Lý do chọn đề tài:
Để đánh giá công lao vĩ đại của C.Mác đối với sự phát triển của nhân loại thì Ăng ghen
đã so sánh như với việc Đác uyn tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã
tìm ra quy luật phát triển của lịch sử lồi người. Vì vậy, việc sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của
một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế
nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tơn
giáo của con người ta, cho nên phải xuất phát từ cơ sở đó mà giải thích những vấn đề này.
C. Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra. Với việc phát hiện ra giá trị thặng
dư trong lĩnh vực này thì lập tức một ánh sáng đã hiện ra trong khi tất cả các cơng trình
nghiên cứu trước đây của các nhà kinh tế học tư sản cũng như của các nhà phê bình xã
hội chủ nghĩa vẫn đều chưa tìm ra được lời giải đáp.
Ph. Ăngghen coi đó như là hai phát minh to lớn của C.Mác là quan niệm duy vật về lịch
sử và học thuyết giá trị thặng dư.
Triết học Mác, như chúng ta đều biết, bao gồm 2 bộ phận có mối liên hệ hữu cơ với nhau,
đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi là quan
niệm duy vật về lịch sử). Chủ nghĩa duy vật biện chứng được hiểu là khoa học về các quy
luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và của tư duy con người; còn
chủ nghĩa duy vật lịch sử là bộ môn khoa học nghiên cứu các quy luật vận động và phát
triển của xã hội với tư cách một chỉnh thể. Vì vậy, nếu các môn khoa học xã hội chuyên
ngành, như kinh tế học, luật học, sử học, xã hội học nghiên cứu từng mặt khác nhau của
đời sống xã hội, thì chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu toàn bộ xã hội như một chỉnh
thể thống nhất. Các quy luật xã hội mà nó nghiên cứu là những quy luật tác động trong tất
cả hoặc trong nhiều hình thái kinh tế – xã hội.
1. Dựa vào hai tác phẩm “Bản thảo kinh tế triết học” và “Hệ tư tưởng Đức” để cho ta
hiểu được vai trò của sản xuất vật chất và nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của chủ Nghĩa duy vật lịch sử.
2. Nghiên cứu chủ Nghĩa duy vật lịch sử giúp ta hiểu về nguồn gốc và bản chất con
người và về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân, về vai trò của đấu tranh
giai cấp cách mạng xã hội trong xã hội và đối kháng giai cấp.
NỘI DUNG
I: Bản chất của chủ Nghĩa duy vậy lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một hệ thống triết học duy vật biện chứng về xã hội, là bộ
phận hợp thành triết học Mác, làm cho triết học Mác trở nên sâu sắc và triệt để. Chủ
Nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu xã hội với tính cách của một chỉnh thể, xã hội là một bộ
phận đặc biệt của tự nhiên với nền tảng là mối quan hệ của con người và sự tác động giữa
con người với nhau.
Khách thể nghiên cứu chủ Nghĩa duy vật lịch sử là đời sống xã hội với tính cách một
chỉnh thể. Xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất và là nấc thang phát
triển cao nhất của hệ thống sống, cũng chính là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau
giữa người với người.
Con người chính là sự phát triển cao nhất của tự nhiên, là chủ thể sáng tạo của lịch sử
và thơng qua hoạt động của mình, con người làm nên lịch sử và tạo ra xã hội. Xã hội
là một chỉnh thể hoàn chỉnh bao gồm sự tồn tại của con người cá nhân và các tập hợp
người, sự tồn tại của các phương thức và cách thức quan hệ giữa người với người. Sự
hình thành phát triển của con người và xã hội được xem là hai mặt của một quá trình
thống nhất, điều này dẫn đến hệ quả là có thể nhận thức được quy luật xã hội, bản
chất đời sống xã hội và bản chất con người.
Chủ Nghĩa duy vật lịch sử vạch ra các quy luật, động lực chung của sự vận động và
phát triển của xã hội. Hệ thống các quy luật xã hội tồn tại ở các cấp độ khác nhau chi
phối toàn bộ đời sống xã hội gồm các quy luật chi phối toàn bộ đời sống xã hội, các
quy luật chi phối xã hội có giai cấp và các quy luật chi phối hình thái kinh tế- xã hội.
Hệ thống về động lực phát triển xã hội được xem xét ở nhiều phương diện khác nhau
từ phương diện giải quyết mâu thuẫn biện chứng của xã hội, từ lực lượng xã hội cơ
bản, từ các nhân tố thúc đẩy sự phát triển và từ các nhân tố thúc đẩy tính tích cực
nhận thức và hoạt động của con người.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra những quy luật, động lực phát triển của xã hội.
Đây là phát minh vĩ đại của C.Mác đã mang đến một cuộc cách mạng trong triết học
về xã hội.
II. Vai trò của chủ Nghĩa duy vật lịch sử.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở nền tảng của thế giới quan và phương pháp luận khoa
học trực tiếp cho nhận thức và cải tạo xã hội: Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã
đặt ra các khoa học xã hội trên nền tảng khoa học vững chắc, đẩy lùi các quan điểm duy
tâm và siêu hình trong nhận thức về lịch sử- xã hội. Chủ Nghĩa duy vật lịch sử cũng là cơ
sở của thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp công nhân và các Đảng cộng sản
trong việc xác định các vấn đề chiến lược và sách lược của Cách mạng. Chủ Nghĩa duy
vật lịch sử là cơ sở lý luận khoa học để Đảng cộng sản dựa vào đó đánh giá, phân tích
tình hình thời cuộc một cách đúng đắn, xác định các vấn đề chiến lược và sách lược của
Cách mạng trong tình hình mới.
Với lĩnh vực quân sự vô sản, chủ nghĩa duy vật lịch sử đóng vai trị là cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận trực tiếp cho khoa học quân sự, góp phần vào việc hình thành
phát triển phương pháp nghiên cứu khoa học cho cán bộ cách mạng và cán bộ quân đội
để họ nâng cao trình độ và là vũ khí tinh thần sắc bén để họ đấu tranh tư tưởng và lý luận.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở của thế giới quan và phương pháp luận khoa học để từ
đó xem xét, giải quyết các vấn đề của thời đại và cách mạng Việt Nam: Trong nhận thức
thời đại hiện nay, chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở khoa học để qua đó nhận thức chủ
nghĩa tư bản hiện đại với các vấn đề như bản chất, mâu thuẫn, sự vận động của chủ nghĩa
tư bản. Đồng thời cũng là cơ sở khoa học để nhận thức và khắc phục khủng hoảng của
chủ nghĩa xã hội thế giới hiện nay.
Với sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay, chủ nghĩa duy vật lịch sử góp phần làm
sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngồi ra, nó
cũng là cơ sở lý luận khoa học để giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng
kinh tế và việc thực hiện công bằng xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở của thế giới quan và phương pháp luận khoa học trực
tiếp với lý luận và thực tiễn quân sự: Thông qua chủ Nghĩa duy vật lịch sử có thể nhận
diện bản chất của các cuộc chiến tranh và là cơ sở lý luận trong nhận thức và giải quyết
các vấn đề trong hoạt động quân sự hiện nay.
Với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở khoa học
cho đổi mới tư duy về bảo vệ Tổ quốc của Đảng và cũng là cơ sở để phát huy vai trò của nhân tố
tinh thần trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
III. Đối tượng nghiên cứu của chủ Nghĩa duy vật lịch sử.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là khoa học về những quy luật chung nhất của sự phát triển của xã hội.
Các mơn khoa học xã hội nói trên (kinh tế chính trị, mỹ học, ngôn ngữ học) nghiên cứu sự phát
triển của những mặt cá nhân nhất định của đời sống xã hội, những kiểu quan hệ xã hội nhất định.
Chủ Nghĩa duy vật lịch sử, trái ngược với các khoa học này, nghiên cứu các quy luật phát triển
của toàn xã hội, trong sự tác động qua lại của tất cả các mặt của nó. Nó cung cấp câu trả lời cho
câu hỏi về điều gì quyết định bản chất của hệ thống xã hội, điều gì quyết định sự phát triển của
xã hội, điều gì quyết định sự chuyển đổi từ hệ thống xã hội này sang hệ thống xã hội khác, chẳng
hạn, quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Không giống như lịch sử dân sự, được thiết
kế để phản ánh một cách cụ thể tồn bộ q trình các sự kiện đã diễn ra trong đời sống xã hội của
từng quốc gia và dân tộc,
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đưa ra câu trả lời khoa học, chính xác duy nhất cho những câu hỏi cơ
bản nhất, quan trọng nhất của khoa học xã hội, nếu không làm rõ vấn đề này thì khơng thể giải
thích một cách chính xác sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội và sự phát triển của bất kỳ
khía cạnh riêng lẻ nào của nó.
Trong đời sống cơng chúng, chúng ta quan sát các mối quan hệ kinh tế, chính trị và hệ tư tưởng.
Có một mối liên hệ xác định nào giữa các mối quan hệ này và bản chất của mối liên hệ này là gì?
Đây là một trong những câu hỏi mà khoa học xã hội cần phải trả lời.
Liệu có mối liên hệ cần thiết nội tại, tính quy luật trong sự kế tiếp nhau linh hoạt, đa dạng, phức
tạp và mâu thuẫn của các sự kiện lịch sử, trong tồn bộ q trình phát triển của xã hội, hay ở đây,
trong đời sống xã hội, không giống như tự nhiên, may rủi, hỗn loạn và tùy tiện ngự trị?
Nhân loại đã vượt qua một chặng đường phát triển lịch sử lâu dài và khó khăn: từ chế độ cơng xã
sơ khai, qua chế độ nô lệ, phong kiến và tư bản, tiến lên chủ nghĩa xã hội, đã chiếm một phần sáu
toàn cầu. Những động lực thúc đẩy sự phát triển tiến bộ này là gì?
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là người đầu tiên đưa ra câu trả lời khoa học cho tất cả những câu hỏi
này - một khoa học chỉ ra con đường dẫn đến ý thức về lịch sử như một quá trình tự nhiên, duy
nhất, mang tất cả tính linh hoạt và mâu thuẫn của nó. Chủ Nghĩa duy vật lịch sử là một lý thuyết
khoa học tổng hợp và hài hịa giải thích sự phát triển của xã hội, sự chuyển đổi từ hệ thống xã
hội này sang hệ thống xã hội khác. Đồng thời, là phương pháp khoa học, đúng đắn duy nhất để
nghiên cứu từng mặt riêng lẻ của đời sống xã hội, là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng lịch
sử cụ thể và nói chung là lịch sử các nước, các dân tộc.
Nói tóm lại, chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự phát triển xã
hội lồi người cũng như bất cứ mơn khoa học nào để phản ánh đúng đắn đối tượng mà mình
nghiên cứu. Chủ Nghĩa duy vật lịch sử đã xây dựng nên một hệ thống các phạm trù khoa học,
các phạm trù đó phản ánh những mặt cơ bản, những quá trình khác nhau của đời sống xã hội như
tồn tại xã hội, ý thức xã hội, quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng - kiến trúc
thương tầng, giai cấp và đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, nhà nước. Vì những hiện tượng
của đời sống xã hội có liên hệ hữu cơ với nhau trong quá trình lịch sử nên những phạm trù phản
ánh chúng cũng được xem xét trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Những phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử là công cụ nhận thức khoa học về những quy luật chung nhất và những
động lực của sử phát triển xã hội. Những phạm trù và quy luật đó phản ánh những mặt và những
mối liên hệ cơ bản, tất yếu, khách quan của đời sống xã hội như quan hệ tác động qua lại giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng.
IV. Nội dung của chủ Nghĩa duy vật lịch sử
1. Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất.
Sản xuất vật chất chính là q trình mà con người sử dụng các công cụ lao động tác động
vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất trong thế giới tự nhiên để có thể tạo ra của cải vật
chất nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Phương thức sản xuất là các cách thức con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất
của xã hội ở các giai đoạn lịch sử nhất định.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, sản xuất vật chất có vai trị là nhân tố
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của con người cũng như của xã hội. Là các hoạt
động nền tảng để phát sinh và phát triển các mối quan hệ xã hội của con người, là cơ sở
hình thành, biến đổi cũng như phát triển xã hội loài người.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là các nhân tố được dùng trong quá trình sản xuất tạo thành năng lực
thực tiễn có thể cải biến các đối tượng tự nhiên theo nhu cầu của con người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với nhau trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm 3 khía cạnh: Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
về tổ chức và quản lý sản xuất và quan hệ trong phân phối các sản phẩm được sản xuất
ra.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất.
Trong đó, lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của q trình sản xuất cịn quan hệ sản
xuất là “hình thức xã hội” của q trình đó. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy
định lẫn nhau và thống nhất với nhau. Đây cũng là yêu cầu tất yếu và phổ biến diễn ra
trong quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng
sản xuất tại mỗi giai đoạn lịch sử xác định vì quan hệ sản xuất chỉ là hình thái kinh tế-xã
hội còn lực lượng sản xuất mới là nội dung vật chất và kỹ thuật của q trình đó.
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế trong xã hội.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với
các thiết chế chính trị- xã hội tương ứng được hình thành trên cơ sở hạ tầng kinh tế nhất
định.
Cơ sở hạ tầng quyết định đến kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng phản ánh
với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng thông qua nhiều phương thức.
Điều này tùy thuộc vào bản chất của các nhân tố trong kiến trúc thượng tầng, vị trí và vai
trị của nó cùng các điều kiện cụ thể. Trong đó, nhà nước là nhân tố tác động trực tiếp và
mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế.
4. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Tồn tại xã hội chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện vật chất của xã hội,
bao gồm các yếu tố như phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa
lý, trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố quan trọng nhất.
Ý thức xã hội là các phương diện sinh hoạt liên quan đến tinh thần của xã hội, nảy sinh từ
tồn tại xã hội và phản ánh sự tồn tại của xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất
định. Tồn tại xã hội quyết định đến ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh đối với tồn tại
xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội; mỗi khi tồn tại xã hội biến đổi thì kéo theo đó là
các tư tưởng và lý luận xã hội, các quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học cũng
thay đổi theo. Song, ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối và có khả năng tác động
trở lại đối với tồn tại xã hội.
Hạt nhân của chủ nghĩa duy vật lịch sử chính là lý luận về hình thái kinh tế- xã hội. Chủ
Nghĩa duy vật lịch sử đã không dừng lại ở việc lý giải nguyên lý chung về mối quan hệ
giữa tồn tại và ý thức xã hội mà còn phân tích kết cấu của xã hội, xác định vị trí, vai trò
của từng yếu tố cấu thành xã hội và xem xét mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố đó
hình thành học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội. Trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, học
thuyết về hình thái kinh tế- xã hội là một trong những nền tảng lý luận cơ bản của lý luận
về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Hình thái kinh tế - xã hội là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã
hội ở giai đoạn lịch sử nhất định với kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù
hợp với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng trên quan hệ sản xuất ấy. Học thuyết về hình thái kinh tế- chính trị là một
cuộc cách mạng của khoa học xã hội nói chung và của Triết học nói riêng. Học thuyết đó
chỉ ra rằng, động lực của lịch sử chính là hoạt động thực tiễn của con người, xuất phát từ
các sự thật hiển nhiên là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở, mặc, nghĩa là phải lao
động trước khi có thể đấu tranh giành quyền thống trị. Quan hệ xã hội vật chất quyết định
các quan hệ khác, đã cung cấp cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn khách quan để thấy
được các quy luật xã hội.
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội.
Nó là khoa học triết học về xã hội, là xã hội học chung làm cơ sở, phương pháp luận cho
tất cả các khoa học cụ thể, nghiên cứu về xã hội như kinh tế, chính trị học, sử học, đạo
đức học, mỹ học và các môn xã hội học riêng biệt như xã hội học về lao động, về gia
đình. Lênin đã từng khẳng định "chủ nghĩa duy vật lịch sử khơng bao giờ có tham vọng
giải thích tất cả mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp duy nhất khoa học để giải
thích lịch sử". Thực vậy, chủ Nghĩa duy vật lịch sử phát hiện ra những quy luật phát triển
chung nhất của xã hội lồi người qua tất cả các hình thái kinh tế xã hội. Nó nghiên cứu
sâu hơn những quy luật tác động trong các hình thái kinh tế xã hội có đối kháng giai cấp,
nhất là những quy luật của hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa. Do đó, chủ nghĩa
duy vật lịch sử giữ vài trị phương pháp luận chung nhất cho các khoa học xã hội cụ thể.
Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý giữa chủ nghĩa khoa học lịch sử và khoa học xã hội và
nhân văn khác có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Điều đó thể hiện chủ Nghĩa duy vật lịch
sử dựa trên những thành tựu của khoa học xã hội và nhân văn cụ thể để khái quát thành
những nguyên lý chung. Hay nói cách khác, chủ nghĩa khoa học lĩch sử cần đến các khoa
học xã hội và nhân văn khác. Ngược lại, sự phát triển của các khoa học xã hội và nhân
văn cụ thể phải tuân theo những quy luật chung của xã hội mà chủ Nghĩa duy vật lịch sử
đã phát hiện, chứng minh ngày càng rõ hơn tính đúng đắn của chủ Nghĩa duy vật lịch sử.
Nếu không nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì các nhà khoa
học xã hội và nhân văn sẽ không thể nào phát hiện, phát triển mơn khoa học của mình
một cách đúng đắn, có cơ sở khoa học mà sẽ rơi vào quan điểm duy tâm, siêu hình trong
việc nghiên cứu xã hội.