Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Quyền tự do cư trú của công dân những khía cạnh pháp lý và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 77 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
‫־־־־־־־־־ * * *־־־־־־־־־־‬

TRẦN THỊ TUYẾT NHUNG
MSSV: 0855040054

QUYỀN TỰ DO CƢ TRÚ CỦA CƠNG DÂN NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ VÀ
THỰC TIỄN

Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Luật
Niên khóa: 2008 – 2012

Ngƣời hƣớng dẫn:
Giảng viên Lƣu Đức Quang

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành tốt khóa luận này, em xin chân
thành cảm ơn đến thầy giáo hướng dẫn Lưu Đức
Quang – Giảng viên Khoa Luật Hành chính cùng các
quý thầy cơ trong khoa đã tận tình hướng dẫn và động
viên khích lệ để em hồn thành tốt luận văn này. Tuy
nhiên, vì thời gian cũng như kiến thức có hạn luận văn
vẫn cịn nhiều điểm thiếu sót, kính mong quý thầy cô
thông cảm. Đồng thời, em cũng rất mong nhận được
sự góp ý từ phía các thầy cơ để luận văn được hồn
chỉnh hơn. Cảm ơn các thầy cơ!



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BCĐBHĐND:

Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân

BCĐBQH:

Bầu cử đại biểu Quốc hội

BLDS:

Bộ luật Dân sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CAND:

Cơng an nhân dân

HĐND:

Hội đồng nhân dân

ICCPR:

Tun ngơn quốc về các quyền dân sự và chính trị

năm 1966

ICESCR:

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã
hội năm 1966

NĐ:

Nghị định

Nxb:

Nhà xuất bản

TP:

Thành phố

TT:

Thơng tư

UBND:

Ủy ban nhân dân

UDHR:

Tun ngơn của tồn thế giới về nhân quyền năm

1948


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TỰ DO CƢ
TRÚ CỦA CÔNG DÂN ................................................................................. 3
1.1. Cơ sở lý luận về quyền tự do cư trú của công dân .................................... 3
1.1.1. Khái niệm quyền tự do cư trú của công dân.....................................4
1.1.2. Mối quan hệ giữa quyền tự do cư trú và một số quyền cơ bản khác của
công dân .......................................................................................................... 13
1.1.2.1. Quyền tự do cư trú - Quyền bầu cử.................................................... 14
1.1.2.2. Quyền tự do cư trú - Quyền lao động ................................................ 15
1.1.2.3. Quyền tự do cư trú - Quyền học tập................................................... 16
1.2. Cơ sở pháp lý về quyền tự do cư trú của công dân .................................. 17
1.2.1. Quyền tự do cư trú của công dân theo pháp luật của một số nước trên
thế giới ............................................................................................................. 18
1.2.2. Quyền tự do cư trú của công dân theo pháp luật Việt Nam................. .21
1.2.2.1. Quyền tự do cư trú của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp .... 21
1.2.2.2. Quyền tự do cư trú của công dân được ghi nhận trong các văn bản
luật và dưới luật ............................................................................................... 26

CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN TỰ DO CƢ TRÚ
CỦA CÔNG DÂN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ........................................... 41
2.1. Thực tiễn thực hiện quyền tự do cư trú của công dân.............................. 41
2.1.1. Quyền tự do cư trú của công dân bị xâm hại liên quan đến vấn đề ưu
tiên tính hợp lý hay hợp pháp trong việc ban hành các quyết định quản lý nhà
nước ................................................................................................................. 42



2.1.2. Quyền tự do cư trú của công dân bị xâm hại do các quy định về thủ tục
hành chính ....................................................................................................... 45
2.1.2.1. Quy định về thủ tục hành chính theo Luật Cư trú.............................. 45
2.1.2.2. Quy định về thủ tục hành chính theo các văn bản dưới luật .............. 50
2.1.3. Phương pháp quản lý dân cư bằng hộ khẩu gây ảnh hưởng đến việc
công dân thực hiện quyền tự do cư trú ............................................................ 51
2.1.4. Các biện pháp đảm bảo khác nhằm thực hiện quyền tự do cư trú của
công dân .......................................................................................................... 58
2.2. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo quyền tự do cư trú của công dân ......... 61
2.2.1. Một số kiến nghị về mặt pháp lý ........................................................... 61
2.2.1.1. Xây dựng khung pháp lý thống nhất .................................................. 61
2.2.1.2. Cải cách thủ tục hành chính ............................................................... 64
2.2.1.3. Xây dựng cơ chế bảo hiến có hiệu quả .............................................. 66
2.2.2. Một số kiến nghị khác ........................................................................... 67

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong số những quyền dân sự cơ bản của công dân, quyền tự do cư trú
của công dân là một trong những quyền luôn được Nhà nước ta quan tâm và
bảo đảm thực hiện. Vì quyền này chứa đựng những giá trị, mục đích cao q
nhất đối với xã hội, khơng chỉ có ý nghĩa đối với bản thân mỗi cơng dân mà
còn thể hiện mức độ dân chủ của nhà nước.
Quyền tự do cư trú của công dân là quyền tự nhiên thuộc về bản năng

sống của mỗi người. Thế nên, khơng một ai có thể chống lại hay chà đạp lên
quyền tự do đó vì bất cứ một lý do nào biện hộ cho sự vi phạm này. Kiến thức
về quyền con người, quyền công dân quan trọng như vậy, bản Tuyên ngôn thế
giới về quyền con người năm 1948 đã đặt ra cơ sở, nền tảng cho việc xây
dựng hệ thống các nguyên tắc và các chuẩn mực quốc tế về quyền con người.
Trong đó, điều 13 của bản tuyên ngôn đã quy định về quyền tự do cư trú như
sau: “Mỗi người đều có quyền tự do đi lại và cư trú trong phạm vi một quốc
gia”. Quy định này sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong các điều
12, 13 Cơng ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Bất cứ ai
cư trú hợp pháp trong lãnh thổ của một nước đều có quyền tự do đi lại và lựa
chọn nơi cư trú trong phạm vi lãnh thổ đó”. Chính việc ghi nhận quyền tự do
cư trú của cá nhân vào các văn kiện pháp lý quốc tế giúp mỗi cá nhân nhận ra
tầm quan trọng của chính bản thân khi mình là chủ nhân của chính các quyền
đó.
Ở nước ta, quyền tự do cư trú của công dân là một trong những quyền cơ
bản của công dân. Vấn đề bảo vệ và tôn trọng quyền tự do cư trú nói riêng,
quyền cơng dân nói chung được coi là u cầu trung tâm của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta đã có các biện pháp phù hợp để đảm bảo
quyền làm chủ của công dân, để nhân dân thực sự trở thành người “làm chủ”
còn nhà nước chỉ là “phương tiện” để nhân dân thực hiện quyền của mình.
Do vậy, quyền tự do cư trú được ghi nhận ở các văn kiện pháp lý quốc tế đã
sớm được nhà nước thể chế hóa qua các bản Hiến pháp, điều 68 Hiến pháp
1


năm 1992 quy định: “Cơng dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước…
theo quy định của pháp luật” cùng đó các văn bản pháp luật khác cũng đã ghi
nhận về quyền này. Thế nhưng khi cơng dân thực hiện quyền này đã khơng
cịn đúng như “nguyên thủy”, hiện trạng ban đầu mà đã bị “biến tấu” đi rất
nhiều. Phải chăng vì pháp luật về cư trú đã tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, các

biện pháp đảm bảo của nhà nước chưa đủ mạnh mẽ để có thể chuyển tải các
quy định pháp luật vào thực tế một cách có hiệu quả hay là sự mơ hồ thiếu
hiểu biết của người dân về quyền tự do cư trú… và còn nhiều những nguyên
nhân khác nữa. Nên chăng quyền tự do cư trú của công dân cần được nhìn
nhận, đánh giá lại một cách tổng thể và khái quát hơn. Việc mở rộng và có
những đảm bảo từ phía nhà nước về quyền tự do cư trú công dân là cần thiết
và đáp ứng yêu cầu khách quan của cuộc sống xã hội.
Với những lý do trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: “Quyền tự do cư trú
của cơng dân - Những khía cạnh pháp lý và thực tiễn” để thực hiện luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về quyền tự do cư trú của công dân, số lượng các luận văn
viết về đề tài này tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đến nay chỉ
có quy nhất một bài viết liên quan của tác giả Huỳnh Thị Mai Trinh “Quyền
tự do cư trú của công dân - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” (2006). Tuy
nhiên, luận văn này được viết khi Luật Cư trú chưa được ban hành, do đó một
số vấn đề được đề cập trong luận văn chẳng hạn liên quan đến các quy định
pháp luật điều chỉnh trực tiếp quyền tự do cư trú của công dân (ngoại trừ Hiến
pháp) chỉ giới hạn trong các văn bản dưới luật nên khi quyền này được thực
hiện vào thực tế tồn tại một số vướng mắc nhất định. Ngày nay, Luật Cư trú
được ban hành với những quy định mới mẻ và cụ thể hơn điều chỉnh hầu hết
những vấn đề xoay quanh quyền tự do cư trú của cơng dân do đó thực tiễn
thực hiện quyền cũng đã có nhiều chiều hướng thay đổi. Chính vì vậy, tác giả
tập trung khai thác một số điểm mới của đề tài, đó là tìm hiểu các quy định
của pháp luật cư trú hiện hành chú trọng vào Luật Cư trú cùng các văn bản
dưới luật liên quan điều chỉnh về quyền này trong quá trình so sánh, đối chiếu
với các văn bản pháp luật trước đó. Tiếp đến, tìm hiểu thực tiễn thực hiện
quyền hiện nay qua quá trình áp dụng pháp luật hiện hành vào thực tiễn đã có
sự thay đổi như thế nào, tạo cơ sở để đề ra những giải pháp mang tính khuyến
2



nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự do cư trú của công dân trên
thực tế.
Liên quan đến đề tài này đã có một số bài viết được cơng bố trên các tạp
chí khoa học chun ngành, hội thảo khoa học như: “Góp ý về quyền tự do đi
lại và cư trú của công dân” - Tọa đàm khoa học Khoa Luật Hành chính nhà
nước (22/12/2011) của PGS.TS Nguyễn Cảnh Hợp - TS. Trần Thị Thu Hà;
“Quyền tự do cư trú của công dân - Thực trạng và một vài kiến nghị” - Tọa
đàm khoa học Khoa Luật Hành chính (20/4/2012) của TS. Trần Thị Thu Hà;
“Nguyên tắc quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định Lý luận và thực tiễn” - Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường (2012) của nhóm tác giả Lưu Đức Quang - Nguyễn Mạnh Hùng Nguyễn Thanh Minh. Ngoài ra, một số vấn đề có liên quan cũng được thể
hiện trong một số các sách chuyên khảo như: “Quyền con người, quyền công
dân trong Hiến pháp Việt Nam” - Nxb. Khoa học xã hội - 2005 của PGS.TS.
Nguyễn Văn Động; “Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” - Nxb. Chính trị quốc gia - 2011 của
GS.TS. Trần Ngọc Đường… Mặc dù, các công trình nghiên cứu trên chưa có
sự bao qt và tổng hợp một cách khái quát và thống nhất về quyền này
nhưng là một trong những bài viết quan trọng và có giá trị đóng góp vào cơng
trình nghiên cứu chung, là nguồn tài liệu quý giá giúp tác giả có cơ sở tổng
kết và đánh giá quyền này một cách cụ thể và hoàn thiện hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt pháp lý, đề tài tập trung nghiên cứu quyền này thông qua các bản
Hiến pháp, cụ thể đi sâu vào bản Hiến pháp hiện hành, Luật Cư trú và các văn
bản dưới luật (Nghị định, Thông tư… ). Đối với pháp luật quốc tế, đề tài
nghiên cứu quy định pháp luật của một số quốc gia như: Liên bang Nga, Thái
Lan, Singapore, Indonesia.
Về mặt thực tiễn, đề tài dẫn chứng một số trường hợp cụ thể khi áp dụng
các quy định pháp luật cư trú vào thực tiễn qua đó phân tích, đánh giá rút ra
những hạn chế và bất cập trong q trình cơng dân thực hiện quyền tự do cư
trú, từ đó đưa ra một số kiến nghị để quyền này ngày càng được hoàn thiện

hơn.

3


4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
MacLenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người. Phương pháp nghiên
cứu chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Đồng thời
trong quá trình nghiên cứu, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu khác như so sánh, phân tích các quy định của pháp luật, tình hình thực
tiễn áp dụng và phương pháp tổng hợp đánh giá các ưu điểm, hạn chế, nghiên
cứu thống kê, khảo cứu thực tiễn nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra.
5. Bố cục của luận văn: bao gồm:

Phần mở đầu: Giới thiệu lý do chọn đề tài, tình hình, phạm vi, phương
pháp nghiên cứu và bố cục của luận văn.

Chương 1 - “Cơ sở lý luận và pháp lý về quyền tự do cư trú của cơng
dân” trình bày: khái niệm quyền tự do cư trú của công dân và mối liên hệ
quyền tự do cư trú của công dân với một số quyền công dân khác; chỉ ra cơ sở
pháp lý quy định về quyền này.

Chương 2 - “Thực tiễn thực hiện quyền quyền tự do cư trú của cơng
dân và một số kiến nghị” trình bày: thực tiễn thực hiện quyền này từ đó tìm ra
những nguyên nhân, hạn chế trong quá trình thực hiện quyền này; đưa ra một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện quyền tự do cư trú của công dân.


Kết luận.




Danh mục tài liệu tham khảo.

4


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TỰ DO CƢ
TRÚ CỦA CÔNG DÂN

1.1. Cơ sở lý luận về quyền tự do cƣ trú của công dân
Con người và những gì thuộc về con người là mục tiêu và giá trị cao đẹp mà
mọi nhà nước tiến bộ đều hướng đến. Tuy nhiên, quy luật phát triển chung của xã
hội lồi người ln ở trạng thái “động” và con người cũng vận động theo chiều
hướng phát triển đó. Cho nên, khó có thể có những ranh giới để xác định quyền
con người đã đạt đến mức độ hoàn hảo. Vì thế, các nghiên cứu về quyền con người
cũng đã có những tranh cải khác nhau xoay quanh vấn đề này dù cách tiếp cận khi
nghiên cứu khá phong phú dưới các góc độ như triết học, chính trị học, luật học, sử
học…
Ở nước ta nhận thức được quyền con người có vai trị, ý nghĩa quan trọng đối
với công cuộc cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt con người vào vị trí trung
tâm của sự phát triển. Trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người được coi là mục tiêu của quá trình cải cách tư
pháp, cải cách bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị1. Các quy chế pháp lý quy
định về các quyền của công dân là cách thức biểu hiện của quyền con người được
bảo vệ. Do vậy, quyền công dân đã được Nhà nước ta trân trọng ghi nhận vào
trong Hiến pháp, sự ghi nhận này là cơ sở để nhà nước có những cơ chế, cách thức
và điều kiện đảm bảo quyền cơng dân ngày càng được hồn thiện và thực thi trên

thực tế, thể hiện được bản chất tiến bộ, dân chủ và bình đẳng của nhà nước. Ngày
nay, cùng với sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhu cầu đi lại, cư trú của cá nhân từ vùng này
sang vùng khác ngày càng tăng lên. Mặt khác, hội nhập quốc tế và sự di chuyển
1

Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 127, 192.
5


nguồn lực lao động hàng hóa vượt ra ngồi biên giới là một xu hướng phát triển
khách quan. Quyền tự do cư trú một trong những biểu hiện của quyền công dân đã
được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận cũng cần được nhà nước quan tâm và có
những biện pháp đảm bảo mạnh mẽ hơn vì những giá trị của nó khơng chỉ liên
quan đến mỗi cá nhân mà cịn vì chính sách dân chủ của nhà nước.Vì vậy, việc
đảm bảo quyền tự do cư trú của công dân là hết sức cần thiết việc làm rõ hơn về
khái niệm, mối quan hệ giữa quyền tự do cư trú của công dân với một số quyền
hiến định khác cho chúng ta cái nhìn rõ hơn về quyền này2.
1.1.1. Khái niệm quyền tự do cƣ trú của công dân
Phần lớn, khi phân tích bất cứ khái niệm nào liên quan đến quyền con người,
quyền cơng dân thường thì các tác giả phân tích khái niệm quyền rồi sau đó mới
phân tích khái niệm chun ngành để từ đó có một cách hiểu đúng nhất về khái
niệm mình quan tâm. Quyền tự do cư trú của công dân bao gồm các khái niệm:
quyền, quyền công dân, tự do và cư trú. Sau đây, tác giả sẽ lần lượt đi vào tìm hiểu
từng khái niệm cụ thể để có cách hiểu rõ nhất về quyền tự do cư trú của công dân.
 “Quyền”
Quyền là một khái niệm khá quen thuộc vì nó gắn với mỗi đối tượng cụ thể mà
mỗi nhà nước khác nhau quy định cho đối tượng đó được hưởng các quyền khác
nhau, tìm hiểu về khái niệm quyền đã có một số định nghĩa như sau:
- Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt “quyền” là: “1) Điều mà pháp luật

hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi; 2) Những điều
do chức vụ hay địa vị được làm”.
- Theo định nghĩa của từ điển Bách khoa tồn thư mở thì “quyền” là khả năng
thực hiện ý chí của mình được pháp luật và xã hội chấp nhận.
- Theo định nghĩa của từ điển Luật học thì quyền là những việc mà một người
được làm mà không bị ai ngăn cản hay hạn chế.
- Trong khoa học pháp lý, khi nghiên cứu nội dung của quan hệ pháp luật, một
số học giả cho rằng: Quyền chủ thể trong mối quan hệ pháp luật là: 1) khả năng
2

Xem thêm: Hà Thị Mai Hiên, Quyền con người về dân sự ở Việt Nam, Quyền con người tiếp cận đa ngành và
liên ngành luật học - GS.TS Võ Khánh Vinh (Chủ biên), tập II, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010, tr. 91.
6


xử xự của người tham gia quan hệ, được quy phạm pháp luật quy định trước và
bảo vệ bởi sự cưỡng chế của nhà nước; 2) là khả năng chủ thể xử xự theo cách
thức nhất định được pháp luật cho phép; 3) là khả năng của chủ thể quan hệ pháp
luật được thực hiện những hành vi nhất định mà pháp luật cho phép. Quyền của
chủ thể quan hệ mới là khả năng xử sự chứ chưa phải là xử sự cụ thể. Chủ thể
quan hệ pháp luật có chuyển khả năng đó thành xử sự cụ thể hay khơng thì tùy
thuộc vào bản thân, pháp luật khơng bắt buộc.
Tóm lại, với các định nghĩa khác nhau về “quyền” gợi mở cho chúng ta một
cái nhìn khái quát hơn về khái niệm này, theo tác giả “quyền” là khả năng mà
pháp luật cho phép mỗi đối tượng cụ thể được hưởng, đối tượng đó có quyền tự
do thực hiện hành vi, cách xử xự theo ý muốn của mình nhưng theo những giới
hạn, cách thức mà pháp luật đã trao cho họ.
 “Quyền công dân”
Đặt ra khái niệm quyền cơng dân có ý nghĩa rất quan trọng: thể hiện bản chất
dân chủ của nhà nước, cơng dân đó được hưởng tất cả các quyền và lợi ích chính

đáng của mình, nhà nước sẽ đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mỗi
cơng dân khi quyền này bị xâm hại.
Như vậy, khái niệm quyền công dân thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và
công dân, xác định về mặt pháp lý của một thể nhân thuộc về một nhà nước nhất
định. Nhà nước đó trao cho cơng dân những quyền và lợi ích gì, điều đó được ghi
nhận và đảm bảo bằng các quy định pháp luật cụ thể và Nhà nước ta đã dành một
chương trong Hiến pháp trân trọng ghi nhận chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân. Các quyền được liệt kê trong Hiến pháp phản ánh những lợi ích cơ
bản mà cơng dân đó được hưởng, họ có quyền hưởng thụ tất cả các quyền mà nhà
nước đã ghi nhận và trao cho mình.
 “Tự do”
Từ xưa đến nay, tự do là một khái niệm bí ẩn và trừu tượng đối với mỗi con
người, nó khơng bao giờ chịu khn mình vào một chiếc khung nào và như thế tìm
hiểu về khái niệm tự do cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau.
7


Hiến pháp năm 1791 của Cộng hòa Pháp định nghĩa: “Tự do là có thể làm mọi
cái khơng có hại cho người khác. Cho nên, việc thực hiện các quyền tự nhiên của
mỗi người chỉ có giới hạn là việc bảo đảm cho những thành viên khác của xã hội
cũng được hưởng chính những quyền ấy” (điều 4).
Trên tinh thần đó, Montesquieu cũng đã định nghĩa về tự do như sau: “Tự do là
được làm tất cả những điều mà pháp luật cho phép. Nếu một công dân làm những
điều trái pháp luật thì anh ta khơng cịn được tự do nữa”3.
Từ điển Luật học khơng có định nghĩa riêng về khái niệm tự do, tuy nhiên có
định nghĩa về tự do cá nhân như sau: “các quyền và nghĩa vụ của công dân theo
quy định của pháp luật, được thể hiện ý chí, nguyện vọng, làm theo ý muốn của
mình trên cơ sở khơng làm ảnh hưởng tới quyền lợi của những người khác của
cộng đồng”4.
Ở góc độ chung nhất có thể hiểu, tự do là tình trạng một cá nhân có thể và có

khả năng hành động theo ý chí, nguyện vọng của mình phù hợp với các quy phạm
đạo đức trong một xã hội dân chủ mà không bị cản trở bởi bất kỳ chủ thể hay yếu
tố nào. Tự do được phân thành tự do chủ động và tự do bị động. Tự do chủ động là
tự do của cá nhân nhằm đạt được mục tiêu nào đó (Ví dụ: tự do ngơn luận, tự do
báo chí, tự do hội họp…). Tự do thụ động là tự do của cá nhân khỏi bị các chủ thể
khác xâm hại đến (Ví dụ: tự do thân thể…)5. Hiểu theo cách hiểu trên thì tự do có
mối liên hệ với quyền mỗi con người mang tính chất của một sự lựa chọn hay một
quyền con người.
Như thế, với các cách hiểu khác nhau về tự do cho ta một cách nhìn khái quát
nhất, tự do là giá trị quý báu và thiêng liêng mà con người dù ở bất kỳ thời đại nào
đều hướng đến; là khả năng mỗi người được tự do biểu đạt ý chí, nguyện vọng của
mình, được hành động theo nhu cầu, sở thích nhưng trong một giới hạn và khuôn
khổ pháp luật, đảm bảo hài hịa lợi ích của mình với lợi ích của nhà nước và xã hội.
 “Cư trú”
3

Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Nxb. Đà Nẵng, 2010, tr. 102.
Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 1999, tr.552.
5
Trung tâm nghiên cứu quyền con người quyền công dân (Khoa Luật Đại học Quốc gia), Hỏi đáp về quyền
con người, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2011, tr. 51-52.
4

8


- Theo từ điển Tiếng Việt: “Cư trú là ở thường ngày tại một nơi nào đó”6. Từ
điển Tiếng Việt chỉ mới dừng lại ở cách định nghĩa cư trú là giải thích từ ngữ, định
nghĩa cịn ở mức độ chung chung và khái niệm “nơi nào đó” cịn mơ hồ, chưa xác
định.

- Theo Luật Cư trú năm 2006: “Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa
điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú” (điều 1).
Khái niệm về cư trú này tuy ngắn gọn nhưng rất cụ thể và rõ ràng trong khái niệm
đã xác định được nơi cư trú: địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn và loại hình cư trú
là thường trú hoặc tạm trú. Khái niệm này có ý nghĩa giúp phân biệt được với
những trường hợp công dân không thường xuyên sinh sống tại một địa điểm thuộc
xã, phường, thị trấn ngồi nơi cư trú của mình (được gọi là lưu trú), từ đó có những
quy định chế độ quản lý đối với từng đối tượng cho phù hợp.
 “Quyền tự do cư trú của công dân”
Khái niệm quyền tự do cư trú có một số cách hiểu như sau:
- Theo từ điển Luật học: Quyền tự do cư trú được thể hiện ở chỗ công dân có
quyền được lựa chọn nơi ở, làm việc, an dưỡng tuổi già trong phạm vi lãnh thổ của
Tổ quốc…được nhà nước dễ dàng thực thi và đảm bảo thực thi quyền đó trừ những
vùng, những nơi, những nước có sự hạn chế của pháp luật như khu vực biên giới,
khu vực quân sự, khu an ninh hoặc nước đang quan hệ thù địch, nơi đang có bệnh
dịch truyền nhiễm…7
- Theo Hiến pháp năm 1992: “Cơng dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở
trong nước… theo quy định của pháp luật” (điều 68).
- Theo Luật Cư trú: “Công dân có quyền tự do cư trú theo luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan. Cơng dân có đủ điều kiện đăng ký thường
trú, tạm trú, thì có quyền u cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thường
trú, đăng ký tạm trú. Quyền tự do cư trú của công dân chỉ bị hạn chế theo quyết

6

Chu Bích Thu - Nguyễn Ngọc Trâm - Nguyễn Thị Thanh Nga - Nguyễn Thúy Khanh - Phạm Hùng Việt, Từ
điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 2002.
7
Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 1999, tr. 417.
9



định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình tự thủ tục do pháp luật
quy định”.
Với các cách hiểu khác nhau về quyền tự do cư trú của công dân, tác giả đi đến
kết luận như sau: quyền tự do cƣ trú của công dân là quyền được tự do lựa chọn,
quyết định nơi cư trú ở bất kỳ đâu trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trừ những
trường hợp pháp luật quy định hạn chế cư trú (điều 10 Luật Cư trú năm 2006) và
những nơi pháp luật cấm cư trú như khu vực biên giới, quốc phịng, an ninh quốc
gia… thì cơng dân khơng được phép cư trú. Cùng đó, trong trường hợp cơng dân
đủ điều kiện đăng ký thường trú hoặc tạm trú thì mỗi người đều có quyền yêu cầu
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thường trú, tạm trú cho mình.

 Ý nghĩa của việc ghi nhận quyền tự do cư trú của cơng dân
Một là, ghi nhận và có biện pháp đảm bảo quyền tự do cư trú của cơng dân là
bước tiến quan trọng trong tiến trình bảo vệ quyền con người, quyền công dân thể
hiện bản chất xã hội tốt đẹp, quyền làm chủ của nhân dân phát huy hơn nữa vai trò
của nhà nước dân chủ, tiến bộ. Ghi nhận quyền này còn là điều kiện để mở rộng
giao lưu giữa các vùng miền kết nối các nền văn hóa, tạo tính hịa đồng đồn kết
giữa các dân tộc. Người dân ở miền quê hẻo lánh có cơ hội đến những nơi có điều
kiện đảm bảo thu nhập cho cuộc sống, cải thiện dân trí, đảm bảo cho nhà nước có
thêm nguồn nhân lực cho cơng cuộc phát triển đất nước. Đặc biệt, phù hợp với xu
hướng phát triển chung của thế giới: quá trình hội nhập giao lưu văn hóa giữa các
quốc gia, cơng dân có quyền được tiếp cận những giá trị văn hóa mới mẻ, trình độ
khoa học hiện đại; đồng thời là sự đón nhận hân hoan với những người Việt Nam
định cư ở nước ngoài tha thiết mong muốn trở về nước định cư lâu dài.
Hai là, ghi nhận quyền tự do cư trú của công dân để đảm bảo hài hịa quyền và
lợi ích của cơng dân với nhà nước và xã hội. Vì đây là quyền thuộc về mỗi cá nhân
riêng lẽ nên khi thực hiện quyền công dân phải đặt lợi ích của mình cùng chung
với lợi ích của tập thể, cộng đồng và một khi quyền này vượt quá giới hạn cho

phép thì mỗi người phải chịu những chế tài do pháp luật quy định. Sự ghi nhận này
tạo ra một sức mạnh cưỡng chế buộc công dân thực hiện quyền trong giới hạn pháp
10


luật và là cơ sở đảm bảo công dân thực hiện đầy đủ nghĩa vụ khi thực hiện quyền
tự do cư trú của mình.
Ba là, ghi nhận quyền tự do cư trú của công dân trong Hiến pháp và luật tạo cơ
sở pháp lý vững chắc, nâng cao hiệu quả ban hành các văn bản pháp luật của các
cơ quan có thẩm quyền theo tính thống nhất, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán
bộ thực hiện quyền hạn của mình theo đúng tinh thần pháp luật.
Bốn là, quyền tự do cư trú của công dân phản ánh hiện thực xã hội.
Hiện thực xã hội bao gồm thế giới khách quan tồn tại xung quanh con người
luôn vận động và biến đổi không ngừng bao gồm các yếu tố về điều kiện kinh tế,
văn hóa, xã hội… Con người cũng khơng nằm ngồi quy luật đó ln có xu hướng
tồn tại và phát triển ở những nơi có điều kiện sống tốt, điều này tạo ra một sự
chuyển động xã hội làm thay đổi các nhóm ngành kinh tế, cơ cấu dân số, sự phân
bổ dân cư ở các thành phố lớn, ảnh hưởng rất lớn đến môi trường, giao thông, y tế,
giáo dục… làm mất cân đối trật tự xã hội, trật tự quản lý nhà nước. Bên cạnh đó là
sự mất cân bằng về sự phát triển giữa các vùng miền tạo ra khoảng cách và sự phân
biệt giàu nghèo rõ rệt. Quyền tự do cư trú phản ánh hiện thực xã hội ở một mức độ
nhất định, mang trong mình đặc điểm xã hội nơi cơng dân đó tồn tại. Ghi nhận
quyền này nhà nước có những chính sách, biện pháp hoạch định phát triển kinh tế
cho phù hợp với đặc thù của từng vùng miền và quyền tự do cư trú của cơng dân vì
thế mà cũng được đảm bảo hơn.
Năm là, việc ghi nhận quyền tự do cư trú của cơng dân có ý nghĩa quan trọng
tác động không nhỏ đến các lĩnh vực pháp luật khác nhau.
- Trong mối quan hệ với lĩnh vực hành chính hộ tịch
Xác định nơi cư trú rõ ràng giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dễ dàng
trong việc quản lý nhân khẩu, xác định nhân thân của cá nhân, nơi tống đạt các

giấy tờ cần thiết… Chẳng hạn, liên quan đến vấn đề đăng ký khai sinh cho trẻ thì
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi tắt là UBND xã), nơi cư trú của người
mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ em; nếu không xác định được nơi cư
trú của người mẹ thì UBND xã nơi cư trú của người cha thực hiện việc đăng ký
khai sinh (điều 13 Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch). Như
11


vậy, xác định nơi cư trú của người cha hoặc người mẹ rõ ràng đảm bảo cho trẻ có
thể đăng ký khai sinh thuận tiện, đảm bảo cho công tác quản lý nhân khẩu của cơ
quan nhà nước dễ dàng hơn.
- Trong mối quan hệ với Luật Tố tụng hình sự
Xác định nơi cư trú là cơ sở xác định nhân thân của bị can; thực hiện quá trình
điều tra, bắt giữ, triệu tập người làm chứng; thực hiện các chế tài pháp lý hình sự,
hình phạt, giáo dục quản lý người phạm tội theo quy định pháp luật. Điều 91
BLTTHS quy định về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú: “1) Cấm đi khỏi nơi cư trú
là biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ
ràng, nhằm đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra,
Viện Kiểm Sát, Tòa Án. 2)… Bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan khơng đi khỏi
nơi cư trú của mình, phải có mặt đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập.
3) Bị can, bị cáo vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác”. Áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đã giới hạn quyền cư trú
của bị can, bị cáo tại nơi cư trú của họ, hạn chế đi quyền tự do đi lại, tự do cư trú
của công dân. Quy định này vơ hình chung đã gây ra một số vướng mắc nhất định
trong quá trình áp dụng pháp luật. Điều này đặc biệt khó khăn đối với những người
có đặc thù nghề nghiệp phải thường xuyên di chuyển như những người lái xe
đường dài hay buôn chuyển đường dài… Thế nhưng, BLTTHS lại khơng có điều
luật nào quy định về thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú8. Tuy nhiên, quy định này đảm
bảo cuộc sống yên bình chung cho tồn xã hội vì có một số đối tượng chưa đến
mức phải áp dụng tù giam nhưng mà cần thiết phải có biện pháp quản chế là cấm

đi khỏi nơi cư trú.
Như thế, xác định được nơi cư trú của bị can, bị cáo có ý nghĩa rất quan trọng
giúp cơ quan nhà nước giám sát bị can, bị cáo dễ dàng hơn đảm bảo cho hoạt động
cơ quan có thẩm quyền tiến hành nhanh chóng và thuận lợi khi có thể triệu tập bị
can, bị cáo bất cứ lúc nào. Đặc biệt, khi có cơ sở họ vi phạm thì kịp thời áp dụng
những biện pháp ngăn chặn khác cho phù hợp.
8

Trần Văn Dũng, Bàn về hiệu lực của biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 5 (182), 2007.
12


- Trong mối quan hệ với thi hành án hình sự
Xác định được nơi cư trú của người phải thi hành án giúp q trình thi hành án
diễn ra sn sẻ, thuận lợi, nhanh chóng khắc phục tình trạng án tồn động do không
xác định được nơi cư trú của người phải thi hành án. Do hoàn cảnh, nhu cầu hoặc
một vài lý do nào đó mà một người có thể sinh sống và làm việc ở nhiều nơi khác
nhau dẫn đến việc họ đăng ký thường trú ở một nơi nhưng làm ăn, sinh sống
thường xuyên ở một nơi khác. Cơng tác thi hành án hình sự đối với những người
phạm tội này là rất khó khăn. Ghi nhận quyền tự do cư trú giúp cơ quan thi hành án
có thể theo dõi, xác minh nơi cư trú của công dân thông qua nơi đăng ký hộ khẩu,
nơi tạm trú… từ đó nâng cao khả năng thi hành án trên thực tế.
Mặt khác, xác định nơi cư trú của bị can, bị cáo có thể ảnh hưởng trực tiếp tới
việc lượng hình đối với bị can, bị cáo đó. Họ có thể được hưởng tình tiết tăng nặng
hoặc giảm nhẹ tội trạng hay khơng. Trong q trình điều tra khi không xác định
được nơi cư trú của bị can rõ ràng do bị can khai báo không trung thực về nơi mình
thực sự đang cư trú dẫn đến cơ quan điều tra phải trực tiếp xác minh hoặc ủy thác
cho cơ quan điều tra ở nhiều địa phương mà bị can khai là y đang cư trú, gây tốn
kém cơng sức, kinh phí cho q trình xác minh. Cho nên, xác minh được nơi bị

can, bị cáo cư trú giúp quá trình giải quyết vụ việc của cơ quan nhà nước thuận lợi,
mong mỏi sự khoan hồng từ phía nhà nước khi bị can, bị cáo thật sự sinh sống tốt ở
địa phương đó.
Ngồi ra, khi Luật Cư trú năm 2006 chưa được ban hành thì việc xác minh nơi
cư trú của bị can là hồn tồn khó khăn vì các quy định về quản lý cư trú của cơng
dân cịn đang bỏ ngỏ. Nên có trường hợp đối tượng phạm tội thường trú, sinh sống,
làm việc và phạm tội ở những nơi khác nhau sau đó lẫn trốn đến nơi khác trong khi
chưa có quy định về vệc quản lý xác minh nơi ở cũ của người mới chuyển đến.
Luật Cư trú năm 2006 ra đời quy định những trường hợp phải xóa nơi đăng ký
thường trú cũ khi đã đăng ký thường trú ở nơi ở mới. Cơ quan đã làm thủ tục đăng
ký cho công dân ở nơi cư trú mới có trách nhiệm thơng báo ngay cho cơ quan đã
cấp giấy chuyển hộ khẩu để xóa đăng ký thường trú nơi cư trú cũ. Quy định này
khắc phục được những khó khăn mà cơ quan đang thi hành án phải gánh chịu do
13


không thể xác minh được đối tượng thi hành án thật sự có địa chỉ tại địa phương
nào. Vì cơ quan điều tra ở tỉnh khác không thể ủy thác, xác minh bị can ngồi địa
bàn mình quản lý nên đã chuyển sang cho Viện Kiểm Sát truy tố. Viện Kiểm Sát
truy tố theo địa chỉ mà cơ quan Công an cung cấp và khi xét hỏi Tịa án cũng
khơng thể cử người đi điều tra xác minh lại căn cước của bị cáo. Dẫn đến, khi bản
án chuyển sang cho cơ quan thi hành án thi hành lại không có hướng giải quyết vì
bị can vắng mặt tại nơi cư trú. Mặt khác, lại có trường hợp người phải thi hành án
sống ở gầm cầu, vỉa hè... trước khi phạm tội bản thân họ khơng có nhà, khơng có
nơi cư trú, khơng có tài sản nên cơ quan tố tụng không biết đối tượng này thuộc
nơi cư trú nào để tạo điều kiện thi hành án sau này9. Do vậy, về phần lý lịch nhân
thân của người phải thi hành án, cơ quan thi hành án nơi họ chuyển đi và nơi họ
chuyển đến đều không biết. Người phải thi hành án lợi dụng quy định này của pháp
luật để trốn tránh nghĩa vụ của mình.
1.1.2. Mối quan hệ giữa quyền tự do cƣ trú với một số quyền cơ bản khác của

công dân
Các quyền cơ bản của công dân là những quyền thiêng liêng và cao quý được
Nhà nước ta ghi nhận trong Hiến pháp, xuất phát từ các quan điểm về quyền con
người đã được các nước trên thế giới thừa nhận “mọi người sinh ra đều bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyền
đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn
độc lập năm 1776 của nước Mỹ). Cho nên, việc ghi nhận các quyền cơ bản của
công dân vào Hiến pháp là cơ sở để xác định địa vị pháp lý và quy định các quyền
khác của công dân. Các quyền cơ bản của công dân là một khả năng mà pháp luật
đã trao cho họ được hưởng gì, làm gì từ phía nhà nước và xã hội phù hợp với pháp
luật nhu cầu và lợi ích chính đáng của bản thân. Dựa theo cách phân loại về các
quyền của một số học giả thì quyền cơng dân bao gồm các quyền về dân sự (quyền
tự do cá nhân), quyền chính trị, quyền về kinh tế - văn hóa - xã hội. Các quyền này
có sự ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau “chúng vừa là tiền đề, điều kiện cho
9

Xem thêm: Trần Đại Sỹ, Thi hành án đối với người phải thi hành án vắng mặt tại nơi cư trú, Tạp chí Dân chủ
và pháp luật, số 5 (206), 2009.
14


nhau cùng tồn tại và phát triển, vừa là kết quả hiện thực hóa của nhau. Mức độ
hiện thực của nhóm quyền hiến định này là tiền đề, điều kiện bảo đảm hiệu quả
thực hiện các nhóm quyền hiến định khác”10. Quyền tự do cư trú nằm trong nhóm
quyền về tự do cá nhân nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với các quyền công dân
khác. Đảm bảo quyền tự do cư trú của công dân là cơ sở để đảm bảo các quyền
khác được thực hiện và một khi các quyền khác được đảm bảo thực hiện thì quyền
tự do cư trú cũng sẽ được tôn trọng và thực hiện có hiệu quả. Quyền tự do cư trú có
mối liên hệ rất chặt chẽ với các quyền công dân khác. Tuy nhiên, trong đề tài này
tác giả chỉ tập trung phân tích mối liên hệ giữa quyền tự do cư trú của công dân với

một số quyền như quyền bầu cử, quyền học tập, quyền lao động vì những tác động
giữa chúng đã làm thay đổi việc thụ hưởng quyền của công dân ở một mức độ nhất
định điều này sẽ được tác giả đề cập ở chương 2.
1.1.2.1. Quyền tự do cƣ trú - Quyền bầu cử
Quyền bầu cử là một quyền hiến định về chính trị của công dân, là khả năng
của công dân được thực hiện quyền lựa chọn người đại diện cho mình vào cơ quan
quyền lực nhà nước theo quy định của pháp luật bao gồm quyền bỏ phiếu và quyền
đề cử.
Quyền này được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế tại điểm b điều 25
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, tại điều 54 Hiến
pháp năm 1992 đã thể chế hóa quy định này như sau: “Công dân, không phân biệt
dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hóa, nghề
nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử…”. Liên
quan đến vấn đề bầu cử pháp luật đã trao cho cử tri sự chủ động trong việc giới
thiệu người mình tín nhiệm và bỏ phiếu cho người đó vào cơ quan nhà nước.
Người dân có quyền chọn lựa người đại diện cho mình trong số những người mà
mình tín nhiệm, xứng đáng, đủ đức, đủ tài… để chuyển hóa kịp thời các suy nghĩ
và mong muốn của mình vào các chính sách, hành động cụ thể. Khi chọn lựa được
người đại diện phù hợp cơng dân có quyền thể hiện những mong muốn của mình
10

Nguyễn Văn Động, Các quyền hiến định về chính trị của cơng dân Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006,
tr. 37-38.
15


liên quan tới các vấn đề mà công dân đang gặp khó khăn, các vấn đề liên quan đến
nơi cư trú như nhà ở, nguồn nước, môi trường… ; công tác thực hiện các thủ tục
hành chính liên quan đến quyền tự do cư trú; trách nhiệm và năng lực của đội ngũ
cán bộ thực hiện nhiệm vụ về cư trú… Khi những đòi hỏi mong muốn này được

người đại diện cho mình chuyển hóa vào thực tiễn thì quyền tự do cư trú của công
dân khi thực hiện trên thực tế dễ dàng và được đảm bảo hơn.
Mối tương quan là mối quan hệ tác động qua lại, quyền tự do cư trú đã có tác
động trở lại đến quyền bầu cử của công dân thông qua việc xác định nơi cư trú của
cơng dân. Nơi cư trú có vai trò rất quan trọng xác định quyền bầu cử dựa vào nơi
cư trú của cơng dân. Theo đó, việc công dân đã đăng ký với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về nơi cư trú của mình giúp các cơ quan này có cơ sở nắm rõ số lượng
người dân đủ điều kiện được bầu cử và số lượng cử tri để lập danh sách cử tri;
đồng thời thuận lợi cho công tác tổ chức các cuộc vận động, tuyên truyền bầu cử
đến một bộ phận công dân chưa có ý thức tốt về bầu cử. Điều này đảm bảo cho
cơng tác bầu cử có hiệu quả hơn, người dân chọn lựa đúng người đại diện của mình
phản ánh đúng mối quan tâm của họ. Bên cạnh đó, xác định được nơi cư trú góp
phần nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương nơi cơng dân cư trú thực
hiện có hiệu quả cơng tác liên quan đến bầu cử, thực hiện nhiệm vụ đúng địa giới
phân chia của công tác bầu cử cũng như đúng số lượng cử tri đi bầu. Mặt khác,
đăng ký nơi cư trú với cơ quan địa phương nơi công dân cư trú gắn trách nhiệm
của những người được nhà nước giao trọng trách quản lý những cơng dân đó, họ có
trách nhiệm lưu giữ những thông tin của công dân đảm bảo về mặt pháp lý những
quyền và lợi ích chính đáng cho công dân.
1.1.2.2. Quyền tự do cƣ trú - Quyền lao động
Theo định nghĩa của Từ điển luật học thì quyền lao động được hiểu là quyền
của người lao động được làm việc, tự do lựa chọn nghề nghiệp công việc thích
hợp, người lao động đủ 15 tuổi được tự do giao kết hợp đồng lao động với bất cứ
người sử dụng lao động nào, được nhà nước bảo vệ, không bị ngược đãi, cưỡng
bức lao động, được hưởng lương phù hợp với năng suất, chất lượng, hiệu quả,
không thấp hơn mức lương tối thiểu… Trong lao động người lao động được nhà
16


nước đảm bảo các điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh, được đảm bảo vật chất tạm

thời hay hoàn toàn mất sức lao động11.
Quyền lao động được ghi nhận tại điều 23 Tun ngơn tồn thế giới về quyền
con người năm 1948; điều 6, 7 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế - xã hội văn hóa năm 1966. Hiến pháp năm 1992 cũng đã ghi nhận quyền này tại điều 55
như sau: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế
hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động”. Theo đó, lao động là
hoạt động có ý thức của con người nhằm tạo ra những giá trị vật chất phục vụ cho
các nhu cầu của đời sống xã hội. Một khi các quyền về lao động của cơng dân
được nhà nước đảm bảo thì khi đó các điều kiện về cải thiện cuộc sống (nhu cầu về
ăn, mặc, ở, đi lại… ) của con người cũng được nâng cao hơn. Lúc ấy, mỗi người
mới có thể hướng đến việc an cư lạc nghiệp tại nơi cư trú. Cho thấy rằng, quyền
lao động được nhà nước đảm bảo thực hiện có hiệu quả thì quyền tự do cư trú của
cơng dân cũng có sơ sở được đảm bảo. Và khi công dân được nhà nước tạo điều
kiện tự do cư trú mọi nơi được thuận tiện và dễ dàng thì các cơ hội về tìm kiếm
việc làm, tạo nguồn thu nhập, thể hiện năng lực sáng tạo của mỗi người được mở
rộng và có điều kiện phát triển hơn. Trong mối quan hệ tác động qua lại này, quyền
tự do cư trú cũng tác động trở lại đến quyền lao động đảm bảo quyền tự do cư trú
là cơ sở để con người có điều kiện phát huy năng lực, thể hiện sức lao động của
mình.
1.1.2.3. Quyền tự do cƣ trú - Quyền học tập
Quyền học tập là một trong những quyền thuộc nhóm quyền về văn hóa của
mỗi cơng dân, là một quyền thiết thân gắn liền với mỗi công dân cụ thể. Học tập
không chỉ có cái chữ để đọc, để viết, để có thể tham gia những công việc đơn giản
phục vụ cuộc sống hàng ngày như ăn, mặc, ở, đi lại… học tập để con người hồn
thiện bản thân sau đó là hồn thiện xã hội, tạo nền tảng cho sự phát triển xã hội.
Qua q trình học tập mỗi người có thêm các hiểu biết khoa học, kỹ thuật, cơng
nghệ, có thêm năng lực, hành động và tư duy phục vụ cho sự phát triển của bản
thân để có thể hịa chung vào dòng chảy của xã hội. Học tập là một quyền lợi mà
11

Từ điển luật học, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 1999, tr. 405.

17


bất cứ chính quyền nào cũng đặt ra và ưu tiên hàng đầu, đã được ghi nhận rất sớm
trong các văn kiện pháp lý quốc tế tại điều 26 UDHR, điều 13 ICESCR. Quyền này
sau đó đã được nhà nước ta thể chế hóa tại điều 59 Hiến pháp năm 1992 như sau:
“Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân… ”. Như vậy, việc quy định quyền
học tập trong các văn kiện pháp lý quốc tế và sự thể chế hóa quyền này vào pháp
luật mỗi quốc gia cho thấy quyền học tập đã được cộng đồng quốc tế cũng như
pháp luật quốc gia quan tâm, tạo điều kiện để cá nhân hưởng thụ quyền tốt nhất.
Quyền tự do cư trú tác động đến quyền học tập thể hiện: một khi quyền tự do
cư trú được nhà nước đảm bảo thực hiện đầy đủ, cơng dân có quyền tự do lựa chọn
nơi cư trú phù hợp với mình tại bất cứ vùng miền nào trên đất nước. Lúc này, cơng
dân có thêm cơ hội lựa chọn nơi cư trú thật sự phù hợp và đáp ứng được nhu cầu
học tập hay các nhu cầu khác về sinh hoạt của bản thân và gia đình mình. Đặc biệt,
khi nhà nước thực hiện các biện pháp đảm bảo giúp cho quyền tự do cư trú được
tốt hơn như các đảm bảo về kinh tế như nhà ở, về các phương tiện đi lại tại nơi cư
trú… hoặc các biện pháp về chính trị như đảm bảo một mơi trường chính trị an
tồn và n bình cho cuộc sống của cơng dân tại nơi cư trú và khi những đảm bảo
đó phát huy hiệu quả công dân ổn định tại nơi cư trú khi đó cơng dân mới có sự
quan tâm, chú trọng thực hiện các quyền văn hóa khác trong đó có quyền được học
tập.
Trong mối quan hệ tác động ngược trở lại thì chỉ khi các quyền của cơng dân
về văn hóa, xã hội khác trong đó có quyền được học tập được đảm bảo thì cơng
dân mới có thể chú trọng đến việc sinh sống ổn định, an toàn và xây dựng được
cuộc sống tốt tại nơi cư trú.
1.2. Cơ sở pháp lý về quyền tự do cƣ trú cuả công dân
Quyền tự do cư trú của công dân là quyền tự nhiên thuộc về mỗi con người, ghi
nhận quyền này là cần thiết để bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng và
quyền lợi ích của mỗi công dân. Mặt khác, pháp luật ghi nhận quyền này để cụ thể

hóa các Điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập12 vì chúng
12

Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người của Liên Hiệp Quốc năm 1948 (điều 13) và Cơng ước quốc tế
về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (điều 12).
18


ta không thể áp dụng trực tiếp các văn bản pháp lý quốc tế vào việc thực hiện
quyền tự do cư trú mà cần thiết phải nội luật hóa các Cơng ước quốc tế đó. Để thực
hiện các nghĩa vụ đó, nhà nước cần xây dựng các văn bản pháp luật ghi nhận
quyền tự do cư trú của công dân.
1.2.1. Quyền tự do cƣ trú theo pháp luật của một số nƣớc trên thế giới
Nhận thức được vai trò cần thiết phải ghi nhận quyền tự do cư trú cũng như
những giá trị tốt đẹp mà mỗi công dân được hưởng do quyền tự do cư trú mang lại,
hầu hết pháp luật các nước đều ghi nhận quyền này và tùy thuộc vào quan điểm
của các nhà lập pháp về điều kiện hồn cảnh của nước mình cũng như xét các yếu
tố khác mà có những quy định cụ thể. Các quốc gia trên thế giới trang trọng ghi
nhận quyền tự do cư trú vào Hiến pháp - văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất và
quyền này được một số quốc gia ghi nhận như sau:
 Hiến pháp của Cộng hòa Indonexia năm 1945
- Hiến pháp ghi nhận hiệu lực trực tiếp của các quyền và tự do.
- Quyền tự do cư trú của công dân được quy định như sau: “Mỗi người đều có
quyền tự do thờ cúng và thực hành tơn giáo mà mình đã chọn lựa, quyền được
lựa chọn việc học tập, làm việc, quốc tịch, nơi cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia mà họ được phép rời bỏ và quyền được trở về” (điều 28E).
- Hiến pháp ghi nhận những hạn chế trong việc thực thi các quyền và tự do
của công dân: “Khi thực hiện các quyền và tự do của mình, mỗi người đều có
nghĩa vụ chấp nhận những hạn chế do luật định với mục đích duy nhất là để đảm
bảo việc công nhận và tôn trọng quyền và tự do của người khác và để đáp ứng

những yêu cầu hợp lý của xã hội dân chủ trên cơ sở có tính đến giá trị đạo đức,
tơn giáo, an ninh và trật tự công cộng” (khoản 2 điều 28J).
 Hiến pháp của Cộng hòa Singapore năm 1963
- Hiến pháp xác định một số giới hạn luật định về quyền tự do cá nhân:
“Khơng ai bị tước đoạt tính mạng hoặc sự tự do cá nhân trừ trường hợp theo luật
định” (điều 9).
- Quyền tự do cư trú của công dân được quy định như sau: “Theo bất kỳ đạo
luật nào liên quan đến an ninh của Singapore hoặc bất kỳ khu vực nào của
19


Singapore, liên quan đến trật tự công cộng, sức khỏe cộng đồng hay việc trừng trị
kẻ phạm tội, mỗi công dân Singapore đều có quyền tự do đi lại trong Singapore và
cư trú tại bất kỳ nơi nào của Singapore” (khoản 2 điều 13).
 Hiến pháp của Cộng hòa Liên bang Nga năm 1993
- Hiến pháp khẳng định hiệu lực trực tiếp của các quyền và tự do hiến định
như sau: “Quyền và tự do của con người và công dân có hiệu lực trực tiếp. Các
quyền và tự do xác định ý nghĩa, nội dung và việc áp dụng các đạo luật, hoạt động
của lập pháp và hành pháp, chính quyền tự quản địa phương và được đảm bảo bởi
Tòa án” (điều 18).
- Quyền tự do cư trú của công dân được Hiến pháp quy định như sau: “Bất cứ
ai sống hợp pháp trên lãnh thổ Liên bang Nga thì đều có quyền tự do đi lại
(ngun văn di chuyển), tự do lựa chọn nơi tạm trú hoặc nơi ở” (khoản 1 điều 27).
Cụm từ “bất cứ ai” theo quy định trên cho thấy khái niệm về đối tượng được quyền
cư trú trên lãnh thổ của Liên bang Nga không giới hạn. Quyền này dành cho tất cả
các đối tượng: người nước ngồi, người khơng quốc tịch, cơng dân Nga, bất kỳ chủ
thể nào sinh sống hợp pháp trên lãnh thổ của Nga đều được hưởng.
- Hiến pháp ghi nhận những hạn chế hiến định về các quyền và tự do công
dân: “Các quyền và tự do của con người và cơng dân có thể bị giới hạn bởi pháp
luật liên bang chỉ trong mức độ cần thiết đủ để bảo vệ nền tảng chế độ hiến pháp,

đạo đức, sức khỏe, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, bảo đảm quốc
phòng và an ninh quốc gia” (khoản 3 điều 55).
Ngoài ra, Hiến pháp Liên bang Nga phân biệt nơi tạm trú với nơi cư trú (hay
nơi ở). Nơi tạm trú có thể là khách sạn, nhà nghỉ dưỡng, bệnh viện, cơ sở du lịch,
vv… hoặc là nhà nhưng không phải là nơi cư trú mà là nơi tạm trú của công dân.
Chỗ ở (hay nơi cư trú) là nhà ở, căn hộ, nơi ở công vụ, nhà trẻ mồ côi, nhà dưỡng
lão… nơi mà công dân là chủ nhà hoặc người thuê sống thường xuyên hoặc chủ

20


×