Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Vận dụng tâm lí giao tiếp vào sinh viên chuyên ngành giáo dục chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.15 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Giáo dục đạo đức cho học sinh sinh viên trong thời điểm hiện nay là rất quan
trọng nhất là trong hoàn cảnh hiện nay thực tế cho thấy sự suy đồi về lối sống của một
bộ phận học sinh sinh viên là một vấn đề mang tính thời sự. Từ khi hình thành nên nhân
cách và trên con đường hoàn thiện nhân cách của mình con người phải trải qua q
trình giao tiếp. chính vì vậy lí do em chọn đề tài: “vận dụng Tâm lí giao tiếp vào việc
giáo dục đạo đức cho học sinh sinh viên ”. Chính vì vậy đây là vấn đề rất bức thiết
trong xã hội về giáo dục đạo đức sinh viên hiện nay.
2.

Tình hình nghiên cứu

Vấn đề đạo đức trong thời kì phát triển cơng nghệ thơng tin truyền thông
con người trong xã hội giao tiếp với nhau nhiều hơn, con người gần nhau hơn vì
vậy mà vấn đề giao tiếp ảnh hưởng đến nhân cách đạo đức là vơ cùng quan
trọng. Giao tiếp được hình thành từ rất sớm được nhiều nhà nghiên cứu trên thế
giới tìm hiểu ở nội dung này em chỉ nói đến vấn đề giao tiếp ảnh hưởng đến giáo
dục đạo đức trong học sinh – sinh viên.
3.

Mục tiêu nghiên cứu

Làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu giao tiếp ảnh hưởng đến việc
hình thành nhân cách cũng như giáo dục đạo đức trong học sinh – sinh
viên. Và giải pháp khắc phục trong thời gian tới
4. Phương pháp nghiên cứu


1


Vấn đề đợc nghiên cứu trên một phơng pháp luận duy
vật biện chứng. Phơng pháp nghiên cứu chung, phơng pháp
phân tích, phơng pháp so sánh, phơng pháp lô gic, phơng
pháp lịch sử .
5 Kết cấu
Tiểu luận gồm 2 chơng
Chơng 1 là lí luận giao tiếp
Chơng 2 thực trạng giải pháp

Chng I Vận dụng tâm lí giao tiếp vào giáo dục đạo đức
trong sinh viên
1.lí luận chung về giao tiếp
1.1.khái niệm về giao tiếp
các cách tiếp cận
Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa con người với con người trong cuộc sống
để trao đổi tín hiện hoặc thơng tin.
Giao tiếp là sự xác lập mối quan hẹ giữa các đối tác nhằm thỏa mãn
một nhu cầu nhất định.
Có thể nói :
Giao tiếp là sự tiếp là sự tiếp xúc tạo nên mối quan hệ giữa hai hay
nhiều người khác nhau, chứa đựng nhiều nội dung xã hội – lịch sử nhất
định có nhiều chức năng tác động, hỗ trợ cùng nhau : thơng báo,điều
khiển, nhận thức, tình cảm, và hành động v.v… nhằm thực hiện mục đích
nhất định của một hành động nhất định.
1.2

quá trình hình thành giao tiếp


Giao tiếp là một trong những phạm trù trung tâm của tâm lý học. Tư
tưởng về giao tiếp được đề cập đến từ thời cổ đại qua thời kỳ phục hưng và
2


đến giữa thế kỷ XX thì hình thành nên một chuyên ngành Tâm lý học giao
tiếp. Ngay từ khi còn là các tư tưởng về giao tiếp đến khi xuất hiện Tâm lý
học giao tiếp thì khái niệm, bản chất giao tiếp chưa bao giờ thống nhất hoàn
toàn. Mỗi tác giả đề cập đến một mặt, một khía cạnh của hoạt động giao tiếp.

Giao tiếp là quá trình thiết lập và phát triển tiếp xúc giữa cá nhân với
nhau xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động và hoạt động.
- Giao tiếp bao gồm hàng loạt các yếu tố như trao đổi thông tin, xây
dựng chiến lược hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác.
- Giao tiếp có ba khía cạnh chính : giao lưu, tác động tương hỗ và
tri giác.
Mặt giao lưu của giao tiếp gắn liền với việc tìm hiểu những nét đặc
thù của q trình trao đổi thơng tin giữa người với người trong danh nghĩa
là chủ thể tích cực, có nghĩa là khảo sát thái độ của cá nhân, tâm thế, mục
đích, ý định của họ nhằm thiết lập không chỉ vận động đơn thuần của thơng
tin mà cịn bổ sung, làm giàu thêm những tri thức, vốn sống cần thiết cho
các thành viên trong q trình giao tiếp. Ngơn ngữ là phương tiện giao lưu
chủ yếu. Cùng với ngôn ngữ là hệ thống quang học vận động ( nét mặt,
điệu bộ cử chỉ, lời ăn tiếng nói...) các yếu tố ngơn ngữ và siêu ngơn ngữ
( giọng nói , sự ngắt đoạn...), cấu trúc khơng gian và thời gian của hồn
cảnh giao tiếp, hệ thống tiếp xúc “ bằng mắt “.
- Một khía cạnh quan trọng khác của q trình giao tiếp là sự ảnh
hưởng, tác động lẫn nhau giữa các thành viên, xây dựng hình ảnh tinh thần
của mỗi người trong quan niệm của những người khác ( nhân cách hóa ).

Trong trường hợp này ngơn ngữ thống nhất và sự hiểu biết về hoàn cảnh
xảy ra là điều kiện cần thiết đảm bảo hiệu quả tác động lẫn nhau.
- Hai xu hướng giao tiếp thường thấy nhất là sự hợp tác và cạnh tranh,
tương ứng với chúng ta là các hiện tượng quen thuộc như đồng tình hay
xung đột.

3


- Khía cạnh của tri giác của giao tiếp bao hàm quá trình hình thành
hình ảnh về người khác, xác định các thuộc tính tâm lý và đặc điểm hành vi
của đối tượng thơng qua các biểu hiện bên ngồi.
- Đồng nhất ( mô phỏng ) và phản tỉnh ( tự hình dung ) bản thân mình
trong con mắt của mọi người.
Sự hiểu biết và nhận thức các hiện tượng tâm lý trên đây cho phép
làm sáng tỏ nội dung tâm lý của quá trình tác động lẫn nhau diễn ra trong
giao tiếp. Xem xét đồng thời ba khía cạnh của giao tiếp ( giao lưu, tri giác,
tác động tương hỗ ) trong một chỉnh thể thống nhất là điều kiện quan trọng
nhằm hợp lý hóa hoạt động chung và mối quan hệ nhân cách.
Thiết lập các biện pháp phối hợp nâng cao chất lượng giao tiếp , phát
triển các kỹ năng giao tiếp là một trong những nhiệm vụ của tâm lý học xã
hội và tâm lý học nghề nghiệp và tâm lý học y học. Phương pháp đào tạo
nhóm là một trong những biện pháp phổ biến nhất.
Giao tiếp là cơ sở xã hội của tâm lý
Quan hệ xã hội, nền văn hóa xã hội và tâm lý con người
Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử khẳng định : tâm lý
người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử.
- Mác khẳng định : Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất con người
“ ...Bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng, tồn tại với từng
cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng

hòa các mối quan hệ xã hội “.
Hoạt động tâm lý của con người chịu sự tác động của các quy luật xã
hội trong đó giáo dục giữ vai trị quan trọng và chủ đạo. Chỉ có sống và
hoạt động trong xã hội con người mới thực hiện được chức năng phản ảnh
tâm lý.
- Cơ chế chủ yếu của sự phát triển tâm lý con người là cơ chế lĩnh hội
nền văn hóa xã hội.

4


Đặc điểm cơ bản của quá trình lĩnh hội là tạo ra ở con người những
chức năng tâm lý mới, những năng lực mới. Là quá trình tái tạo những
thuộc tính những năng lực của cá thể hay nói một cách khác thông qua cơ
chế lĩnh hội mà con người tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nền văn hóa xã
hội thành bản chất người, tâm lý con người.
Hoạt động và tâm lý
Khái niệm chung về hoạt động
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người .Hoạt động bao gồm
các q trình bên ngồi ( chủ thể tác động vào đối tượng bên ngồi) và q
trình bên trong ( tác động vào q trình tinh thần, trí tuệ). Trong đó con
người tác động qua lại với nhau với tự nhiên, xã hội và với chính mình,
biến các phẩm chất tâm lý thành hiện thực nhằm cải tạo tự nhiên xã hội và
hồn thiện cá nhân mình. Ngược lại chủ thể có thể bóc tách chiếm lĩnh các
thuộc tính của sự vật và hiện tượng khách quan biến thành tâm lý riêng,
thành vốn liếng và kinh nghiệm để hình thành nhân cách cá nhân mình.
Những nét đặc trưng của hoạt động
- Hoạt động có đối tượng
- Hoạt động do chủ thể con người tiến hành .
- Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp thông qua công cụ

( công cụ kỹ thuật, ký hiệu tâm lý )
- Hoạt động bao giờ cũng có mục đích nhất định .
Phân loại hoạt động
- Phân theo quan hệ chủ thể và đối tượng hoạt động :
Có hoạt động lao động ( người với vật ), hoạt động giao tiếp ( người
với người ).
- Phân theo sự phát triển của cá thể : là những hoạt động phát triển kế
tiếp gồm hoạt động vui chơi, hoạt động học tập và lao động.
-Theo một số cách chia khác:
+ Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn
5


+ Hoạt động biến đổi
+ Hoạt động nhận thức
+ Hoạt động định hướng giá trị
+ Hoạt động giao lưu
Giao tiếp và tâm lý
-Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người thơng qua đó con
người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác, tác động qua lại
với nhau ...Hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể
khác..
-Các loại giao tiếp :
Theo phương tiện giao tiếp có :
Giao tiếp vật chất
Thông qua hành động vật chất cụ thể. Khi giao tiếp con người có
thể sự dụng những cơng cụ, sản phẩm vật chất của lao động, những kỷ vật,
tặng phẩm. Trong từng vật thể có sự hội nhập văn hóa, xã hội, trí tuệ, cảm
xúc…của lồi người. Khi giao tiếp bằng vật chất cụ thể, con người chỉ cho
nhau biết những tinh túy mà lời người gởi gắm ở trong đó, trao đổi cho

nhau những thơng tin, rung cảm, kinh nghiệm…về vật thể đó, từ đó chủ thể
và khách thể thực hiện mục đích, nội dung giao tiếp.
Giao tiếp bằng tín hiệu phi ngơn ngữ ( thơng qua cử chỉ, điệu bộ...)
Khi giao tiếp, con người sử dụng những cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt,
nét mặt…để thể hiện sự đồng tình hay phản đối, thân thiện hay khó chịu,
hiểu biết sâu sức hay nơng cạn…Ngồi ra con người còn sử dụng những ký
hiệu quy định chung cho từng nhóm xã hội, như biển báo giao thơng, ký
hiệu thơng tin bằng tay cho những người câm điếc, những ký hiệu dành
riêng cho hai người.
Giao tiếp bằng ngôn ngữ

6


Một trong những ưu thế của con người so với con vật là ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là sản phẩm tiến hóa của xã hội lồi người và trở thành cơng cụ
giao tiếp cơ bản của con người. Bằng ngôn ngữ trong giao tiếp, con người
có thể trao đổi với nhau tất cả những hiểu biết, tình cảm thái độ…mà mình
thấy cần thiết
Theo khoảng cách
Giao tiếp trực tiếp
Chủ thể và đối tượng giao tiếp mặt đối mặt với nhau, trục tiếp
phát và nhận thông tin của nhau. Khoảng cách giữa chủ thể và đối tượng rất
gần nhau.
Giao tiếp gián tiếp
Khi chủ thể và khách thể ở xa nhau, họ phải dùng những
phương tiện cụ thể để giao tiếp với nhau, như qua thư từ, báo chí, qua
người khác, bằng tình cảm.
Giao tiếp trung gian
Đây là loại giao tiếp vừa trực tiếp, vừa gián tiếp, như nói

chuyện, trao đổi với nhau qua điện thoại, truyền hình.
Theo qui cách :
Giao tiếp chính thức
Giao tiếp giữa các thành viên trong nhóm chính thức. Sự giao
tiếp này được thực hiện theo chức trách, nhiệm vụ, theo quy chế, quy định
của luật pháp, của phong tục, của dư luận…Ví dụ như, giao tiếp trong gia
đình, trong quản lý, lãnh đạo, rong hoạt động nghề nghiệp: dạy học, giáo
dục, khám chữa bệnh.
Giao tiếp khơng chính thức
Đây là giao tiếp trong nhóm khơng chính thức, giữa những
người thân nhau, phục nhau, cùng có những ham muốn, sở thích như nhau.
Quan hệ giao tiếp và hoạt động :

7


Giao tiếp và hoạt động là hai mặt không thể thiếu được của lối sống
của hoạt động sống của con người trong thực tiễn :
Giao tiếp là dạng đặc biệt của hoạt động, giao tiếp diễn ra bằng hành động
và thao tác cụ thể bằng việc sử dụng các phương tiện khác nhau để đạt mục
đích, thúc đẩy động cơ.
Giao tiếp và hoạt động là hai phạm trù đồng đẳng có quan hệ qua lại
trong cuộc sống của con người. Có khi giao tiếp là điều kiện của hoạt động
và cũng có khi hoạt động là điều kiện của giao tiếp
Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp :
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định : Tâm lý con người có
nguồn gốc từ bên ngoài, từ thế giới khách quan chuyển vào trong não mỗi
người. Trong thế giới đó thì quan hệ xã hội, nền văn hóa xã hội là cái quyết
định tâm lý người.
Tâm lý của con người là kinh nghiệm xã hội - lịch sử chuyển thành

kinh nghiệm của bản thân thông qua hoạt động và giao tiếp trong đó giáo
dục giữ vai trò chủ đạo.
Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp. Mối quan hệ giũa hoạt
động và giao tiếp là qui luật tổng quát hình thành và biểu lộ tâm lý người.
Đặc điểm chung của tâm lí sinh viên
Mỗi một lứa tuổi khác nhau đều có những đặc điểm tâm lý nổi bật,
chịu sự chi phối của hoạt động chủ đạo. Ở đây, chúng tôi quan tâm đến sinh
viên, những người có hoạt động chủ đạo là học tập để tiếp thu kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo nghề nghiệp ở các trường cao đẳng, đại học. Một trong những
đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi thanh niên - sinh viên là sự phát
triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những hiểu biết,
thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển
bản thân theo hướng phù hợp với xu thế xã hội. Chẳng hạn sinh viên đang
học ở các trường cao đẳng, đại học sư phạm, họ nhận thức rõ ràng về
những năng lực, phẩm chất của mình, mức độ phù hợp của những đặc điểm
8


đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó họ sẽ xác định rõ ràng mục tiêu
học tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày trong giờ
lên lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh giá
phát triển mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của
mình, kết quả học tập cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ, vào
phương pháp học tập của họ.
Ở SV đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh
giá vấn đề cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên là những trí
thức tương lai, ở các em sớm nảy sinh nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học
tập ở đại học là cơ hội tốt để SV được trải nghiệm bản thân, vì thế, sinh
viên rất thích khám phá, tìm tịi cái mới, đồng thời, họ thích bộc lộ những
thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống, hiểu biết

cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình.
Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định
của sinh viên, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp - một động
lực giúp họ học tập một cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu thích
và đam mê với nghề lựa chọn.
Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người.
Họ là lớp người giàu nghị lực, giàu ước mơ và hồi bão. Tuy nhiên, do quy
luật phát triển khơng đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện, hoàn
cảnh sống và cách thức giáo dục khác nhau, không phải bất cứ sinh viên
nào cũng được phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy nghĩ và hành động
cịn hạn chế. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực hoạt động của
bản thân mỗi sinh viên. Bên cạnh đó, sự quan tâm đúng mực của gia đình,
phương pháp giáo dục phù hợp từ nhà trường sẽ góp phần phát huy ưu
điểm và khắc phục những hạn chế về mặt tâm lý của SV.
Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, mặc dù là những người có
trình độ nhất định, sinh viên không tránh khỏi những hạn chế chung của lứa
tuổi thanh niên. Đó là sự thiếu chín chắn trong suy nghĩ,hành động,đặc biệt,
9


trong việc tiếp thu, học hỏi những cái mới. Ngày nay, trong xu thế mở cửa,
hội nhập quốc tế, trong điều kiện phát triển cơng nghệ thơng tin, nền văn
hố của chúng ta có nhiều điều kiện giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hoá
trên thế giới, kể cả văn hố phương Đơng và phương Tây. Việc học tập, tiếp
thu những tinh hoa, văn hoá của các nền văn hoá khác là cần thiết. Tuy
nhiên, do đặc điểm nhạy cảm, ham thích những điều mới lạ kết hợp với sự
bồng bột, thiếu kinh nghiệm của thanh niên, do đó, sinh viên dễ dàng tiếp
nhận cả những nét văn hoá không phù hợp với chuẩn mực xã hội, với
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và khơng có lợi cho bản thân họ.
Lứa tuổi sinh viên có những nét tâm lý điển hình, đây là thế mạnh

của họ so với các lứa tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề
nghiệp, có năng lực và tình cảm trí tuệ phát triển (khao khát đi tìm cái mới,
thích tìm tịi, khám phá), có nhu cầu, khát vọng thành đạt, nhiều mơ ước và
thích trải nghiệm, dám đối mặt với thử thách. Song, do hạn chế của kinh
nghiệm sống, sinh viên cũng có hạn chế trong việc chọn lọc, tiếp thu cái
mới. Những yếu tố tâm lý này có tác động chi phối hoạt động học tập, rèn
luyện và phấn đấu của sinh viên.

thực trạng đạo đức sinh viên
- Học sinh (HS) mầm non biết chửi thề, nói tục, bắt chước các hành vi
“nhạy cảm” quan hệ nam nữ trong phim ảnh. HS tiểu học xé bài vở trước
mặt thầy cô khi bị điểm thấp. HS trung học vô lễ với thầy cô, sửa điểm
trong sổ liên lạc, đánh nhau xé áo quần. Sinh viên (SV) mua điểm, sao chép
luận văn, đồ án…
Thực trạng đạo đức HS-SV một lần nữa được xới lên tại hội thảo quốc
gia về giáo dục đạo đức HS-SV do Hội Khoa học tâm lý giáo dục Việt Nam
tổ chức ngày 18 và 19-7 tại Đồng Nai.

10


Những câu chuyện từ hội thảo lần này không dừng lại ở chuyện dạy
và học đạo đức trong nhà trường, mà là những biểu hiện đáng lo ngại trong
lối sống của cả một thế hệ thanh thiếu niên.
GS-TS Vũ Dũng, viện trưởng Viện Tâm lý học, cho rằng việc vi phạm
các chuẩn mực đạo đức hiện nay dã đến mức đáng lo ngại với những hành
vi vi phạm bạo lực trong nhà trường, đe dọa hành hung thầy cô giáo, quay
cóp bài, mua điểm, cờ bạc, nghiện rượu… Ngồi ra, thanh thiếu niên cịn
có nhiều biểu hiện sống hưởng thụ, coi nặng giá trị vật chất, tiêu xài hoang
phí, lười lao động, sống ích kỷ…

36% SV từng đi mua hoặc xin điểm
TS Phạm Thị Kim Anh, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, dẫn ra kết quả
một cuộc điều tra, khảo sát của thanh tra Bộ GD- ĐT với 1.827 SV tại 12
cơ sở giáo dục cho thấy: 89% SV từng sử dụng tài liệu trong phịng thi,
85% từng quay cóp, 42% sao chép luận văn, đồ án, 36% từng xin hoặc mua
điểm…
Một dẫn chứng khác từ kết quả khảo sát hành vi đạo đức của HS các
trường THPT huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh cho thấy: số HS có các hành vi
trốn học, gian lận thi cử, đánh nhau, uống rượu bia, trộm cắp vặt, xin đểu,
vô lễ với thầy cô... ở huyện này cứ năm sau cao hơn năm trước. Tình trạng
đánh nhau ngày càng nhiều, khơng chỉ nam sinh mà cịn có nữ sinh, có
dùng cả hung khí (dao, kiếm, côn).
Th.S Tống Thị Hồng, giảng viên Trường CĐ Sư phạm Đồng Nai, nêu
lên một thực tế tìm hiểu từ 140 trường ở Đồng Nai cho thấy: ở bậc mầm
non, một số HS có những hành vi chửi thề, nói tục, bắt chước các hành vi
quan hệ nam nữ trong phim ảnh (chưa ý thức). HS tiểu học không chào hỏi
người lớn, nối dối, xé bài vở trước mặt thầy cơ khi bị điểm thấp, chạy xe
lạng lách ngồi đường. HS THCS vô lễ với giáo viên (GV), sửa điểm trong
sổ liên lạc, mạo chữ ký cha mẹ xin nghỉ học đi chơi.
11


Các ý kiến tại hội thảo cho rằng những phẩm chất xấu ở HS-SV là
kết quả sự giáo dục yếu kém ở cả gia đình, nhà trường và xã hội. Việc giáo
dục đạo đức trong nhà trường thường chú trọng tới nề nếp kỷ cương với nội
quy, những bài học giáo huấn, không chú ý đến hành vi ứng xử thực tế.
Chương trình sách giáo khoa q ơm đồm, nặng về lý thuyết, thiếu kỹ năng
sống, không tạo được dấu ấn để hình thành nhân cách HS.
Cịn theo TS Huỳnh Cơng Minh, giám đốc Sở GD-ĐT TP.HCM,
chương trình giáo dục đạo đức xuyên suốt từ giáo dục lễ giáo bậc mầm

non, đạo đức ở bậc tiểu học, giáo dục công dân ở bậc trung học, có đầy đủ
tất cả những bài học về các giá trị đạo đức. Nhưng hệ thống lại không thấy
rõ phẩm chất nào là trọng tâm, chỗ nào cần nhấn mạnh… Chương trình học
rất nhiều nhưng rất khó nhớ, khó nhập tâm.
Nhiều ý kiến cho rằng GV hiện chỉ lo truyền thụ kiến thức, HS toàn
điểm 9,10 nhưng quan hệ thầy trò nhợt nhạt. Về nhà, cha mẹ bận lo công
việc, trẻ không được trang bị những kỹ năng tối thiểu cũng như cách ứng
xử trong cuộc sống.
TS Phạm Thị Kim Anh cho rằng lứa tuổi học trị là tuổi ước mơ và
sống vì lý tưởng. Nhưng hiện nay, họ khơng có một mẫu người lý tưởng.
Chính vì thế, những mối tình sét đánh, những nhân vật ăn chơi sành điệu,
những sát thủ tàn bạo... trên phim ảnh đã thành thần tượng của biết bao cô
cậu học trò.
Giáo dục đạo đức
Phương pháp giáo dục đạo đức theo kiểu “tầm chương trích cú” khơng
cịn phù hợp, cần phải đưa HS-SV vào các xử lý tình huống thực tế. Giáo
dục đạo đức trong nhà trường cần giảm thiểu những vấn đề cao xa, lớn lao,
thay vào đó cần kiên trì bồi đắp lịng nhân ái, tính trung thực, lòng tự trọng,
nếp nghĩ và lối sống lành mạnh, trọng đạo lý, sống có kỷ luật.

12


Còn TS Nguyễn Tùng Lâm, Hội Tâm lý Giáo dục Hà Nội, đặt vấn đề
cần thay đổi cách đánh giá HS thay cách đánh giá đơn thuần bằng điểm số.
Bộ GD-ĐT nên có qui định khi đánh giá HS hàng năm, GV phải ghi rõ
những mặt mạnh, yếu, mặt nào cần rèn luyện, những biểu hiện sai lệch để
HS cố gắng trong năm sau. Với HS THPT cần đưa ra những tiêu chí định
hướng cho HS rèn luyện cũng như những điều cần nhận xét như: năng lực
tư duy, khả năng sáng tạo, sở trường, cá tính, ý thức tập thể, chuyên cần,

thái độ với mọi người…
Th.S Phạm Thị Hòa, Hội Khoa học tâm lý giáo dục Đồng Nai, kiến
nghị: chương trình sách giáo khoa giáo dục cơng dân bậc phổ thơng cần
phải có những thay đổi quyết liệt hơn nữa. Cần dạy cho HS những giá trị
đạo đức cơ bản của con người thay cho quá nhiều kiến thức triết học, hàn
lâm, thiếu vắng việc hình thành những thói quen đạo đức và kỹ năng sống
đúng đắn.
Chương II Giải pháp khắc phục tình trạng cho học sinh sinh viên
hiện nay
Kết luận của Bộ Chính trị cho biết giáo dục và đào tạo chưa thật
sự được xem là quốc sách hàng đầu. Mặc dù được tăng đầu tư tài chính
nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao; công tác tổ chức, cán bộ, chế độ, chính
sách chậm đổi mới. Chất lượng giáo dục cịn thấp và khơng đồng đều giữa
các vùng, miền; quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng.
Việc cho phép thành lập mới các trường CĐ, ĐH có phần dễ dãi, trong
khi các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật và đội ngũ giảng viên không
đảm bảo, dẫn đến chất lượng đào tạo thấp, nhất là các trường ngồi cơng
lập và các trường của địa phương. Chương trình, giáo trình, phương pháp
giáo dục chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa.
Đặc biệt, cơng tác quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém và là nguyên
nhân chủ yếu của nhiều yếu kém khác. Cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi
mới, chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực của đất nước. Đạo đức và
13


năng lực của một bộ phạn cán bộ quản lý giáo dục cịn thấp. Cơng tác xây
dựng đội ngũ nhà giáo chưa đáp ứng yêu cầu.
Định hướng liên kết đào tạo với nước ngoài để xây dựng một nền giáo
dục tiên tiến, dân tộc, xã hội chủ nghĩa còn nhiều lúng túng trong bối cảnh
tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế; quản lý sinh viên Việt Nam đang theo học

ở nước ngồi cịn rất lỏng lẻo…
Những hạn chế khuyết điểm trên là do quán triệt không đầy đủ, thiếu
sự chỉ đạo chặt chẽ… Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp với
yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
7 nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục 2020
Trước những hạn chế trên, Bộ Chính trị đưa ra 7 nhiệm vụ, giải pháp
phát triển giáo dục đến 2020.
Thứ nhất: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục
nhân cách, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên, mở rộng quy mơ giáo
dục hợp lý. Theo đó, cần coi trọng cả ba mặt dạy làm người, dạy chữ, dạy
nghề; đặc biệt chú ý giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, lịch
sử, truyền thống văn hóa dân tộc, giáo dục về Đảng…
Thứ hai: Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào
tạo. Theo đó, chấn chỉnh, sắp xếp lại hệ thống các trường đại học, cao
đẳng, cán bộ giảng dạy, cơ sở vật chất, trang thiết bị và đầu vào của sinh
viên; khơng duy trì các trường đào tạo có chất lượng kém. Thực hiện phân
cấp, tạo động lực và tính chủ động của các cơ sở giáo dục. Tăng quyền tự
chủ và tự chịu trách nhiệm đối với các trường…
Thứ ba: Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về
số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng.
Thứ tư: Tiếp tục đổi mới chương trình, tạo chuyển biến mạnh mẽ về
phương pháp giáo dục. Theo đó, rà sốt lại tồn bộ chương trình và sách
giáo khoa phổ thơng. Sớm khắc phục tình trạng q tải, nặng về lý thuyết,
nhẹ về thực hành, chưa khuyến khích đúng mức tính sáng tạo của người
14


học; chuẩn bị kỹ việc xây dựng và triển khai thực hiện bộ chương trình
giáo dục phổ thơng mới theo hướng hiện đại, phù hợp và có hiệu quả…
Thứ năm: Tăng nguồn lực cho giáo dục. Theo đó, miễn học phí cho

học sinh, sinh viên gia đình chính sách, hộ nghèo; giảm học phí cho học
sinh, sinh viên gia đình nghèo và hỗ trợ cho HS,SV các hộ có thu nhập
thấp…
Thứ sáu: Đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục.Nhà nước tập
trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có đơng đồng bào dân tộc thiểu
số, từng bước giảm sự chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng,
miền…
Đặc biệt chú ý đến con thương binh, liệt sỹ, gia đình có cơng với
nước, học sinh có hồn cảnh đặc biệt khó khăn và học sinh khuyết tật thông
qua phát triển các loại quỹ khuyến học, khuyến tài trong các tổ chức xã hội,
trong các cộng đồng dân cư.
Thứ bảy:Tăng cương hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Giáo dục
trong thời kỳ hội nhập quốc tế càng cần phải bảo đảm phát triển bền vững,
không ngừng nâng cao chất lượng, phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc
lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tiếp cận nền giáo
dục tiên tiến thế giới. Mở rộng hợp tác đào tạo đa phương gắn với việc tăng
cường công tác quản lý nhà nước.

15


C Kết Luận
Giáo dục đạo đức cho học sinh sinh viên trong thời điểm hiện nay là
rất quan trọng nhất là trong hoàn cảnh hiện nay thực tế cho thấy sự suy đồi
về lối sống của một bộ phận học sinh sinh viên là một vấn đề mang tính
thời sự. Từ khi hình thành nên nhân cách và trên con đường hồn thiện
nhân cách của mình con người phải trải qua quá trình giao tiếp. Giao tiếp là
sự tiếp là sự tiếp xúc tạo nên mối quan hệ giữa hai hay nhiều người khác
nhau, chứa đựng nhiều nội dung xã hội – lịch sử nhất định có nhiều chức
năng tác động, hỗ trợ cùng nhau : thông báo,điều khiển, nhận thức, tình

cảm, và hành động v.v… nhằm thực hiện mục đích nhất định của một hành
động nhất định. Chính vì vậy việc giao tiếp luôn thể hiện sự giáo dục đạo
đức cho học sinh sinh viên là rất quan trọng .

16


MỤC LỤC

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC
-----------------------

TIỂU LUẬN
MÔN: CÁC CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ
ĐỀ TÀI:

Vận dụng Tâm lí giao tiếp vào việc giáo dục đạo đức cho
học sinh sinh viên

SINH VIÊN :

HỒNG HẢI DINH

LỚP

GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - K28

:


17


Hà Nội, 06 năm 2011

18



×