Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

SỰ TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG, GIA ĐÌNH, XÃ HỘI ĐẾN HÀNH VI Ở LỨA TUỔI TRUNG NIÊN (40 60 TUỔI). VẬN DỤNG PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM HÀNH VI VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA “SỰ KHỦNG HOẢNG GIỮA ĐỜI NGƯỜI” Ở TUỔI TRUNG NIÊN. MỘT SỐ LƯU Ý KHI TRỢ GIÚP, HỖ TRỢ LỨA TUỔI NÀY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.42 KB, 24 trang )

BỘ LAO ĐỘNG-THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI
-----***------

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: HÀNH VI CON NGƯỜI VÀ MÔI TRƯỜNG
XÃ HỘI NÂNG CAO
Đề tài: SỰ TÁC ĐỘNG CỦA MƠI TRƯỜNG, GIA ĐÌNH, XÃ HỘI
ĐẾN HÀNH VI Ở LỨA TUỔI TRUNG NIÊN (40- 60 TUỔI).
VẬN DỤNG PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM HÀNH VI VÀ
NGUYÊN NHÂN CỦA “SỰ KHỦNG HOẢNG GIỮA ĐỜI NGƯỜI”
Ở TUỔI TRUNG NIÊN. MỘT SỐ LƯU Ý KHI TRỢ GIÚP, HỖ TRỢ
LỨA TUỔI NÀY.
Họ và tên học viên: Vũ Anh Minh
Mã số học viên: CT06016
Lớp: Thạc sĩ CTXH - K6CT1
Giảng viên giảng dạy: TS. Nguyễn Thị Hiền

Hà Nội - Năm 2021


MỤC LỤC

I. ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................1
II. NỘI DUNG.....................................................................................................3
2.1. Nội dung học thuyết hoặc nội dung về lứa tuổi......................................3
2.1.1. Thuyết về sự phát triển tâm lý của con người - Erik Erikson.......3
2.1.2. Nội dung học thuyết phát triển tâm lý xã hội..................................4
2.1.3. Vai trò của học thuyết......................................................................11
2.1.4. Đánh giá ưu và nhược của học thuyết............................................11
2.1.5. Đặc điểm thể chất, tâm sinh lý lứa tuổi trung niên (40 - 60 tuổi) 12


2.2. Vận dụng..................................................................................................14
2.2.1. Ví dụ..................................................................................................14
2.2.2. Nguyên nhân.....................................................................................16
2.2.3. Giải pháp...........................................................................................17
III. KẾT LUẬN..................................................................................................21
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................22


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh đất nước hiện nay cùng với quá trình thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thì vấn đề an sinh xã hội được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, thể
hiện qua hệ thống chính sách xã hội hướng tới mục tiêu cơng bằng, bình đẳng
trong xã hội, trợ giúp các nhóm xã hội yếu thế. Việt Nam đang trong giai đoạn
dân số vàng với đội ngũ lao động đơng đảo, tiếp thu nhanh chóng các tiến bộ
phát triển của thế giới, tuy nhiên tốc độ già hóa dân số tăng và dân số trong độ
tuổi trung niên đang có xu hướng tăng dần qua từng năm mang đến những áp
lực không nhỏ cho kinh tế – xã hội. Do đó cần có những biện pháp nhằm kéo dài
độ tuổi lao động và phát huy kinh nghiệm, kiến thức tích lũy trong q trình lao
động, trọng tâm là giải quyết các vấn đề phát sinh trong cơ cấu dân số độ tuổi
trung niên.
Dân số trong độ tuổi trung niên (người từ đủ 40 đến 65 tuổi) đang có xu
hướng tăng dần qua từng năm. Do Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của thời
kỳ già hóa dân số. Đây là vấn đề đáng quan tâm trong việc tận dụng nguồn lao
động có nhiều kỹ năng, kinh nghiệm, vốn sống này. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, trong vòng 10 năm từ 2009 đến 2019, nhóm tuổi (40-44 tuổi) tăng
thêm khoảng 1,2 triệu người, nhóm tuổi (45-49 tuổi) tăng thêm 1,1 triệu người,
nhóm tuổi (50-54 tuổi) tăng thêm khoảng 2,2 triệu người và nhóm tuổi (từ 55 65 tuổi) tăng thêm khoảng 3,1 triệu người. Có thể thấy tốc độ tăng cao ở nhóm
nhóm tuổi (từ 50 - 65 tuổi) trong đó cao nhất là nhóm 55-60 với tốc độ khoảng
7,5%/năm, sau đó giảm dần ở nhóm tuổi (45-49 tuổi) rồi lại tăng trở lại ở nhóm
tuổi (40-44 tuổi) với tốc độ bình qn là gần 3,6%/năm.

Trong tương lai, dân số độ tuổi trung niên (40 - 65 tuổi) theo chu trình già
hóa dân số sẽ ngày càng gia tăng theo thời gian đòi hỏi cần có nhiều dịch vụ xã
hội đáp ứng nhu cầu của nhóm dân số này. Các cơ quan chính phủ chịu trách
nhiệm về an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, nghỉ hưu và hệ thống chăm sóc y tế
nên chuẩn bị sẵn sàng để đáp ứng với những thay đổi nhân khẩu học sẽ còn biến
động nhiều trong thời gian tới.
Với đặc điểm chung ở độ tuổi trung niên gồm sự nghiệp chững lại, cha mẹ
già yếu bệnh tật, tình cảm vợ chồng gặp trục trặc, đây là những vấn đề điển hình
1


của khủng hoảng tuổi trung niên. Nảy sinh những suy nghĩ chán nản, tiêu cực
làm giảm chất lượng cuộc sống. Nếu khơng được giải quyết sẽ dẫn tới tình trạng
khủng hoảng tuổi trung niên. Thông qua những kiến thức đã học và trải nghiệm
thực tế khi tiếp xúc với những người trong độ tuổi này, với mong muốn đóng
góp cách giải thích và các giải pháp để giải quyết những yêu cầu trên nên tôi
chọn đề tài: “Sự tác động của mơi trường, gia đình, xã hội đến hành vi ở lứa
tuổi trung niên (40- 60 tuổi). Vận dụng phân tích đặc điểm hành vi và nguyên
nhân của “sự khủng hoảng giữa đời người” ở tuổi trung niên. Một số lưu ý
khi trợ giúp, hỗ trợ lứa tuổi này.” làm đề tài tiểu luận.

2


II. NỘI DUNG
2.1. Nội dung học thuyết hoặc nội dung về lứa tuổi
2.1.1. Thuyết về sự phát triển tâm lý của con người - Erik Erikson
Erik Homburger Erikson (tên khai sinh là Erik Salomonsen,sinh ngày 15
tháng 6 năm 1902 – 12 tháng 5 năm 1994) là một nhà tâm lý học phát triển và
nhà phân tâm học người Đan Mạch-Đức-Mỹ được biết đến với lý thuyết về sự

phát triển tâm lý của con người.
Các giai đoạn phát triển tâm lý xã hội của Erikson, được phổ biến vào nửa
sau của thế kỷ 20 bởi Erik Erikson phối hợp với Joan Erikson, là
một lý thuyết phân tâm học toàn diện xác định một loạt tám giai đoạn mà một cá
nhân phát triển khỏe mạnh phải vượt qua từ giai đoạn sơ khai. đến tuổi trưởng
thành và về già.
Lý thuyết giai đoạn của Erikson đặc trưng cho một cá nhân tiến qua tám giai
đoạn cuộc sống. Những giai đoạn này phụ thuộc lẫn nhau: những thành tựu của
các giai đoạn sau phụ thuộc vào việc các xung đột của những giai đoạn trước
được giải quyết ra sao. Ông cho rằng trong mỗi giai đoạn, cá nhân đối mặt với
một cuộc khủng hoảng phát triển. Mỗi khủng hoảng là một xung đột giữa một
khả năng tích cực và một tiềm năng tiêu cực. Cách giải quyết mỗi khủng hoảng
sẽ ảnh hưởng lâu dài đến hình ảnh mà cá nhân đó tự nhìn nhận mình cũng như
xã hội nhìn nhận cá nhân đó. Mỗi cách giải quyết khơng lành mạnh sẽ có sự dội
lại suốt đời mặc dù có thể được sửa chữa ở giai đoạn sau; ngược lại cách giải
quyết thành công mỗi khủng hoảng khi nó xảy ra, sẽ cho ta cơ sở vững chắc để
xây dựng căn tính và đối phó với khủng hoảng sau. Những thách thức của các
giai đoạn khơng hồn thành thành cơng có thể được dự kiến sẽ trở lại như là vấn
đề trong tương lai. Tuy nhiên, việc làm chủ một giai đoạn là không bắt buộc để
tiến tới giai đoạn tiếp theo. Kết quả của một giai đoạn khơng phải là vĩnh viễn
và có thể được sửa đổi nhờ những kinh nghiệm sau này.

3


2.1.2. Nội dung học thuyết phát triển tâm lý xã hội
Tổng quan
Giống như Sigmund Freud,Erikson tin rằng tính cách phát triển trong một
loạt các giai đoạn. Tuy nhiên, không giống như lý thuyết của Freud về các giai
đoạn tâm lý tình dục, lý thuyết của Erikson mơ tả tác động của trải nghiệm xã

hội trong toàn bộ tuổi thọ. Erikson quan tâm đến cách tương tác xã hội và các
mối quan hệ đóng một vai trị trong sự phát triển và phát triển của con người.
Xung đột trong mỗi giai đoạn
Mỗi giai đoạn trong lý thuyết của Erikson được xây dựng trên các giai đoạn
trước và mở đường cho các giai đoạn phát triển tiếp theo. Trong mỗi giai đoạn,
Erikson tin rằng mọi người trải qua một cuộc xung đột đóng vai trị là bước
ngoặt trong sự phát triển.
Theo quan điểm của Erikson, những xung đột này tập trung vào việc phát
triển chất lượng tâm lý hoặc không phát triển phẩm chất đó. Trong thời gian này,
tiềm năng phát triển cá nhân là rất cao nhưng khả năng thất bại cũng vậy.
Nếu mọi người đối phó thành cơng với xung đột, họ sẽ xuất hiện từ sân khấu
với sức mạnh tâm lý sẽ phục vụ họ tốt cho phần còn lại của cuộc đời họ. 3 Nếu họ
khơng đối phó hiệu quả với những xung đột này, họ có thể không phát triển các
kỹ năng cần thiết cho ý thức mạnh mẽ về bản thân.
Làm chủ dẫn đến sức mạnh cái tôi cá nhân.
Erikson cũng tin rằng ý thức về năng lực thúc đẩy hành vi và hành động.
Mỗi giai đoạn trong lý thuyết của Erikson đều liên quan đến việc trở nên có
thẩm quyền trong một lĩnh vực của cuộc sống.
Nếu giai đoạn được xử lý tốt, người đó sẽ cảm thấy làm chủ, đôi khi được
gọi là sức mạnh hoặc chất lượng của cái tôi cá nhân. Nếu giai đoạn được quản lý
kém, người đó sẽ nổi lên với một cảm giác khơng đầy đủ trong khía cạnh phát
triển đó.
Lý thuyết của Erikson bị ảnh hưởng bởi cơng trình của nhà phân tâm
học Sigmund Freud, Erikson tin rằng tính cách phát triển qua một chuỗi các giai
đoạn. Tuy nhiên ông tập trung vào sự phát triển tâm lý xã hội hơn là phát triển
4


tâm lý tình dục. Học thuyết của Erikson mơ tả tác động của các trải nghiệm xã
hội trong suốt cuộc đời của một người. Erikson quan tâm đến cách mà các mối

quan hệ và tương tác xã hội đóng vai trò lên sự phát triển và trưởng thành của
con người.
Các giai đoạn tạo nên lý thuyết của ông như sau:
Giai đoạn 1: Tin tưởng và Hoài nghi.(1 - 2 tuổi)
Giai đoạn 2: Tự chủ và xấu hổ, nghi ngờ. (2 -4 tuổi)
Giai đoạn 3: Chủ động và Cảm giác tội lỗi. (4 - 5 tuổi)
Giai đoạn 4: Siêng năng và Tự ti. (5 - 12 tuổi)
Giai đoạn 5: Nhận dạng cái tơi và Nhầm lẫn về vai trị. (13 - 19 tuổi)
Giai đoạn 6: Thân mật và Cô lập. (20 - 40 tuổi)
Giai đoạn 7: Kiến tạo giá trị và Đình trệ. (40 - 65 tuổi)
Giai đoạn 8: Trọn vẹn và Thất vọng. ( 65 tuổi trở lên)
Mỗi giai đoạn trong học thuyết của Erikson được xây dựng từ giai đoạn trước
đó và từng giai đoạn sẽ là khởi đầu cho các giai đoạn tiếp theo sau nó trong q
trình phát triển.
Giai đoạn 1: Tin tưởng và Hoài nghi.
Giai đoạn đầu tiên của lý thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erikson xảy ra
từ khi sinh ra đến 1 tuổi và là giai đoạn cơ bản nhất trong cuộc sống. Bởi vì trẻ
sơ sinh hồn tồn phụ thuộc, việc phát triển niềm tin dựa trên độ tin cậy và chất
lượng của người chăm sóc trẻ.
Tại thời điểm phát triển này, đứa trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào những người
chăm sóc người lớn cho mọi thứ chúng cần để tồn tại bao gồm thức ăn, tình yêu,
sự ấm áp, an tồn và ni dưỡng. Nếu một người chăm sóc khơng cung cấp sự
chăm sóc và tình u đầy đủ, đứa trẻ sẽ cảm thấy rằng chúng không thể tin
tưởng hoặc phụ thuộc vào người lớn trong cuộc sống của chúng.
Kết quả
Nếu một đứa trẻ phát triển thành công niềm tin, đứa trẻ sẽ cảm thấy an toàn
và an toàn trên thế giới. Những người chăm sóc khơng nhất qn, khơng có cảm
xúc hoặc từ chối góp phần vào cảm giác ngờ vực ở trẻ em dưới sự chăm sóc của
5



họ. Thất bại trong việc phát triển niềm tin sẽ dẫn đến nỗi sợ hãi và niềm tin rằng
thế giới khơng nhất qn và khơng thể đốn trước.
Trong giai đoạn đầu tiên của sự phát triển tâm lý xã hội, trẻ em phát triển
cảm giác tin tưởng khi người chăm sóc cung cấp độ tin cậy, chăm sóc và tình
cảm. Thiếu điều này sẽ dẫn đến sự ngờ vực.
Giai đoạn 2: Tự chủ và xấu hổ, nghi ngờ.
Giai đoạn thứ hai của lý thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erikson diễn ra
trong thời thơ ấu và tập trung vào trẻ em phát triển ý thức kiểm soát cá nhân lớn
hơn.
Tại thời điểm này trong sự phát triển, trẻ em chỉ mới bắt đầu có được một
chút độc lập. Họ bắt đầu tự mình thực hiện các hành động cơ bản và đưa ra
quyết định đơn giản về những gì họ thích. Bằng cách cho phép trẻ em đưa ra lựa
chọn và giành quyền kiểm soát, cha mẹ và người chăm sóc có thể giúp trẻ phát
triển ý thức tự chủ.
Chủ đề thiết yếu của giai đoạn này là trẻ em cần phát triển ý thức kiểm soát
cá nhân đối với các kỹ năng thể chất và cảm giác độc lập. Đào tạo bơ đóng một
vai trị quan trọng trong việc giúp trẻ phát triển ý thức tự chủ này.
Giống như Freud, Erikson tin rằng đào tạo việc tự thực hiện nhu cầu vệ sinh
là một phần quan trọng của quá trình này. Tuy nhiên, lý luận của Erikson hoàn
toàn khác so với lý luận của Freud. Erikson tin rằng học cách kiểm soát các chức
năng cơ thể của một người dẫn đến cảm giác kiểm soát và cảm giác độc lập. Các
sự kiện quan trọng khác bao gồm việc được khuyến khích nhiều hơn đối với sự
tự lựa chọn thực phẩm, sở thích đồ uống và lựa chọn quần áo.
Kết quả
Những đứa trẻ bị kiểm soát và xấu hổ vì lỗi của chúng có thể bị bỏ lại mà
khơng có cảm giác kiểm sốt cá nhân. Thành cơng trong giai đoạn phát triển tâm
lý xã hội này dẫn đến cảm giác tự chủ; Thất bại dẫn đến cảm giác xấu hổ và nghi
ngờ.
Những đứa trẻ hoàn thành thành cơng giai đoạn này cảm thấy an tồn và tự

tin, trong khi những người không bị bỏ lại với cảm giác không đầy đủ và nghi
6


ngờ bản thân. Erikson tin rằng đạt được sự cân bằng giữa quyền tự chủ và xấu
hổ và nghi ngờ sẽ dẫn đến ý chí, đó là niềm tin rằng trẻ em có thể hành động với
ý định, trong lý trí và giới hạn.
Giai đoạn 3: Chủ động và Cảm giác tội lỗi.
Giai đoạn thứ ba của sự phát triển tâm lý xã hội diễn ra trong những năm
mầm non. Tại thời điểm này trong sự phát triển tâm lý xã hội, trẻ em bắt đầu
khẳng định quyền lực và quyền kiểm sốt của mình đối với thế giới thơng qua
việc chỉ đạo chơi và các tương tác xã hội khác.
Những đứa trẻ thành công ở giai đoạn này cảm thấy có khả năng và có thể
lãnh đạo người khác. Những người khơng có được những kỹ năng này bị bỏ lại
với cảm giác tội lỗi, nghi ngờ bản thân và thiếu sáng kiến.
Kết quả
Chủ đề chính của giai đoạn phát triển tâm lý xã hội thứ ba là trẻ em cần bắt
đầu khẳng định quyền kiểm soát và quyền lực đối với môi trường. Thành công
trong giai đoạn này dẫn đến ý thức về mục đích. Những đứa trẻ cố gắng sử dụng
quá nhiều quyền lực hoặc bị hạn chế, không chấp thuận sẽ dẫn đến cảm giác tội
lỗi.
Khi một sự cân bằng lý tưởng của sáng kiến cá nhân và sẵn sàng làm việc
với người khác đạt được, chất lượng cái tơi được gọi là mục đích xuất hiện.
Giai đoạn 4: Siêng năng và Tự ti.
Giai đoạn tâm lý xã hội thứ tư diễn ra trong những năm đầu đi học từ khoảng
5 đến 11 tuổi. Thông qua các tương tác xã hội, trẻ bắt đầu phát triển cảm giác tự
hào về những thành tựu và khả năng của mình.
Trẻ em cần phải đối phó với nhu cầu xã hội và học tập mới. Thành công dẫn
đến cảm giác năng lực, trong khi thất bại dẫn đến cảm giác tự ti.
Kết quả

Trẻ em được khuyến khích và khen ngợi bởi cha mẹ và giáo viên phát triển
cảm giác năng lực và niềm tin vào kỹ năng của chúng. Những người nhận được
ít hoặc khơng có sự khuyến khích từ cha mẹ, giáo viên hoặc bạn bè sẽ nghi ngờ
khả năng của họ để thành công.
7


Thành cơng trong việc tìm kiếm sự cân bằng ở giai đoạn phát triển tâm lý xã
hội này dẫn đến sức mạnh được gọi là năng lực, trong đó trẻ phát triển niềm tin
vào khả năng của mình để xử lý các nhiệm vụ đặt ra trước mắt.
Giai đoạn 5: Nhận dạng cái tơi và Nhầm lẫn về vai trị.
Giai đoạn tâm lý xã hội thứ năm diễn ra trong những năm thiếu niên thường
hỗn loạn. Giai đoạn này đóng một vai trò thiết yếu trong việc phát triển ý thức
về bản sắc cá nhân sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến hành vi và sự phát triển trong suốt
quãng đời còn lại của một người. Thanh thiếu niên cần phát triển ý thức về bản
thân và bản sắc cá nhân. Thành cơng dẫn đến khả năng sống thật với chính
mình, trong khi thất bại dẫn đến sự nhầm lẫn vai trò và ý thức yếu kém về bản
thân.
Trong thời niên thiếu, trẻ khám phá sự độc lập của chúng và phát triển ý thức
về bản thân. Những người nhận được sự khuyến khích và củng cố thích hợp
thơng qua khám phá cá nhân sẽ xuất hiện từ giai đoạn này với ý thức mạnh mẽ
về bản thân và cảm giác độc lập và kiểm sốt. Những người vẫn khơng chắc
chắn về niềm tin và mong muốn của họ sẽ cảm thấy khơng an tồn và bối rối về
bản thân và tương lai.
Hồn thành giai đoạn này thành cơng dẫn đến sự trung thành, mà Erikson
mô tả là một khả năng sống theo các tiêu chuẩn và kỳ vọng của xã hội. Trong
khi Erikson tin rằng mỗi giai đoạn phát triển tâm lý xã hội là quan trọng, ông
đặc biệt nhấn mạnh vào sự phát triển của bản sắc cái tôi cá nhân. Bản sắc cái tôi
cá nhân là ý thức về bản thân có ý thức mà cá nhân phát triển thông qua tương
tác xã hội và trở thành trọng tâm trong giai đoạn bản sắc so với giai đoạn nhầm

lẫn của sự phát triển tâm lý xã hội.
Theo Erikson, bản sắc cái tôi cá nhân liên tục thay đổi do những trải nghiệm
và thông tin mới mà cá nhân có được trong các tương tác hàng ngày với người
khác. Khi cá nhân có những trải nghiệm mới, họ cũng chấp nhận những thách
thức có thể giúp đỡ hoặc cản trở sự phát triển của bản sắc.
Kết quả
8


Bản sắc cá nhân của con người mang lại một cảm giác tích hợp và gắn kết về
bản thân tồn tại trong suốt cuộc sống. Ý thức về bản sắc cá nhân được định hình
bởi kinh nghiệm và tương tác của bản thân đối với người khác, và chính bản sắc
này giúp hướng dẫn hành động, niềm tin và hành vi khi về già.
Giai đoạn 6: Thân mật và Cô lập.
Những người trẻ tuổi cần hình thành mối quan hệ thân mật, yêu thương với
người khác. Thành công dẫn đến các mối quan hệ mạnh mẽ, trong khi thất bại
dẫn đến sự cô đơn và cô lập. Giai đoạn này bao gồm giai đoạn trưởng thành sớm
khi mọi người đang khám phá các mối quan hệ cá nhân.
Erikson tin rằng điều quan trọng là mọi người phải phát triển mối quan hệ
gần gũi, cam kết với người khác. Những người thành cơng trong bước này sẽ
hình thành các mối quan hệ bền vững và an toàn.
Xây dựng trên các giai đoạn trước
Hãy nhớ rằng mỗi bước xây dựng dựa trên các kỹ năng đã học được trong
các bước trước. Erikson tin rằng một ý thức mạnh mẽ về bản sắc cá nhân là rất
quan trọng để phát triển các mối quan hệ thân mật. Các nghiên cứu đã chứng
minh rằng những người có ý thức kém về bản thân có xu hướng có mối quan hệ
ít cam kết hơn và có nhiều khả năng phải vật lộn với sự cơ lập cảm xúc, cô đơn
và trầm cảm.
Kết quả
Giải quyết thành công giai đoạn này dẫn đến đức hạnh được gọi là tình u.

Nó được đánh dấu bởi khả năng hình thành các mối quan hệ lâu dài, có ý nghĩa
với người khác.
Giai đoạn 7: Kiến tạo giá trị và Đình trệ.
Con người trong giai đoạn này cần tạo ra hoặc nuôi dưỡng những thứ sẽ tồn
tại lâu hơn họ, thường là bằng cách có con hoặc tạo ra một sự thay đổi tích cực
có lợi cho người khác. Thành cơng dẫn đến cảm giác hữu ích và thành tựu, trong
khi thất bại dẫn đến sự tham gia nông cạn vào thế giới.
Trong tuổi trưởng thành, con người tiếp tục xây dựng cuộc sống của mình,
tập trung vào sự nghiệp và gia đình. Những người thành cơng trong giai đoạn
9


này sẽ cảm thấy rằng họ đang đóng góp cho thế giới bằng cách hoạt động trong
nhà và cộng đồng của họ. Những người không đạt được kỹ năng này sẽ cảm
thấy không hiệu quả và không liên quan đến thế giới.
Kết quả
Chăm sóc là đức tính đạt được khi giai đoạn này được xử lý thành công. Tự
hào về những thành tựu của mình, theo dõi thế hệ tiếp theo phát triển thành
người lớn và phát triển cảm giác đồn kết với bạn đời của mình là những thành
tựu quan trọng của giai đoạn này.
Giai đoạn 8: Trọn vẹn và Thất vọng.
Giai đoạn tâm lý xã hội cuối cùng xảy ra trong tuổi già và tập trung vào việc
phản ánh lại cuộc sống. Tại thời điểm này trong quá trình phát triển, mọi người
nhìn lại các sự kiện trong cuộc sống của họ và xác định xem họ có hài lòng với
cuộc sống mà họ đã sống hay họ hối tiếc về những điều họ đã làm hoặc không
làm.
Lý thuyết của Erikson khác với nhiều lý thuyết khác vì nó đề cập đến sự
phát triển trong suốt tuổi thọ, bao gồm cả tuổi già. Người lớn tuổi cần nhìn lại
cuộc sống và cảm thấy thỏa mãn. Thành công ở giai đoạn này dẫn đến cảm giác
khôn ngoan, trong khi thất bại dẫn đến hối tiếc, cay đắng và tuyệt vọng.

Ở giai đoạn này, con người phản ánh lại về các sự kiện trong cuộc sống của
họ và xem xét. Những người nhìn lại cuộc sống mà họ cảm thấy được sống tốt
sẽ cảm thấy hài lòng và sẵn sàng đối mặt với sự kết thúc của cuộc đời mình với
cảm giác bình yên. Những người nhìn lại và chỉ cảm thấy hối tiếc thay vào đó sẽ
cảm thấy sợ hãi rằng cuộc sống của họ sẽ kết thúc mà khơng hồn thành những
điều họ cảm thấy họ nên có.
Kết quả
Những người không thành công trong giai đoạn này sẽ cảm thấy rằng cuộc
sống của họ đã bị lãng phí và có thể trải qua nhiều hối tiếc. Người đó sẽ bị bỏ lại
với cảm giác cay đắng và tuyệt vọng.
Những người cảm thấy tự hào về những thành tựu của họ sẽ cảm thấy một
cảm giác chính trực. Hồn thành thành cơng giai đoạn này có nghĩa là nhìn lại
10


với ít hối tiếc và cảm giác hài lịng chung. Những cá nhân này sẽ đạt được sự
khôn ngoan và thanh thản, ngay cả khi đối mặt với cái chết.

2.1.3. Vai trò của học thuyết
Lý thuyết Erikson mang lại nhiều giá trị tích cực. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra
rằng việc liên hệ liên hệ lý thuyết của ông về các giai đoạn khác nhau của chu kỳ
cuộc sống với những kinh nghiệm của riêng mỗi cá nhân là đúng đắn.
Các giai đoạn tâm lý xã hội tuy chỉ là một lý thuyết về cách tính cách phát
triển. Tuy nhiên, lý thuyết này đóng vai trị quan trọng và hữu ích để suy nghĩ về
một số xung đột và thách thức khác nhau mà mọi người có thể phải đối mặt khi
họ trải qua cuộc sống.
Lý thuyết tâm lý xã hội là nó cung cấp một khn khổ rộng để từ đó xem sự
phát triển trong tồn bộ giai đoạn của đời người. Nó cũng cho phép chúng ta
nhấn mạnh bản chất xã hội của con người và ảnh hưởng quan trọng của các mối
quan hệ xã hội đối với sự phát triển.

2.1.4. Đánh giá ưu và nhược của học thuyết
Lý thuyết tâm lý xã hội của Erikson giải thích khá mơ hồ về nguyên nhân của
những sự phát triển. Những kinh nghiệm nào con người cần phải có để thành
công giải quyết những xung đột tâm lý xã hội khác nhau và chuyển tiếp từ giai
đoạn này qua giai đoạn khác? Các lý thuyết khơng có một cơ chế chung để giải
quyết khủng hoảng.
Vào năm 1964, bản thân Erikson đã thừa nhận lý thuyết của ông giúp cung
cấp một cái nhìn tổng quan về vịng đời của con người hơn mơ tả sự phát triển
xã hội và tình cảm của con người mà khơng giải thích đầy đủ như thế nào hay tại
sao sự phát triển này xảy ra. Erikson khơng giải thích một cách rõ ràng kết quả
của một giai đoạn tâm lý xã hội ảnh hưởng như thế nào đến cá tính ở giai đoạn
tiếp theo.
Tuy nhiên, Erikson nhấn mạnh cơng việc của mình là một “cơng cụ để suy
nghĩ với hơn một nghiên cứu thực trạng". Mục đích của nó sau đó là cung cấp
11


một khn khổ phát triển có thể được xem xét hơn là lý thuyết có thể kiểm
chứng.
Một trong những thế mạnh của lý thuyết Erikson là khả năng để kết hợp chặt
chẽ phát triển tâm lý quan trọng trong cả vòng đời con người.

2.1.5. Đặc điểm thể chất, tâm sinh lý lứa tuổi trung niên (40 - 60 tuổi)
Về mặt thể chất, ở giai đoạn này diễn ra một số thay đổi cần lưu ý. Ví dụ
lượng cholesterol tăng lên rõ rệt: trung bình từ 198 ở tuổi 35 40 tăng lên 221 ở
tuổi 45 và sau đó tiếp tục tăng theo tuổi. Chức năng hoạt động của thận giảm đi
khoảng 10%, dung lượng của phổi cũng bắt đầu giảm. Hoạt động của hệ thần
kinh trung ương cũng suy giảm, nhất là vào giai đoạn cuối, từ 55 đến 60 tuổi.
Những suy giảm như vậy về thể chất và thần kinh gây ra những cản trở bước
đầu trong hoạt động và là những nguyên nhân sâu xa của một số loại bệnh tật ở

con người. Ở phụ nữ, khoảng thời gian từ 45 - 55 diễn ra thời kỳ tiền mãn kinh
và mãn kinh. Suốt trong thời kỳ này, do số trứng trong buồng trứng giảm, lượng
ẹstrogen và progesterone giảm gây ra những biểu hiện khơng tốt, khơng bình
thường ở người phụ nữ. ở giai đoạn này phụ nữ thường dễ mệt mỏi, ốm đau như
Về tâm lý, giai đoạn này thường xuất hiện các triệu chứng mất ngủ, đau đầu,
mất cân bằng, về tính tình có những biểu hiện thất thường: buồn rầu, dễ nóng
giận, dễ thay đổi. Chế độ sinh hoạt ăn uống nghỉ ngơi và tập thể dục phù hợp,
khoa học là cách chống lại sự lão hóa sớm ở những người ở tuổi trung niên.
Thời kỳ đầu của giai đoạn này (khoảng 37 - 45 tuổi) ở cả nam giới và nữ giới,
người ta thường quan sát thấy những biểu hiện của "khủng hoảng giữa đời". Dấu
hiệu đặc trưng của nó là hiện tượng mất ngủ, trằn trọc, thất vọng, chán chường,
thờ ơ, lãnh đạm với cuộc sống do con người tĩnh tâm nhìn lại mình, tự suy xét
về những thành bại trong cuộc đời. Người thành đạt cảm thấy mãn nguyện, kẻ
thất bại thấy chua xót, nuối tiếc một thời tuổi trẻ và những cơ hội đã bỏ lỡ. Họ
muốn làm lại nhưng thấy đã quá muộn và cảm thấy tương lai ảm đạm.
12


Ở những người bị "khủng hoảng giữa đời", trong giai đoạn này thường diễn
ra một cuộc đấu tranh nội tâm rất quyết liệt, một sự giằng xé giữa những cái
thuộc về bản chất, bản tính con người thật và bên kia là bộ mặt đóng kịch mà
con người đã mang để tồn tại. Giai đoạn khủng hoảng giúp con người nhìn lại
mình, nắm bắt được những gì thuộc chân lý, giúp con người rút ra những bài học
kinh nghiệm cho riêng mình. Khi đã qua giai đoạn khủng hoảng, những con
người thuộc lứa tuổi trung niên tập trung sức lực đấu tranh cho lao động sáng
tạo trong nghề nghiệp cũng như trong hoạt động xã hội rất đa dạng và phong
phú. Có thể nói đây là giai đoạn chín của tài năng con người do một quá trình
học tập, lao động lâu dài được tích lũy. Đây là lứa tuổi mà con người có thể cống
hiến nhiều nhất tài năng và sức lực của mình cho xã hội.
Bên cạnh thành công trong sự nghiệp, trong giai đoạn này cũng tiềm tàng

một mâu thuẫn có thể khủng hoảng tâm lý. Đó là sự trì trệ bi quan bởi cảm giác
rằng mình chẳng đi đến đâu cả chẳng làm được cái gì quan trọng cả. Cảm giác
này theo đuổi một cách nặng nề đối với những ai phải chịu nhiều thất bại trong
quãng đời này. Cùng với sự nghiệp, điều có ý nghĩa không kém phần quan trọng
ở độ tuổi này là việc dạy bảo cho thế hệ tiếp theo, giúp họ trở thành người hữu
ích. Sự thành đạt hay thất bại, đối với việc dạy bảo con cái chiếm một vị trí quan
trọng trong đời sống tâm lý của những người trung niên, bởi họ ý thức được
ràng, chính thế hệ con cháu sẽ là người tiếp nối cuộc đời của họ. Mặt khác,
những người có hiểu biết đều hiểu rằng ni dạy con cái khơng chỉ để bảo tồn
dịng họ, gia đình mà cịn là để xây dựng đất nước, xã hội. Chính ở đây cũng
diễn ra mâu thuẫn giữa một bên là sự nghiệp của bố mẹ và bên kia là sự chăm
sóc, vun trồng cho sự nghiệp của con cái. Mâu thuẫn này không dễ giải quyết và
thực tiễn cuộc sống đã cho thấy nhiều khi "được đằng nọ, mất đằng kia".
Xã hội càng văn minh, phát triển thì mâu thuẫn này càng đỡ gay gắt và điều
kiện để phụ nữ phát triển và cống hiến tài năng của mình càng được rộng mở.
Điều đáng quan tâm là việc giáo dục con cái của những người ở tuổi trung niên
có những nét đặc trưng mới. ở giai đoạn này, những đứa con của họ thường nằm
13


trong độ tuổi vị thành niên - một lứa tuổi có tính chất bước ngoặt, có nhiều sự
phức tạp, khó khăn trong q trình giáo dục.
Khơng ít các bậc bố mẹ cảm thấy bất lực trước con cái, cảm thấy mâu thuẫn
thế hệ diễn ra gay gắt khi đối mặt với con cái trong thời kỳ hiện đại. Thực tế xã
hội cũng cho thấy con cái những người ở tuổi trung niên thường có nhiều vấn
đề, dễ bị sa vào hư hỏng, vào các tệ nạn xã hội. Sự thành bại đối với giáo dục
con cái ở những người trung niên có ảnh hưởng lớn đến đời sống tâm lý của họ.
Những người thành công thường tự hào, hãnh diện về con cái của họ. Ngược lại,
bi kịch gia đình thường dễ xảy ra và các bậc cha mẹ cảm thấy đau khổ, bi quan,
hạnh phúc gia đình bị ảnh hưởng. Những nghiên cứu của các nhà tâm lý học cho

thấy: ở độ tuổi này, con người thích thú với các cuộc hội họp: những cuộc họp
của các cựu chiến binh, thanh niên xung phong v.v... giúp họ tìm thấy mình
trong quá khứ, giải tỏa những ưu phiền thường nhật trong cuộc sống, động viên
họ vui tươi, khoẻ mạnh hơn.
2.2. Vận dụng
2.2.1. Ví dụ
Thực trạng Sugar daddy tại Việt Nam.
Theo nghĩa đen thì “Sugar Daddy” trong tiếng Việt có nghĩa là “Ông bố ngọt
ngào” (nghĩa gốc là “Kẹo mút”) và “Sugar Baby” là “Đứa con ngọt ngào”. Còn
hiểu theo khái niệm của mạng xã hội (hay nghĩa bóng) thì “Sugar Daddy” ám
chỉ những người đàn ơng có độ tuổi ngồi 30, có kinh tế, có nhu cầu chu cấp tài
chính và “tình cảm” cho các “Sugar Baby”(thường là các cơ gái sở hữu ngoại
hình quyến rũ, mong muốn có tiền mà nhàn nhã).
Theo New York Times và The Sun, trên thực tế có nhiều trang web như
“Sugardaddy”, “Seeking Arrangement (Mỹ), Sugar Book (Malaysia), Universe
Club (Nhật Bản),... được tạo ra để kết nối các “Sugar Daddy” và “Sugar Baby”
với nhau. Thông thường, các cuộc hẹn sẽ diễn ra dưới hình thức là ăn uống, trò
chuyện, di du lịch hoặc quan hệ tình dục,…

14


Trong khi đó, trang Save the Student từng cơng bố khảo sát năm 2018 cho
thấy nhiều sinh viên thừa nhận bản thân sử dụng cơ thể để kiếm tiền, bao gồm
bán dâm, quay clip khiêu dâm qua webcam đặc biệt là làm “Sugar Baby” cho
các “Sugar Daddy” lớn tuổi.
Theo nhiều người dùng mạng tại Việt Nam, cụm từ “Sugar Daddy” và “Sugar
Baby” thời gian gần đây đang có dấu hiệu bùng nổ khi đâu đâu cũng xuất hiện
các bài viết cùng hình ảnh liên quan. Tuy nhiên, cần nhìn nhận rõ rằng đây
không phải là một trào lưu hay xu hướng mà là một hình thức mại dâm trá hình

qua mạng.
Tờ Crime Reads từng cho biết, các cô gái làm “Sugar Baby” thường khiếu
nại rằng họ bị các “Sugar Daddy” ép sử dụng ma túy hoặc quan hệ tình dục. Bên
cạnh đó nhiều chuyên gia nhận định các trang web kết nối “Sugar Daddy” với
các cô gái tạo ra môi trường hồn hảo cho các hình thức lừa đảo. Với những
động cơ riêng, các “Sugar Daddy” thường tỏ ra mình là người lịch thiệp, quyến
rũ và hào phóng trước những phụ nữ trẻ ngây thơ, đơi khi tuyệt vọng vì thiếu
tiền. Do đó việc đàn ơng trả tiền cho phụ nữ để đổi lấy thời gian hẹn hị, thậm
chí là cơ thể của họ thường đi kèm với sự thiếu tơn trọng.
Về mặt khái niệm, hiện chưa có một định nghĩa rõ ràng và duy nhất về Sugar
Dating rất khó để xác định. Như Petter (2013) đã diễn đạt trong một bài báo
đăng trên tờ Independent, thuật ngữ này thường được mô tả là "ngôn ngữ không
rõ ràng" và "bị che đậy trong sự mơ hồ" hơn là được định nghĩa rõ ràng. Về lý
thuyết, Sugar Dating được mô tả là một mối quan hệ mà một đối tác (thường là
nam giới lớn tuổi hơn, giàu có hơn) cung cấp cho một đối tác khác (thường là nữ
giới trẻ tuổi) các nhu cầu thường là về vật chất để đổi lại sự thỏa mãn về một
hoặc nhiều nhu cầu nào đó mà Sugar Daddy mong muốn.
Trang web chính thức được cơng nhận trong việc tìm kiếm các mối quan hệ
là Seeking.com của Mỹ định nghĩa về Sugar dating là “mối quan hệ đơi bên
cùng có lợi”, bao gồm cả hai yếu tố— quan hệ (thời gian hoặc giới tính) và lợi
ích (tài chính hoặc các yếu tố vật chất khác). Nó được xây dựng để cho phép cả
hai người tham gia “có được thứ họ muốn khi họ muốn”
15


Về cấu tạo tâm lý của các Sugar Daddy thường bao gồm những người đàn
ơng và phụ nữ có địa vị hoặc khả năng tài chính đang cảm thấy cơ đơn và tìm
kiếm các mối quan hệ. Việc này dẫn đến việc các Sugar Daddy muốn 'đầu tư'
vào một mối quan hệ. Tiền và địa vị cho phép họ tiếp cận với những cá nhân trẻ
và dễ bị tác động, những người sẵn sàng đáp ứng tất cả các nhu cầu và yêu cầu

của họ để đổi lấy thường là lợi ích về mặt vật chất.
Cuộc khủng hoảng này, thường xảy ra khi một người đang trải qua một giai
đoạn trong cuộc sống của họ, đặc biệt hay xuấ hiện ở giai đoạn 7: Kiến tạo giá
trị và Đình trệ, theo lý thuyết phát triển tâm lý xã hội của nhà tâm lý học nổi
tiếng Erik Erikson.
Giai đoạn này diễn ra ở tuổi trung niên trong độ tuổi từ 40 đến 65 và điều này
có thể có hậu quả đối với khái niệm và hình ảnh bản thân của một người, khiến
họ tránh được thực tế của thế giới này và mong muốn sống trong một thế giới do
họ tạo ra.
2.2.2. Nguyên nhân
Theo thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erikson, việc không thể giải quyết
được mẫu thuẫn nảy sinh trong giai đoạn 7 ( 40-65 tuổi) là sự trì trệ. Một số
nguyên nhân sau đây thúc đẩy việc hình thành Sugar dating và Sugar daddy.
Cảm giác bản thân như một vị cứu tinh
Việc tự đánh lừa bản thân rằng đang thực sự giúp đỡ một ai đó và lợi ích vật
chất bỏ để xây dựng mối quan hệ sugar dating khơng bị lãng phí và việc đó giúp
đánh bóng bản thân, khiến bản thân trở nên thu hút, đổi lại cảm giác được người
khác tôn sùng.
Cảm giác cai trị, kiểm soát người khác
Một dạng khác của việc cảm giác bản thân như một vị cứu tinh, cảm giác cai
trị, kiểm soát người khác sau khi đã bỏ ra lợi ích vật chất để giúp đỡ. Việc cảm
thấy bản thân hồn tồn chủ động kiểm sốt đối phương thơng qua lợi ích vật
chất giúp các sugar daddy cảm thấy an tồn hơn để duy trì mối quan hệ.
Chuyển giao cảm xúc
16


Ở một góc độ khác, việc cung cấp lợi ích vật chất còn bao gồm cả việc mong
muốn chuyển giao cảm xúc của bản thân sang đối phương, sự thiếu hụt hoặc mất
mát trong các mối quan hệ gia đình hoặc những mong đợi của sugar daddy về

cảm xúc mà chưa thể thực hiện được.
Bù đắp cho thời gian đã mất
Việc thất bại trong cuộc sống gia đình khi cịn trẻ là một trong những động
lực chính thúc đẩy việc hình thành sugar dating. Trong nhiều trường hợp, các
sugar daddy dường như cảm thấy họ đang trở lại hoặc thay đổi được quá khứ
của họ khi ở bên cạnh một người phụ nữ trẻ tuổi.
Mong muốn trở thành một sugar daddy có thể xuất phát từ những phức tạp
sâu sắc hoặc chấn thương ẩn giấu thúc đẩy những người đàn ông này cảm thấy
mong muốn của phụ nữ trẻ để tìm kiếm sự cơng nhận. Trong nhiều trường hợp,
hẹn hị với một phụ nữ trẻ trở thành một sự thay thế cho liệu pháp tâm lý hoặc
có thể nổi lên như một cảm giác nhận được một cuộc sống khác, nơi các sugar
daddy thấy mình vẫn cịn ở trong độ tuổi của sugar baby.
Cảm giác sở hữu toàn diện
Ở một cấp độ cao hơn cảm giác cai trị, kiểm soát. Khi các sugar daddy cảm
thấy cần phải nhận lại lợi ích từ việc kiểm soát các sugar daddy, việc trao đổi các
sugar baby sẽ hình thành.
Việc tự do trao đổi các sugar baby thậm chí cịn tăng mức độ hấp dẫn của
việc trở thành sugar daddy. Đe dọa hoặc ép buộc có được sự đồng thuận hoặc
bản thân các sugar baby chấp nhận việc trao đổi cho phép cả hai bên được
hưởng lợi, trong khi hoạt động mại dâm thông thường chỉ phục vụ để mang lại
lợi ích hoặc làm hài lịng một người.
2.2.3. Giải pháp.
Xét cho cùng, việc hình thành các mối quan hệ sugar dating xuất phát từ
những nhu cầu khi mà một người không thể tự giải quyết được mâu thuẫn chủ
đạo trong giai đoạn tuổi của mình. Dựa theo nhóm tuổi chủ yếu xuất hiện sugar
daddy thường vào giai đoạn trung niên (40 - 60 tuổi), theo lý giải của Erikson
17


trong thuyết phát triển tâm lý xã hội, xuất hiện mâu thuẫn chủ đạo là Sự kiến tạo

với đình trệ.
Sự kiến tạo đề cập đến việc "tạo dấu ấn của bản thân" bằng cách chăm sóc
người khác cũng như tạo ra và hồn thành những điều làm cho gia đình và cộng
đồng trở thành một nơi tốt đẹp hơn. Các đặc điểm chính của sự kiến tạo bao
gồm:
 Cam kết với người khác
 Phát triển mối quan hệ với gia đình
 Cố vấn cho người khác
 Đóng góp cho thế hệ tiếp theo
Những điều này thường được thực hiện thông qua việc có và ni dạy con
cái. Những người thành công trong giai đoạn này sẽ cảm thấy rằng họ đang đóng
góp cho thế giới bằng cách hoạt động trong nhà và cộng đồng của họ.
Sự đình trệ đề cập đến sự thất bại trong việc tìm ra cách đóng góp, tạo dấu
ấn. Những cá nhân này có thể cảm thấy bị ngắt kết nối hoặc mất liên kết đến
cộng đồng và xã hội. Một số đặc điểm của sự đình trệ bao gồm:
 Tự cho mình là trung tâm
 Không tham gia với người khác
 Không quan tâm đến năng suất
 Khơng có nỗ lực để cải thiện bản thân
 Đặt mối quan tâm của bản thân lên trên tất cả những thứ khác.
Theo Erikson, việc giải quyết thành công mâu thuẫn trong giai đoạn 7 (độ
tuổi trung niên) là chìa khóa để giải quyết các vấn đề có thể xuất hiện do sự đình
trệ gây ra.
Đối với gia đình.
Tạo điều kiện về mặt thời gian, khuyến khích người trung niên tham gia vào
hoạt động chăm sóc các thế hệ sau, các hoạt động cộng đồng, các hội nhóm lành
mạnh, tạo mơi trường gắn bó, đồn kết giữa các thành viên trong gia đình.
Thơng cảm và thích ứng với một số thay đổi về mặt thể chất và tình cảm của
18



người trung niên, hãy nghĩ rằng bản thân một ngày khơng xa cũng sẽ trải qua
giai đoạn này để tìm được sự đồng cảm.
Đối với cộng đồng.
Cơng nhận và có những chính sách, điều khoản, quy ước phù hợp. Khuyến
khích người trung niên phát huy vốn sống, kinh nghiệm của mình cho các thế hệ
sau, có thể là các buổi thảo luận nhỏ, xây dựng và tài trợ hoạt động các hội
nhóm thể thao, văn hóa có sự tham gia của người trung niên.
Cần đứng trên góc độ nhìn nhận những giá trị, nguồn lực mà người trung
niên có thể đem lại cho cộng đồng, qua đó giúp thúc đẩy sự phát triển cộng đồng
nói chung.
Đối với bản thân người trung niên.
Khám phá một sở thích mới, việc tìm kiếm một niềm đam mê mới là một
cách hiệu quả để cảm thấy có động lực và cảm hứng cho bản thân. Điều này
giúp tránh những suy nghĩ tiêu cực nảy sinh do bế tắc trong khoảng thời gian
diễn ra khủng hoảng tuổi trung niên.
Học một cái gì đó mới, việc tiếp thu các kiến thức mới không bao giờ là quá
muộn, học hỏi và sau đó áp dụng các kiến thức, kỹ năng mới có thể giúp bạn
cảm thấy hiệu quả hơn.
Duy trì, thiết lập các mối quan hệ mới, việc tiếp xúc với những người khác
giúp tăng cường mối liên kết với xã hội, giúp bản thân người trung niên thấy gắn
bó với người khác, từ gia đình tới cộng đồng.
Lưu ý, cần xác định rõ động cơ, mục tiêu trong việc xây dựng các mối quan
hệ mới. Mặt trái của điều này có thể dẫn tới việc hình thành các mối quan hệ
sugar dating, thường đem lại những ảnh hưởng tiêu cực và thậm chí liên quan
tới yếu tố vi phạm pháp luật.
Tìm kiếm cơ hội việc làm mới: Ở giai đoạn từ 60 - 65, đa phần người trung
niên sẽ có tâm lý "nghỉ hưu" hạn chế các hoạt động công việc để dành thời gian
nghỉ ngơi nhiều hơn, tuy nhiên nếu lựa chọn tiếp tục tham gia các công việc phù
hợp với sức khỏe, độ tuổi sẽ giúp hạn bản thân ln cảm thấy tích cực, hữu ích

và hiệu quả.
19


Học cách hài lịng, cuối cùng thì giai đoạn trung niên là giai đoạn chuyển
giao giữa giai đoạn trưởng thành và giai đoạn tuổi già, việc chuẩn bị tâm lý thoải
mái, chấp nhận những thay đổi về sức khỏe, tâm lý của bản thân ln là yếu tố
quan trọng nhất.
Tìm hiểu, dự đốn tình trạng của bản thân và đưa ra những kế hoạch trước
cho tương lai luôn là cách hiệu quả nhất để đối phó với các mâu thuẫn giai đoạn
này, điển hình là khủng hoảng tuổi trung niên, học cách làm chủ cảm xúc, hướng
suy nghĩ tới những điều tích cực, kiến tạo các giá trị cho thế hệ sau để những
năm tháng tuổi trung niên trôi qua với những điều tốt đẹp nhất.

20


III. KẾT LUẬN
Tóm lại, Erikson (1950) quan tâm đến việc mở rộng nghiên cứu về sự phát
triển của con người vào các giai đoạn sau của tuổi trưởng thành. Đề xuất của
ơng rằng có những hậu quả như đình trệ và tuyệt vọng về cảm xúc khi các cá
nhân không thể giải quyết thành công các thách thức trong các giai đoạn phát
triển của mình có ý nghĩa quan trọng đối với sự hiểu biết và hỗ trợ các can thiệp
nhằm phát triển, sức khỏe và tâm lý của con người.
Việc vận dụng thuyết phát triển tâm lý xã hội vào giải quyết sự khủng hoảng
giữa đời người mà một trong những biểu hiện của nó là việc hình thành sugar
dating và các sugar daddy cung cấp một hướng phân tích tâm lý, nguyên nhân và
giải pháp để hạn chế và xóa bỏ sugar dating.
Lý thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erikson nói chung vẫn tồn tại một số
nhược điểm đã được nhắc đến trong bài tiểu luận. Không thể phủ nhận khi lý

thuyết này được xây dựng từ những năm của thế kỷ 20, việc áp dụng vào giải
quyết một vấn đề cụ thể trong thời đại mới là khá miễn cưỡng. Tuy nhiên, những
giá trị về mặt lý thuyết và cái nhìn tổng quan về tồn bộ các giai đoạn của đời
người, những mâu thuẫn chủ yếu sẽ phát sinh vẫn cịn khá chính xác cho tới hiện
tại, những vấn đề mới nảy sinh về chủ quan là những biến đổi xuất phát từ việc
không thể giải quyết được những mâu thuẫn này.
Cuối cùng, trong quá trình nghiên cứu, hồn thiện và trình bày bài tiểu luận
được tham khảo từ nhiều nguồn dữ liệu và trên quan điểm cá nhân, sẽ không
tránh khỏi một số ý kiến mang tính chủ quan. Rất mong được sự góp ý của các
thầy cơ để bài tiểu luận hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Người viết tiểu luận
21


Vũ Anh Minh
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. />2. />3. />4. />5. />6. />n

22



×