lý xã hội nhằm phục vụ quá trình
công nghiệp hóa và hiện đại hóa trên tất cả các lónh vực của
đời sống xã hội.
Tuy nhiên, Xã hội học là một ngành khoa học còn mới
lạ ở nước ta, đội ngũ các chuyên gia xã hội học còn thiếu,
điều kiện và kinh phí hoạt động còn khó khăn, vì vậy chưa
đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ
“Cần phải phát triển nhanh các ngành khoa học xã hội và
nhân văn: kinh tế học, khoa học chính trị, khoa học quản lý,
24


luật học. Phải đưa khoa học xã hội học vào trong đời sống xã
hội mới đáp ứng, lý giải được những bức xúc do cuộc sống
đặt ra”.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi
xướng và qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dân tộc
ta đã thu được nhiều thành tựu quan trong trên tất cả các lónh

vực. Đặc biệt, để phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đòi hỏi chúng taồng cần có kiến thức đúng về
tình dục, quan hệ tình dục và phải biết quan hệ tình dục một
cách có văn hóa (văn hóa tình dục) sao cho luôn duy trì được
sự hòa hợp và thường xuyên đạt đến sự khoái cảm tinh thần
và nhục thể một cách mỹ cảm.
f. Nhân tố thứ sáu: Điều kiện và môi trường sống
 Mức sống, thu nhập của gia đình;
 Nhà ở và các tiện nghi liên quan đến sức khỏe, cân
bằng tâm lý, giáo dục, nghỉ ngơi;
 Các tiện nghi sinh hoạt, phương tiện đi lại;

Quần hôn: hôn nhân diễn ra ngẫu nhiên giữa tập thể
con gái của thị tộc này với tập thể con trai của thị tộc kia;
Hôn nhân đối ngẫu: là kiểu hôn nhân trên cơ sở quần
hôn, chỉ khác là trong rất nhiều các bà vợ thì có một người là
vợ chính của mình;
Hôn nhân nhóm: là kiểu hôn nhân có từ hai người đàn
ông trở lên cùng chung sống, quan hệ với hai người phụ nữ
trở lên, nhưng quy mô nhỏ hơn quần hôn;
Hôn nhân đa phu và đa thê: là hôn nhân mà đàn ông có
từ hai vợ trở lên, phụ nữ có hai chồng trở lên. Hiện nay còn
tồn tại, đàn ông Hồi giáo có quyền có nhiều vợ, phụ nữ Tây
Tạng có quyền có nhiều chồng.
4. Các kiểu hôn nhân đương đại
Hôn nhân một vợ một chồng: hôn nhân tiến bộ nhất;
Hôn nhân mở: chỉ tồn tại về mặt hình thức, có sự chứng
kiến của luật pháp nhưng đời sống thực tế không ràng buộc
nhau về kinh tế, con cái, đặc biệt là về quan hệ sex;
Hôn nhân thử: là sự chung sống của một nam và một

nữ trong một thời gian không xác định trước, nếu thấy phù
hợp thì sẽ tiến tới hôn nhân, còn nếu không thì chia tay.

 Quỹ thời gian rảnh rỗi, cách tổ chức đời sống gia
đình, điều kiện dành cho phụ nữ.
3. Các kiểu hôn nhân trong lịch sử
Hôn nhân đồng huyết: xuất hiện thời nguyên thủy, là
kiểu hôn nhân đồng huyết thống anh chị em ruột, anh chị em
có thể quan hệ tình dục với nhau (trừ cha, mẹ với con).

145

146


BÀI 12
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ THUẬT
ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Khái niệm phương pháp
Theo nghóa chung nhất thì phương pháp là cách thức để
đạt được mục tiêu, là một hoạt động được sắp xếp theo một
trật tự nhất định. Ta cũng có thể hiểu phương pháp là cách
thức tiếp cận đối tượng nghiên cứu một cách có hệ thống.

PHẦN III

Theo nghóa triết học thì phương pháp là phương tiện để
nhận thức, là cách thức tái hiện lại đối tượng nghiên cứu
trong tư duy. Quá trình phát triển của nhận thức và quá trình

hoạt động thực tiễn của con người đã hình thành nên một số
phương pháp và quy tắc chung của tư duy khoa học như:

PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ THUẬT
ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

 Phương pháp quy nạp và diễn dịch;
 Phương pháp phân tích và tổng hợp;
 Phương pháp thực nghiệm;
 Phương pháp so sánh;
 Phương pháp phân tích hệ thống - cấu trúc;
 Phương pháp lịch sử lôgic;
 Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể...

147

148


Cơ sở của các loại phương pháp trên đây là các quy
luật khách quan của thực tại, vì vậy phương pháp luôn luôn
gắn bó chặt chẽ với lý luận. Hegels coi phương pháp chính là
sự tóm tắt của nội dung, là sự vận động của nội dung. Cũng
tùy theo mức độ khái quát và phạm vi ứng dụng của từng
loại phương pháp mà có thể phân loại thành ba phương pháp
khác nhau như:
 Phương pháp chung nhất;

pháp mới cũng như việc sử dụng một cách rộng rãi các
phương pháp khoa học khác nhau trong mỗi ngành khoa học,

vì vậy nó có sự mượn của nhau, và áp dụng của nhau các
phương pháp cũng như sự tràn qua lẫn nhau về phạm vi ứng
dụng của các phương pháp. Do vậy việc sử dụng các loại
phương pháp chỉ mang tính tương đối trong sự ổn định của
nó.
2. Phương pháp luận

 Phương pháp chung;
 Phương pháp cụ thể.
Phương pháp chung nhất là phương pháp triết học duy
vật biện chứng: đó là phương pháp mà tính khái quát và
phạm vi ứng dụng của nó rộng nhất. Nó khái quát ở cả ba
lónh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; đồng thời những phương
pháp luận của nó cũng được ứng dụng cho mọi khoa học và
mọi lónh vực của hoạt động thực tiễn của con người trong đời
sống xã hội;
Phương pháp chung là phương pháp của các ngành
khoa học riêng biệt như phương pháp toán học, thống kê...
Song phạm vi ứng dụng của nó khá rộng, nó có thể được áp
dụng sang cả một số ngành khoa học khác;
Phương pháp cụ thể là những phương pháp được khái
quát và ứng dụng trong một phạm vi hẹp của một ngành khoa
học nhất định nào đó. Ví dụ như phương pháp giải phẫu so
sánh trong giải phẫu học, phương pháp bình thông nhau trong
vật lý học, phương pháp xây dựng mô hình giáo dục trong giáo
dục học...
Tuy nhiên trong sự phát triển như vũ bão của khoa học
công nghệ, thông tin hiện nay đã nẩy sinh nhiều phương
149


Trong một chừng mực nhất định nào đó phương pháp
luận có thể được hiểu theo hai nghóa: Thứ nhất, đó là toàn bộ
các biện pháp nghiên cứu được áp dụng trong một khoa học
cụ thể nào đó. Thứ hai, phương pháp luận là lý luận về
phương pháp, là sự luận chứng về mặt lý luận những phương
pháp nghiên cứu khoa học. Phương pháp luận cũng bao gồm
ba cấp độ khác nhau: phương pháp luận cụ thể, phương pháp
luận chung và phương pháp luận chung nhất. Phương pháp
này đã luận chứng về mặt lý luận cho các phương pháp nhận
thức khoa học bằng các quy luật khách quan của tự nhiên, xã
hội và tư duy, là cơ sở cho mọi hoạt động nghiên cứu khoa
học cũng như hoạt động thực tiễn của con người trong quá
trình cải biến hiện thực. Các phương pháp luận trên đây có
sự phân chia tương đối nhưng có mối quan hệ bổ sung cho
nhau, thâm nhập vào nhau và không hoàn toàn thay thế cho
nhau.
3. Phương pháp luận Xã hội học
Theo Từ điển Xã hội học phương Tây hiện đại, phương
pháp luận Xã hội học là học thuyết về phương pháp nhận
thức xã hội, là hệ thống của các nguyên tắc triết học xã hội
và lịch sử triết học nhằm giải thích con đường và luận giải
150


cho những phương pháp để xây dựng và vận dụng tri thức xã
hội học...
Phương pháp luận Xã hội học được dựa trên những
định đề bản thể luận về những đặc trưng của hiện thực xã
hội, vì thế có nhiều phương pháp luận Xã hội học khác nhau.
Tuy nhiên cũng cần phải phân biệt nó với phương pháp của

việc nghiên cứu xã hội học - cụ thể.

II. CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ THUẬT ĐIỀU TRA XÃ
HỘI HỌC
Trong thực tế có rất nhiều phương pháp điều tra xã hội
học đã được hình thành và được sử dụng rộng rãi ở nhiều
quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên việc sử dụng các phương
pháp còn tùy thuộc vào truyền thống, vào điều kiện lịch sử
cụ thể của những quốc gia và khu vực khác nhau. Nhưng
thông dụng nhất hiện nay vẫn là bốn phương pháp cơ bản
sau:

chúng ta có các tài liệu xã hội hóa như: tự truyện, hồi ký,
nhật ký, diễn văn... Xét theo quy mô của việc lưu trữ tài liệu,
chúng ta có tài liệu quốc gia, tài liệu của các cấp, đơn vị
hành chính của các ban, ngành, bộ, tỉnh, huyện và tài liệu
của các cơ quan xí nghiệp... Đối với nhà nghiên cứu xã hội
học thì giá trị của tài liệu trước hết là những thông báo về
bản thân đối tượng. Do đó sự phân tích tài liệu đòi hỏi phải
thật chính xác, linh hoạt và phải bao hàm các yêu cầu cơ
bản:
 Tính chân, giả của tài liệu (bản sao hay tài liệu
gốc);
 Phải có thái độ phê phán đối với tài liệu;
 Phải trả lời được các câu hỏi:


Tên loại tài liệu là gì?




Xuất xứ của tài liệu?



Tác giả tài liệu là ai?



Mục đích của tài liệu?



Độ tin cậy của tài liệu?



Tính xác thực của tài liệu?



Ảnh hưởng xã hội của tài liệu?

 Tài liệu viết;



Nội dung và giá trị của tài liệu?

 Tài liệu thống kê;




Thông tin trong tài liệu?

1. Phương pháp phân tích tài liệu
Trong xã hội học thì tài liệu là một hiện vật được con
người tạo nên một cách đặc biệt dùng để truyền tin hoặc bảo
lưu thông tin. Bao gồm bốn loại tài liệu:

Về phương pháp phân tích tài liệu thì xã hội học
thường dùng hai phương pháp.

 Tài liệu điện quang;
 Tài liệu ghi âm.
Theo đặc điểm và chuyên ngành khoa học, chúng ta có
các tài liệu về pháp luật, về lịch sử, về kinh tế, về chính trị...
Nếu theo nhát cắt về tài liệu xã hội hóa và tài liệu cá nhân,
151

 Phương pháp phân tích định tính là phương pháp
phân tích truyền thống, nhà nghiên cứu phải rút ra được
những nội dung tư tưởng cơ bản của tài liệu để tìm ra những
152


ý nghóa hay những nội dung liên quan đến chủ đề nghiên
cứu.

pháp luật, tôn giáo, ngôn ngữ hay là chính trị... cần phải có

sự am hiểu rất nhiều ở từng chuyên ngành cụ thể.

 Phương pháp phân tích định lượng là phương pháp
phân tích hình thức hóa, gắn chặt với việc phân nhóm các
dấu hiệu, tìm ra được những mối quan hệ nhân quả giữa các
nhóm chỉ báo và máy tính điện tử có một vai trò quan trọng
để tiến hành phương pháp này. Phương pháp phân tích định
lượng được sử dụng trong những trường hợp phải xử lý một
khối lượng thông tin lớn, phong phú.

2. Phương pháp quan sát

Yêu cầu đối với phương pháp này đòi hỏi phải phân
tích có hệ thống, và tiến hành phân loại khái quát hóa các dữ
kiện, so sánh các kết luận với các giả thiết để rút ra những
thông tin cần thiết từ tài liệu. Đồng thời những kết luận được
rút ra đó phải có giá trị thiết thực về cả mặt lý luận lẫn thực
tiễn đáp ứng được mục tiêu của cuộc nghiên cứu. Phương
pháp này có ưu điểm là sử dụng tài liệu có sẵn, ít tốn kém về
công sức, thời gian, kinh phí và không cần phải sử dụng
nhiều người. Nhưng nó cũng có nhược điểm là tài liệu ít
được phân chia theo những dấu hiệu mà ta mong muốn, số
liệu thống kê chưa được phân bổ theo các cấp độ xã hội khác
nhau như nhóm xã hội, tầng xã hội mà mới chỉ được khảo sát
theo đơn vị hành chính chứ chưa đi sâu phân tích các đặc
trưng và khía cạnh xã hội theo chỉ tiêu kinh tế trong từng
nhóm xã hội, như có nhóm xã hội giàu có, nhóm xã hội
nghèo. Các chỉ tiêu thống kê cũng thiếu những chỉ tiêu về lối
sống, những yếu tố ra đời về đời sống tinh thần, dư luận xã
hội, tâm trạng, định hướng giá trị, các chỉ tiêu thống kê cũng

mang tính ngẫu nhiên cao, tính hệ thống và ổn định thấp. Và
những tài liệu chuyên ngành đòi hỏi phải có những chuyên
ngành có trình độ cao như khi phải phân tích các tài liệu về

Trong nghiên cứu Xã hội học thì quan sát là một
phương pháp thu thập thông tin về đối tượng nghiên cứu
bằng các tri giác trực tiếp và ghi chép lại những nhân tố
liên quan đến đối tượng nghiên cứu. Nhiệm vụ của phương
pháp này là nhận thức các đặc điểm, các mối liên hệ hiện
có của đối tượng nghiên cứu. Quan sát phải bảo đảm tính
có hệ thống, có mục đích và có kế hoạch:
 Xác định được khách thể, mục tiêu, nhiệm vụ đối
tượng quan sát;
 Xác định thời gian và yêu cầu về mặt tài chính;
sát;

 Dự kiến trước các phương án khó khăn trong khi quan
 Cách thức và chuẩn bị giấy tờ, thủ tục;
 Lựa chọn các phương pháp quan sát;

 Chuẩn bị tài liệu, kế hoạch, thiết bị kỹ thuật in
phiếu, văn bản, văn phòng phẩm...
 Thực hành quan sát.
Các phương pháp thu thập thông tin được sử dụng trong
quan sát:
 Ghi chép vắn tắt;
 Ghi các mối liên hệ cơ bản;
 Biên bản quan sát;
 Nhật ký quan sát;
 Ghi âm, chụp ảnh, quay phim.


153

154


Trong các loại quan sát thì cần chú ý những điểm:
 Nhà quan sát đóng vai là một thành viên bình
thường của nhóm xã hội;
 Nhà quan sát không xuất đầu lộ diện và tỏ ra không
chú ý nhiều đến những điều đang xảy ra ở nơi quan sát.
Nhà nghiên cứu nghe và nghiên cứu nhiều hơn, ít đặt
ra câu hỏi. Còn đối với người tham dự quan sát thì không
giấu giếm vai trò của mình và được sự đồng ý của tập thể nơi
quan sát. Nên hạn chế tiếp xúc với người bị quan sát.
Như vậy quan sát là một trong những phương pháp thu
thập thông tin trong điều tra xã hội học. Tùy theo cách thức
tiến hành quan sát ta có thể chia thành các loại quan sát sau:
Thứ nhấtø, chia theo vị trí của người quan sát: bằng cách
thâm nhập. Người quan sát thâm nhập vào đời sống xã hội
và tham gia vào nhóm xã hội cần quan sát để dễ dàng chứng
kiến, ghi nhận những thông tin cần thiết cho cuộc điều tra.
Hoặc người quan sát không thâm nhập mà chỉ đứng ngoài
nhóm xã hội cần quan sát.
Thứ hai, chia theo sự thể hiện của người quan sát:
người quan sát công khai tiếp cận mục tiêu, nói thẳng mục
đích của mình đối với người được quan sát (thường kết quả
thiếu chính xác, còn phương pháp quan sát bí mật sẽ giúp ta
thu được những thông tin tương đối chính xác).
3. Phương pháp phỏng vấn

Phỏng vấn là phương pháp thu thập thông tin trực tiếp,
phương pháp thu thập thông tin qua hỏi và đáp. Điều tra viên
đặt câu hỏi cho đối tượng cần khảo sát và sau đó ghi nhận các
kết quả vào phiếu. Ta có thể chia phương pháp này thành hai
155

dạng: phỏng vấn tiêu chuẩn hóa và phỏng vấn không tiêu
chuẩn hóa.
 Phỏng vấn tiêu chuẩn hóa là cuộc phỏng vấn được
thực hiện theo một trình tự nhất định với một nội dung đã
được vạch sẵn dùng để hỏi mọi đối tượng giống nhau. Trong
cuộc phỏng vấn này, người phỏng vấn tiến hành thu thập thông
tin dựa theo một bảng hỏi đã được soạn thảo. Cả người phỏng
vấn và người được phỏng vấn phải tuân thủ một trình tự nghiêm
ngặt, không được đưa thêm các câu hỏi bổ sung và thay đổi trật
tự của các câu hỏi hoặc các phương án trả lời ngoài các phương
án đã có sẵn trong bảng hỏi.
 Phỏng vấn không tiêu chuẩn hóa là một cuộc đàm
thoại tự do theo một chủ đề đã được vạch sẵn. Phỏng vấn
này tùy theo tình huống cụ thể mà đưa ra các nội dung câu
hỏi khác nhau, đồng thời để thu thập được lượng thông tin
mong muốn, người phỏng vấn có thể sử dụng các câu hỏi
khác nhau chứ không nhất thiết phải theo một trật tự nào.
Người phỏng vấn có thể đưa ra những nhận xét của mình về
vấn đề đặt ra và thông qua trao đổi để thu nhận những thông
tin cần thiết.
Trong Xã hội học, phỏng vấn là một quá trình điều tra
sáng tạo và phải sử dụng một cách khôn khéo các câu hỏi
chức năng và câu hỏi tâm lý xen kẽ vào bảng hỏi. Người đi
phỏng vấn phải có một trình độ nhất định, phải am hiểu các

lónh vực trong đời sống xã hội, nhất là các lónh vực ta đang
nghiên cứu. Mặt khác, người phỏng vấn phải là người biết
cách để lái câu chuyện theo chủ đề đưa ra, không đi xa khỏi
ý đồ thu nhận thông tin mà không làm mất lòng người bị
phỏng vấn. Bởi vậy, muốn cho cuộc phỏng vấn thu được kết
quả tối ưu thì trong mọi tình huống của các cuộc phỏng vấn
luôn đòi hỏi có sự ứng xử linh hoạt, sáng tạo, nó như là một
156


cuộc trao đổi, tọa đàm, một cuộc trò chuyện nhẹ nhàng, song
hiệu quả thông tin lại rất cao.

phương pháp An - két thì thông tin thu được nhiều hơn và sự
chuẩn bị cũng công phu hơn.

4. Phương pháp An - két

Thứ hai, phỏng vấn là một quá trình tìm kiếm khám
phá, nó thường gắn bó với một số ít đối tượng nghiên cứu và
các đối tượng này thường không nằm trong một lớp cơ bản
(tức là không đồng nhất).

Đây là phương pháp thu thập thông tin gián tiếp qua
bảng hỏi tức là qua phiếu tìm hiểu ý kiến. Đặc trưng cơ bản
của phương pháp này là chỉ sử dụng một bảng câu hỏi đã
được quy chuẩn dùng để hỏi chung cho mọi người nằm trong
mẫu điều tra. Thông thường người hỏi và người đáp không
tiếp xúc trực tiếp với nhau mà thông qua cộng tác viên.
Những cuộc điều tra xã hội học sử dụng phương pháp này

đòi hỏi phải soạn thảo một bảng câu hỏi khoa học, các câu
hỏi phải tuân thủ những yêu cầu hết sức nghiêm ngặt phù
hợp với đối tượng và trách nhiệm cao trong tiến hành chọn
mẫu đại diện. Phương pháp điều tra An - két giúp ta có thể
cùng một lúc sẽ thu thập được ý kiến của nhiều người và nó
được xử lý bằng vi tính. Phương pháp này được tiến hành qua
ba phương pháp cụ thể:
 Qua cộng tác viên;

Thứ ba, phương pháp phỏng vấn yêu cầu về sự lựa
chọn mẫu đại diện không quá chặt chẽ, còn ở phương pháp
An - két yêu cầu về chọn mẫu đại diện hết sức nghiêm ngặt.
Thứ tư, ở phương pháp phỏng vấn việc thu thập thông
tin thường do nhà nghiên cứu lập ra hệ thống giả thuyết; còn
phương pháp An - két quá trình này lại thông qua cộng tác
viên được tập huấn chu đáo. Những thông tin thu được từ
phỏng vấn không khẳng định chắc chắn một kết luận nào đó
hay đưa ra một suy luận quá rộng cho một tập hợp xã hội hay
một đại diện dân cư, còn thông tin thu được từ phương pháp
An - két thường mang lại tính khẳng định cao và mang tính
đại diện cho một tập hợp xã hội đông người, rộng lớn.

 Gửi phiếu đến người được hỏi qua bưu điện;
 Qua điện thoại.
Việc sử dụng phương pháp phỏng vấn và phương pháp
An - két có sự khác nhau về mặt kỹ thuật.
Trước hết, ở phương pháp phỏng vấn cuộc điều tra
được tiến hành thông qua hỏi và đáp, người phỏng vấn và
đối tượng được khảo sát tiếp xúc trực tiếp với nhau; còn ở
phương pháp An - két cuộc điều tra lại được tiến hành thông

qua bảng hỏi bằng văn bản, nó được tiến hành một cách gián
tiếp thông qua các cộng tác viên, thông tin thu được sâu sắc
hơn nhưng đòi hỏi chuyên gia phải có trình độ, mặt khác ở
157

158


1. Xây dựng khung lý thuyết

BÀI 13

Ở khâu này cần phải đạt được các nội dung:

CÁC BƯỚC ĐI TRONG MỘT CUỘC ĐIỀU TRA
XÃ HỘI HỌC

 Xác định vấn đề và tên đề tài nghiên cứu;
 Xác định mục đích và nhiệm vụ của cuộc điều tra;
 Xây dựng các giả thuyết nghiên cứu;
 Xây dựng mô hình lý luận, xác định các chỉ báo.

Ngày nay điều tra Xã hội học cũng như các điều tra xã
hội ngày càng được sử dụng rất rộng rãi trong mọi lónh vực
nhằm phục vụ công tác quản lý. Mục đích của các cuộc điều
tra là thu thập thông tin nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận, lý giải những vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra để
ứng dụng vào công tác quản lý xã hội ngày một hiệu quả
hơn. Do đó yêu cầu trong một cuộc điều tra xã hội học thì
thông tin phải chân thực và khách quan. Thông thường trong

mỗi cuộc điều tra Xã hội học phải trải qua ba giai đoạn cơ
bản;
 Giai đoạn chuẩn bị;
 Giai đoạn thu thập thông tin;
 Giai đoạn xử lý và phân tích thông tin.

I. GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
Giai đoạn chuẩn bị có một vai trò quyết định một phần
lớn tới sự thành công của cuộc điều tra. Giai đoạn này cần
phải có sự đầu tư nhiều về trí tuệ, sức lực và cả thời gian, do
đó nó đòi hỏi người tổ chức cuộc điều tra phải có một trình
độ tư duy lý luận vững vàng, sắc bén, một sự am hiểu sâu
sắc thực tiễn về đối tượng nghiên cứu, thành thạo về lý
thuyết và thực hành điều tra. Giai đoạn này thường được chia
thành năm bước:
159

a. Xác định vấn đề và tên đề tài nghiên cứu
Để xác định vấn đề nghiên cứu, nhà nghiên cứu phải
trả lời ba câu hỏi:
 Nghiên cứu nội dung gì? (Nghiên cứu vấn đề gì?)
 Nghiên cứu đối tượng nào? (Nghiên cứu ai?)
 Nghiên cứu ở địa bàn nào? (Nghiên cứu ở đâu?)
Xác định tên đề tài nghiên cứu có nghóa là cần làm rõ
khách thể và đối tượng của cuộc điều tra. Đối tượng nghiên
cứu là những đặc trưng xã hội mà cuộc nghiên cứu phải
hướng vào đó để làm nổi bật lên những vấn đề có tính bản
chất của nó; còn khách thể của đối tượng nghiên cứu là cái
chứa đựng, cái mang đối tượng nghiên cứu. Ví dụ: Khi điều
tra về trình độ nhận thức và thái độ của cán bộ cấp cơ sở về

chiến lược dân số và sinh đẻ có kế hoạch của Đảng và Nhà
nước ta thì trình độ nhận thức và thái độ của cán bộ cơ sở về
vấn đề đó là đối tượng của cuộc điều tra, còn các cán bộ cơ
sở với những đặc điểm phong phú của họ là khách thể của
nghiên cứu.
b. Xác định mục đích và nhiệm vụ của cuộc điều tra
Sau khi đã xác định được các vấn đề và tên đề tài
nghiên cứu, phải xác định mục đích và nhiệm vụ của cuộc
điều tra. Đó là tìm kiếm các thông tin để làm sáng tỏ tương
160


quan giữa các mục đích: lý luận và thực tiễn. Không phải tất
cả các cuộc nghiên cứu xã hội học thực nghiệm nào cũng
đều phải đạt được cả hai mục đích đó. Có những công trình
nghiên cứu mang tính chất lý luận là chủ yếu, có công trình
nghiên cứu lại mang tính thực tiễn là chủ yếu. Do vậy càng
phải làm sáng tỏ mục đích của cuộc nghiên cứu vì mục đích
sẽ quy định các phương pháp tiến hành thu thập thông tin và
xử lý thông tin.
Nhiệm vụ của cuộc điều tra là cụ thể hóa mục đích,
căn cứ vào mục đích mà có lượng nhiệm vụ nhiều hay ít,
không nên đồng nhất giữa mục đích và nhiệm vụ, vì nếu
đồng nhất giữa mục đích và nhiệm vụ sẽ dẫn đến khó khăn
trong việc cụ thể hóa mục đích nghiên cứu. Mặt khác nếu
xác định quá nhiều nhiệm vụ thì đề tài sẽ bị phân tán và
thiếu tập trung. Thông thường một cuộc điều tra nghiên cứu
chỉ cần nêu ra ba đến bốn nhiệm vụ là vừa phải.
c. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu
Trong nghiên cứu xã hội học, giả thuyết là những giả

định về vấn đề nghiên cứu, là câu hỏi về thực trạng của vấn
đề được nghiên cứu. Nó là những nhận thức sơ bộ về vấn đề
được nghiên cứu, cho ta biết ý niệm về đặc trưng, xu hướng
và tính quy luật của các quá trình xã hội mà ta đang khảo
sát.
Lập giả thuyết là đưa ra một nhận thức sơ bộ về vấn đề
được nghiên cứu, nó là sự thể hiện một cách tổng hợp các
kiến thức của nhà nghiên cứu trên cả hai mặt lý luận và thực
tiễn về vấn đề nghiên cứu.
Giả thuyết là một sự đánh giá nhưng trong quá trình lập
giả thuyết cần phải lưu ý bốn yêu cầu sau:

161

 Những giả thuyết đưa ra không được mâu thuẫn với
những quy luật đã được xác định hoặc những kết quả đã
được kiểm nghiệm là đúng trước đó;
 Giả thuyết đưa ra phải phù hợp với những nguyên lý
xuất phát của chủ nghóa duy vật lịch sử nhằm mục đích là
sàng lọc các giả thuyết lệch lạc để lựa chọn những giả
thuyết đáng tin cậy và phù hợp với cuộc điều tra nghiên cứu;
 Giả thuyết phải dễ kiểm tra. Trong quá trình lập giả
thuyết phải chú ý tập hợp các nguyên nhân dẫn đến một
hiện tượng nào đó và phải kiểm tra được các nguyên nhân
đó;
 Việc phân tích logic của các giả thuyết phải khẳng
định được tính không mâu thuẫn của nó, cho phép trả lời các
câu hỏi về một số mệnh đề của giả thuyết xem có phải là
giả thuyết tạo ra hay không?
Giả thuyết chúng ta dựng nên được gọi là giả thuyết công

tác vì nó liên quan đến những công tác cụ thể, liên quan đến
những đối tượng cụ thể. Giả thuyết chỉ đứng vững nếu kết quả
thu được phù hợp với chúng. Trong một cuộc điều tra nghiên
cứu xã hội học thực nghiệm, số lượng giả thuyết phụ thuộc vào
vấn đề nghiên cứu. Có giả thuyết chính và giả thuyết phụ, giả
thuyết phụ có nhiệm vu bổ sung và giải thích cho những giả
thuyết chính.
d. Xây dựng mô hình lý luận thao tác các khái niệm,
xác định các chỉ báo
Đây là một khâu cơ bản nhất của một công trình
nghiên cứu xã hội học thực nghiệm. Thông qua khâu này cho
phép chúng ta tái tạo lại được vấn đề nghiên cứu và đo lường
trực tiếp các vấn đề được nêu ra.
162


Mô hình lý luận là một hệ thống các khái niệm giúp ta
đánh giá và khái quát bản chất của hiện tượng ở vấn đề mà ta
nghiên cứu. Mô hình lý luận xã hội học được rút ra từ hiện
thực sinh động, vì vậy nó phản ánh được những mối liên hệ,
quan hệ có tính chất bản chất của đối tượng. Nó được thể hiện
bằng ngôn ngữ khoa học và được mọi người hiểu theo cùng
một nghóa.
Mô hình lý thuyết là sự thể hiện một hiện tượng thực
tế, hiện tượng sống cho nên khi xây dựng mô hình lý luận
chúng ta phải thao tác hóa các khái niệm. Đó là những thao
tác logic nhằm chuyển những khái niệm phức tạp thành đơn
giản, trừu tượng thành cụ thể. Thông qua hệ thống khái niệm
này để ta có cơ sở thu thập thông tin thực tế, sau đó tiến
hành phân tích, tổng kết lại thành bản chất của hiện tượng

nghiên cứu.
Như vậy nhiệm vụ của nhà xã hội học là chuyển những
khái niệm trừu tượng sang khái niệm thực nghiệm, rồi từ các
khái niệm thực nghiệm để xác định các chỉ báo, là quá trình
cụ thể hóa các khái niệm thành các đơn vị có thể đo lường
được và quan sát được.
Trên đây là bốn khâu trong việc xây dựng khung lý
thuyết. Bốn khâu này là một quá trình có liên hệ mật thiết
với nhau, các khâu có sự kế tục nhau về mặt thời gian, hết
khâu này đến khâu khác trong một quá trình.
2. Chọn phương pháp điều tra
Trong điều tra xã hội học, để thu thập được thông tin
phong phú người ta thường sử dụng một số phương pháp
thông dụng sau:
 Phương pháp phân tích tài liệu;
163

 Phương pháp quan sát;
 Phương pháp phỏng vấn;
 Phương pháp An - két.
Bốn phương pháp trên đây, chương “MỘT SỐ
PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ THUẬT ĐIỀU TRA XÃ HỘI
HỌC” đã trình bày tác dụng của mỗi loại phương pháp.
Mỗi phương pháp trên đây có những ưu điểm và nhược
điểm khác nhau, khi sử dụng cần phải cân nhắc đến các đặc
điểm riêng của chúng để lựa chọn cho phù hợp. Thông
thường mỗi cuộc điều tra nghiên cứu thường sử dụng một
nhóm các phương pháp, trong mỗi nhóm lại chọn ra một
hoặc hai phương pháp làm phương pháp chính trong cuộc
nghiên cứu (tùy thuộc vào mục đích, yêu cầu, vào khả năng

tài chính và trang thiết bị kỹ thuật...) còn các phương pháp
khác đóng vai trò hỗ trợ.
Trên thực tế hai phương pháp phỏng vấn hoặc bảng hỏi
(An - két) là hai phương pháp thu nhận được thông tin sâu và
phong phú nhưng nó lại rất tốn kém. Do đó trong mỗi cuộc
điều tra xã hội học cần phải hình thành sớm các phương
pháp trong sự tương hỗ với các việc hình thành bảng câu hỏi
nhằm thu thập thông tin có hiệu quả.
3. Xây dựng bảng câu hỏi
Bảng hỏi là phương tiện thu thập thông tin cá biệt theo
đề tài nghiên cứu, bảng hỏi là tổ hợp các câu hỏi - chỉ báo đã
được vạch ra nhằm khai thác và thu thập thông tin để trả lời
các vấn đề cần tìm kiếm trong một cuộc điều tra. Một bảng
câu hỏi được xây dựng tốt sẽ thu được lượng thông tin phong
phú đáng tin cậy, ngược lại sẽ làm cho thông tin thu được bị
sai lệch hoặc méo mó. Thông thường, trong các cuộc điều tra
164


xã hội học, việc lập bảng hỏi đòi hỏi phải công phu và
chiếm rất nhiều thời gian. Do đó người nghiên cứu phải đầu
tư nhiều thời gian và công sức để xây dựng một bảng câu hỏi
hoàn chỉnh, phù hợp và phải chú ý mức độ phức tạp; vấn đề
nghiên cứu và những người trả lời bảng hỏi là ai? Từ đó cần
bao nhiêu câu hỏi là vừa, một bảng hỏi tối ưu là bảng hỏi có
số lượng câu hỏi như thế nào để người ta có thể trả lời trong
vòng 30 - 40 phút.
Khi soạn thảo bảng câu hỏi cần cân nhắc đến ngôn từ,
tránh sử dụng ngôn từ không phổ thông, pha tạp, ít người biết
hoặc ngôn từ không hợp với địa phương, ngôn từ thiếu cụ

thể, chung chung. Do vậy lập bảng hỏi là một nghệ thuật:
Cách bố trí, sắp xếp các câu hỏi, số lượng câu hỏi sao cho
hợp lý để người trả lời thoải mái, sẵn lòng cung cấp thông tin
cho người nghiên cứu...
Các dạng câu hỏi gồm:
a. Câu hỏi đóng

 Không hài lòng lắm;
 Bình thường;
 Rất không hài lòng.
b. Câu hỏi mở
Đây là loại câu hỏi chưa có phương án trả lời, người
được hỏi tự nêu ra cách trả lời riêng của mình.
Ví dụ: Anh (chị) yêu thích nghệ sỹ nào nhất?
Anh (chị) thích môn thể thao nào nhất?
Câu hỏi mở thường có khả năng bao quát rộng, nó cho
phép ghi nhận khá đầy đủ chính kiến hoặc tâm tư suy nghó
của đối tượng được phỏng vấn.
c. Câu hỏi kết hợp
Đây là loại câu hỏi vừa đóng vừa mở. Loại câu hỏi này
đã có sẵn một số phương án trả lời cho sẵn và một phương án
để ngỏ chưa có phương án trả lời.
Ví dụ: Anh (chị) có những dự định gì trong năm tới?

Đây là loại câu hỏi đã có sẵn phương án trả lời, loại
câu hỏi đóng phổ biến nhất là câu hỏi chỉ có hai phương án
trả lời: có - không.

 Vào đại học;
 Vào Đoàn TNCS;


Ví dụ: Anh (chị) có đặt mua báo Tuổi trẻ không?

 Đi nước ngoài;

Nên dùng câu hỏi lựa chọn thay cho loại câu hỏi “có –
không”, vì câu hỏi lựa chọn cho phép người trả lời chọn một
phương án trả lời phù hợp đã có sẵn. Trong loại câu hỏi này,
phương án trả lời phải loại trừ nhau.
Ví dụ: Anh (chị) có hài lòng về công việc học tập hiện
nay hay không?
 Hài lòng;
165

 Lấy vợ (chồng);
 v.v...
d. Các yêu cầu đối với câu hỏi
 Các câu hỏi phải thật rõ ràng, cụ thể, không được
hiểu nhiều nghóa, không chồng chéo lên nhau, không được
để người trả lời hiểu chung chung.

166


 Hạn chế dùng các khái niệm như: thường xuyên, đôi
khi... mà phải tăng những câu hỏi đo lường cụ thể;
 Hạn chế dùng các ngôn ngữ bác học hoặc những
ngôn ngữ quá thô thiển hoặc các từ chưa được thông dụng;
 Câu hỏi trong bảng hỏi phải phù hợp với trình độ
của người được hỏi;

 Tối kỵ câu hỏi mớm ý mà trong điều tra tội phạm
gọi là mớm cung.
e. Kết cấu của một bảng hỏi
Số lượng câu hỏi là bao nhiêu trong một bảng hỏi có
liên quan đến chất lượng thông tin thu được, cho nên phải
đưa ra số lượng câu hỏi bao nhiêu là vừa. Với thời gian từ 20
- 30 phút, số lượng câu hỏi phụ thuộc vào trình độ của người
trả lời câu hỏi và mức độ tiếp cận vấn đề của câu hỏi có
phức tạp hay không? Như vậy nếu đối tượng có trình độ hiểu
biết và nhận thức tốt, các câu hỏi ít hóc búa thì số lượng câu
hỏi có thể nhiều, còn đối tượng có trình độ nhận thức kém,
câu hỏi phức tạp thì số lượng câu hỏi nên giảm đi. Kết cấu
của bảng hỏi nên theo trình tự sâu dần của vấn đề, không tản
mát, làm người trả lời không tập trung suy nghó để trả lời.
Phần đầu của bảng hỏi là phần trình bày mục đích của
cuộc nghiên cứu điều tra, tên cơ quan hiện hành nghiên cứu.
Phải hướng dẫn cho người được phỏng vấn cách thức trả lời
các câu hỏi trong bảng hỏi, đồng thời khẳng định tính danh
của cuộc điều tra; có nghóa là người trả lời không cần ghi họ
tên và địa chỉ của mình vào trong phiếu.
Phần nội dung chính của bảng hỏi thường được bắt đầu
bằng những câu hỏi tiếp xúc, làm quen, sau đó mới đến các
câu hỏi nội dung. Các câu hỏi nội dung thường được bố trí
167

xen kẽ với các câu hỏi tiếp xúc, câu hỏi kiểm tra và câu hỏi
chức năng. Trong phần các câu hỏi nội dung, các câu hỏi biểu
thị sự quan tâm của cuộc nghiên cứu đến công ăn việc làm nên
đặt trước để gây ra một tâm lý thoải mái, còn các câu hỏi đi
sâu vào cuộc sống của từng cá nhân nên xếp ở phía sau bảng

hỏi.
4. Chọn mẫu điều tra
Nghiên cứu mẫu là nghiên cứu một bộ phận của tổng
thể (chứ không phải toàn bộ tổng thể) nhưng nó có khả năng
suy rộng ra cho các tổng thể, phản ánh sự phù hợp với những
đặc trưng và cơ cấu của tổng thể. Chọn mẫu là quá trình sử
dụng các phương pháp khác nhau nhằm tìm ra được một tập
hợp các đơn vị, nhóm xã hội mà những đặc trưng và cơ cấu
được nghiên cứu của chúng có thể đại diện cho một tập hợp
xã hội lớn hơn, hay nói cách khác, những kết luận nghiên
cứu được rút ra từ nó có thể suy rộng ra cho cả tổng thể mà
nó là một bộ phận ở trong tổng thể đó.
Việc lựa chọn ra một tập hợp nhỏ trong tập hợp lớn cho
phép cuộc khảo sát được tiến hành nhanh hơn, chính xác hơn
và tiết kiệm hơn (cả về tiền bạc và thời gian).
5. Lập phương án dự kiến xử lý thông tin, điều tra thử và
hoàn thiện các bước chuẩn bị
Trong một cuộc điều tra xã hội học, sau khi đã thu thập
một lïng thông tin phải tiến hành xử lý thông tin. Ở khâu
này cần thiết phải có một kiến thức để sử dụng các công
thức toán học, và tổ vi tính phải xây dựng được các lập trình
toán học trên cơ sở trao đổi thống nhất với người lập giả
thuyết và tổ chức cuộc điều tra. Đồng thời phải chỉnh lý các
câu hỏi trong bảng hỏi cho phù hợp với khả năng của máy vi
168


tính và khả năng lập trình của các chuyên gia về lónh vực
này.
Để hoàn thiện và nâng cao chất lượng độ tin cậy của

bảng câu hỏi cần phải điều tra thử để qua đó một lần nữa
hoàn chỉnh lại toàn bộ bảng hỏi cũng như các chỉ báo. Thông
qua quá trình này mà tìm ra được những sai sót trong quá
trình xây dựng bảng hỏi, câu hỏi, loại bỏ được những phần
không hợp lý, không logic trong trình tự các câu hỏi, chuẩn
hóa thêm một bước của cuộc điều tra và tạo ra được một
bảng câu hỏi tối ưu, hoàn chỉnh phù hợp với đối tượng của
cuộc điều tra.

Thông thường các cuộc điều tra cần phải tránh những
thời điểm như: hội hè, lễ hội, vụ mùa, thiên tai hạn hán, bão
lụt hoặc những biến động về chính trị xã hội...
2. Chuẩn bị kinh phí để tiến hành điều tra
Mỗi cuộc điều tra xã hội học thường đòi hỏi nhiều kinh
phí, do vậy người tổ chức cuộc điều tra phải tính toán, dự trù,
quan tâm đúng mực và quyết định kịp thời thỏa đáng những
kinh phí cần thiết thì cuộc điều tra mới đạt được hiệu quả
cao. Kinh phí cần thiết của cuộc điều tra bao gồm:
 Tiền in văn bản, giấy tờ, phiếu tìm hiểu ý kiến;

II. GIAI ĐOẠN THU THẬP THÔNG TIN

 Tiền công tác phí;

Trong giai đoạn này vấn đề tổ chức được đặt lên hàng
đầu. Do vậy yếu tố tổ chức phải được tiến hành hết sức chặt
chẽ nghiêm túc. Đồng thời phải linh hoạt, thông minh trong
ứng xử và điều hành công việc, có như vậy cuộc điều tra mới
thắng lợi và đạt hiệu quả cao.


 Tiền trạm;

1. Lựa chọn thời điểm tiến hành điều tra

 Tiền thù lao cho các báo cáo viên;

Đây là bước hết sức quan trọng trong giai đoạn thu thập
thông tin vì mục đích của cuộc điều tra là phải thu được một
lượng thông tin cần thiết, lượng thông tin phong phú chính
xác và có độ tin cậy cao, bảo đảm việc tiết kiệm về mặt kinh
phí và sức lực với một hiệu quả cao nhất. Việc lựa chọn thời
điểm điều tra sao cho thích hợp cũng hết sức quan trọng. Nếu
thời điểm mà khi tiến hành điều tra có khả năng tạo ra một
không gian - tâm lý - xã hội thuận lợi nhất, thì đoàn cán bộ
điều tra dễ dàng tiếp cận với đối tượng và phát huy hết khả
năng của mình trong công tác điều tra.

 Tiền bồi hoàn sức lao động cho cán bộ điều tra;

169

 Tiền văn phòng phẩm;
 Tiền tàu xe, sinh hoạt, ăn uống;
 Tiền tiếp xúc, giao dịch;

 Tiền để xử lý thông tin sau khi điều tra;
 Tiền hội thảo khoa học, nghiệm thu đề tài.
3. Công tác tiền trạm
Đây là quá trình đoàn điều tra cử đại diện của mình đi
tiếp xúc liên hệ với các cơ quan, đoàn thể, Đảng, Đoàn,

chính quyền địa phương nơi sẽ tiến hành điều tra. Người đại
diện “tiền trạm” phải nói rõ được nội dung, mục đích, yêu
cầu của cuộc điều tra, giới thiệu cơ cấu thành phần của đoàn,
tuyên truyền và thuyết phục sự ủng hộ của địa phương, cùng
170


×