Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 81 trang )

1

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
….……000………
………

SINH VIÊN: TRẦN LINH HN
MSSV: 1055010107

TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2010 – 2014

Giáo viên hƣớng dẫn:
TS. NGUYỄN THỊ THƢƠNG HUYỀN

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014


2

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến cô TS.
Nguyễn Thị Thương Huyền – giảng viên Khoa Luật hành chính
Nhà nước trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, người
đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo để em có thể hồn thành tốt đề
tài nghiên cứu của mình. Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến các Thầy, Cô, đặc biệt là các Thầy, Cơ khoa Luật
Hành chính - Nhà nước đã dạy dỗ, truyền đạt cho em vô vàng tri


thức quan trọng trong bốn năm ngồi trên ghế nhà trường để em
có được những hành trang tốt nhất để hồn thành đề tài khóa
luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 7 năm 2014

Trần Linh Huân


3

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ...................................................................... 4
1.1. Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính .............................................................. 4
1.1.1. Khái niệm vụ án hành chính ................................................................................ 4
1.1.2. Đặc điểm vụ án hành chính.................................................................................. 6
1.2. Khái niệm, đặc điểm tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ...................... 9
1.2.1 Khái niệm tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ........................................... 9
1.2.2. Đặc điểm tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính.......................................... 10
1.3. Ý nghĩa tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính .......................................... 13
1.3.1. Đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức ..................................................................... 13
1.3.2. Đối với Tòa án ................................................................................................... 13
1.3.3. Đối với hoạt động tố tụng .................................................................................. 14
1.3.4. Đối với hoạt động quản lý nhà nước.................................................................. 15
1.4. Quy định của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính .......... 16
1.4.1. Quy định chung về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính .................... 16
1.4.1.1. Về căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ...................................... 16

1.4.1.2. Về thẩm quyền tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính .............................. 26
1.4.1.3. Về hậu quả pháp lý tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ....................... 27
1.4.2. Quy định riêng về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính trong các giai
đoạn tố tụng hành chính ............................................................................................ 29
1.4.2.1. Tạm đình chỉ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm .................................. 29
1.4.2.2. Tạm đình chỉ trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ................................................. 30
1.4.2.3. Tạm đình chỉ trong giai đoạn xét xử phúc thẩm ............................................. 32


4

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH
CHÍNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN............................................... 36
2.1. Thực trạng hoạt động tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính .................. 36
2.2. Những hạn chế trong hoạt động tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính . 42
2.2.1. Hạn chế về mặt pháp lý ...................................................................................... 42
2.2.2. Hạn chế về mặt thực tiễn .................................................................................... 51
2.3. Một số giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện về hoạt động tạm đình chỉ giải
quyết vụ án hành chính ............................................................................................. 55
2.3.1. Về mặt pháp lý .................................................................................................... 56
2.3.2. Về mặt thực tiễn ................................................................................................. 52
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


5

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Stt
1


Từ viết tắt
BLDS

Nội dung từ viết tắt
Bộ luật Dân sự của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6
năm 2005.

2

BLTTDS

3

Luật TTHC

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm
2011.
Luật tố tụng hành chính được Quốc hội thơng qua ngày
24/11/2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011.

4

Nghị quyết
01/2012/NQHĐTP

Nghị quyết 01/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật về án
phí, lệ phí Tịa án.


5

Nghị quyết
01/2012/NQ-

Nghị quyết 01/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật về án

HĐTP

phí, lệ phí Tịa án.

Nghị quyết
02/2011/NQ-

Nghị quyết số 02/2011/NQ–HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi

HĐTP

hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính.

7

Nghị quyết
04/2006/NQHĐTP

Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP ngày 4/8/2006 của Hội
đồng thẩm phán hướng dẫn thi hành một số quy định của

Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án hành chính.

8

Pháp lệnh
TTGQVAHC

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính số
29/2006/PL-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
sửa đổi bổ sung năm 1998 và năm 2006.

9

TAND

Tòa án nhân dân.

10

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao.

11

TTHC

Tố tụng hành chính.

12


UBND

Ủy ban nhân dân.

13

VAHC

Vụ án hành chính.

14

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân.

15

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

6


6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Xã hội tiến bộ, đất nước phát triển, nhu cầu về pháp luật ngày càng cao, nhất là
trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước điều này đã tạo ra nhiều thách thức cho
công tác quản lý xã hội. Mặc dù với sự ra đời của Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án
hành chính năm 1996 sửa đổi bổ sung năm 1998 và năm 2006 (Pháp lệnh
TTGQVAHC) đã góp phần quan trọng trong việc hổ trợ phục vụ cho công tác xét của
Tịa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã
hội nhưng qua quá trình áp dụng, Pháp lệnh vẫn cịn nhiều điểm chưa phù hợp, bất cập
và khơng đáp ứng được tình hình thực tế và nhu cầu phát triển của xã hội. Xuất phát từ
đó vào ngày 24/11/2010 Quốc hội đã thơng qua Luật tố tụng hành chính (Luật TTHC)
và Luật đã có hiệu lực thi hành vào ngày 01/7/2011, đây là một bước tiến bộ của nền
hành chính Việt Nam khi lần đầu tiên, Luật TTHC sau bao năm chờ đợi cuối cùng
cũng đã ra đời, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước và sự địi hỏi cấp thiết của nền
Hành chính - Tư pháp, đáp ứng mong mỏi của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong toàn
xã hội. Với sự ra đời và đổi mới của Luật TTHC nói chung và quy định về tạm đình chỉ
giải quyết vụ án hành chính nói riêng đã có vai trị rất lớn trong việc hổ trợ các cá
nhân, cơ quan, tổ chức tiếp cận và nắm bắt được các quy định của pháp luật về hoạt
động tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính để từ đó tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chính mình một cách chính đáng khi tham gia tố tụng, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc giải quyết các khiếu kiện hành chính ngày càng hiệu quả, góp phần xây dựng
Nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Khi một tranh chấp hành chính phát sinh, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm hại, một trong các bên tiến hành khởi kiện vụ án hành
chính và được Tịa án thụ lý giải quyết, việc Toà án tiến hành thụ lý và giải quyết vụ án
hành chính là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của đương sự. Nhưng, trong
q trình giải quyết vụ án hành chính có thể xuất hiện những lý do làm cho Tồ án
không thể tiếp tục tiến hành hoạt động tố tụng vì nếu tiếp tục tiến hành trong các
trường hợp này sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật, quyền tham gia tố tụng của các đương sự
không được đảm bảo, kết quả giải quyết vụ án khơng được chính xác nên Tồ án phải
ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết giải quyết vụ án hành chính. Tuy nhiên, việc ra
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính khơng đúng có thể làm cho thời

gian giải quyết vụ án bị kéo dài, dẫn đến thiệt hại cho đương sự. Bên cạnh đó các quy
định của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính nếu không được quy


7

định một cách hợp lý, chặt chẽ, logic thì sẽ tác động xấu đến hiệu quả của việc giải
quyết vụ án, gây bất ổn xã hội. Do vậy, việc nghiên cứu một cách tồn diện về hoạt
động tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính là vấn đề rất cấp thiết. Việc nghiên cứu
đề tài này không chỉ làm sáng tỏ bản chất pháp lý của chế định tạm đình chỉ giải quyết
vụ án hành chính; mà cịn góp phần làm rõ những hạn chế trong quy định pháp luật và
bất cập trên thực tiễn về hoạt động tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính để từ đó
đưa ra các kiến nghị giải pháp nhằm khắc phục, hồn thiện hệ thống pháp luật và cân
bằng xã hơi. Với lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án
hành chính” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án là một hoạt động tố tụng quan trọng trong q
trình giải quyết vụ án hành chính, góp phần rất quan trọng vào việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân nhưng hiện nay rất ít cơng trình nghiên cứu về đề tài này.
Các hội thảo và báo cáo tổng kết của TAND cũng chưa có các số liệu thống kê, đánh
giá chính thức đối với hoạt động này. Trước và sau khi Luật TTHC ban hành và có
hiệu lực vẫn chưa có cơng trình nào đi vào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề tạm đình
chỉ giải quyết vụ án hành chính, chỉ một số ít cơng trình nghiên cứu có nhắc đến chế
định này như đề tài khóa luận tốt nghiệp “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hành chính”
của Nguyễn Thị Hạnh, “Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính” của Nguyễn Thục
Đoan, hay bài viết trên tạp chí Tịa án nhân dân “Bàn về vấn đề tạm đình chỉ trong giai
đoạn xét xử vụ án hành chính phúc thẩm” của Trần Đức Long... Tuy nhiên các cơng
trình nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin sơ lược ở cấp độ đơn giản
nhất mà không đi vào nghiên cứu cụ thể về hoạt động này.
3. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của đề tài là tập trung vào nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận liên
quan đến tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính; phân tích, đánh giá thực trạng về
tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính hiện nay ở Việt Nam. Trên cơ sở đó chỉ ra
những điểm bất cập, hạn chế về quy định pháp lý, thực tiễn áp dụng pháp luật tạm đình
chỉ giải quyết vụ án để từ đó đưa ra một số giải pháp đề xuất, kiến nghị về mặt pháp lý
và thực tiễn nhằm góp phần hồn thiện hoạt động tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành
chính.
4. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Khóa luận đi sâu vào việc nghiên cứu một số vấn đề về lý luận và thực tiễn
trong quy định của pháp luật tố tụng hành chính hiện hành về chế định tạm đình chỉ


8

giải quyết vụ án hành chính. Trong đó đề tài tập trung nghiên cứu từ các nội dung khái
quát như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa chung cho đến từng quy định cụ thể của pháp
luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ án trong các giai đoạn tố tụng hành chính. Từ đó
xem xét, đánh giá thực trạng về hoạt động tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính;
nêu lên những điểm vướng mắc, hạn chế cịn tồn tại trên thực tế ảnh hưởng đến hiệu
quả của quá trình giải quyết vụ án và đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu đặt ra, bên cạnh việc phân tích, nhìn nhận và
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác – Lê nin kết hợp với tư tưởng Hồ
Chí Minh cũng như quan điểm chủ trương của Đảng, Nhà nước về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; khóa luận cũng đã vận dụng các phương pháp để phục vụ cho
việc nghiên cứu như phương pháp diễn dịch, quy nạp; phương pháp thống kê, phân
loại; phương pháp phân tích, so sánh; cùng nhiều phương pháp khác nhằm đạt hiệu quả
tối ưu cho đề tài.
6. Ý nghĩa đề tài

Đề tài được hoàn thành sẽ tạo một trong những nguồn tài liệu tham khảo hữu
ích khi tìm hiểu về chế định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, đồng thời góp
phần tạo cơ sở cho việc hồn thiện các quy định của pháp luật về tạm đình chỉ giải
quyết vụ án nói riêng và pháp luật tố tụng hành chính nói chung cho phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, những kiến thức
khoa học trong đề tài này cũng sẽ là nguồn dữ liệu quan trọng cho công tác nghiên cứu
khoa học về luật cũng như cho những ai quan tâm đến nội dung này.
7. Bố cục khóa luận
Khóa luận được trình bày theo bố cục gồm hai chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận và pháp lý về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành
chính.
Chương II. Thực trạng tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính và một số kiến nghị
hồn thiện.
Ngồi hai chương nêu trên, khóa luận cịn có các phần sau: phần mở đầu, mục lục,
danh mục từ viết tắt, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.


9

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính
Việc xác định thế nào là VAHC có ý nghĩa rất quan trọng vì VAHC thuộc phạm
vi điều chỉnh của Luật TTHC, chỉ những VAHC hoặc những vấn đề có liên quan đến
vụ VAHC thì những quy định trong Luật TTHC nói chung và chế tạm đình chỉ giải
quyết VAHC nói riêng mới có thể được áp dụng để điều chỉnh các vấn đề về quyền và
nghĩa tố tụng của các bên đương sự. Do đó, muốn nghiên cứu chế định tạm đình chỉ
giải quyết VAHC trong Luật TTHC thì phải tìm hiểu về VAHC.
1.1.1. Khái niệm vụ án hành chính

Với tư cách là chủ thể quản lý xã hội, cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước thực hiện các hoạt động quản lý của mình thơng qua nhiều
hình thức khác nhau trong đó chủ yếu là ban hành các quyết định hành chính hoặc thực
hiện các hành vi hành chính để tác động đến các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã
hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào người dân cũng đồng ý với sự tác động đó, hơn nữa
trong một số trường hợp quyết định hành chính được ban hành hoặc hành vi hành
chính được thực hiện trái với pháp luật, gây thiệt hại đến quyền lợi của cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong xã hội, điều này dẫn đến sự phản kháng của các chủ thể này với
các chủ thể có thẩm quyền quản lý nhà nước làm phát sinh tranh chấp hành chính. Khi
tranh chấp hành chính phát sinh các chủ thể bị tác động bởi tranh chấp tiến hành nộp
đơn khởi kiện ra Tòa án và được Tịa án thụ lý từ đó dẫn đến sự phát sinh VAHC.
Hiện nay tồn tại một số quan điểm khác nhau về khái niệm VAHC, trong Pháp
lệnh TTGQVAHC cũng như trong Luật TTHC vẫn chưa có khái niệm về VAHC. Theo
cách giải thích của từ điển Tiếng Việt thì: “vụ” là việc, sự việc khơng hay, rắc rối cần
giải quyết, và “án” là tranh chấp quyền lợi cần được xét xử trước Tòa án1. Như vậy,
về mặt thuật ngữ, “vụ án” là việc phát sinh trên cơ sở tranh chấp về quyền lợi thuộc
nhiệm vụ xét xử của Tòa án. Theo từ điển Luật học định nghĩa: “VAHC là vụ án phát
sinh tại Tịa hành chính do cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện ra Tòa án yêu cầu bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình2”. Theo tác giả Lê Thị Hồng Phượng thì: “VAHC

1
2

Hồng Phê (2008), “Từ điển Tiếng Việt”, NXB. Đà Nẵng, tr.380.
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), “Từ điển giải thích thuật ngữ luật học”, Nxb. CAND, tr.132.


10

là vụ việc tranh chấp hành chính phát sinh do cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước, cán

bộ công chức nhà nước khởi kiện u cầu Tịa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết
định kỷ luật buộc thơi việc theo quy định của pháp luật TTHC3”. Theo cách giải thích
trong giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội:
“VAHC là vụ việc tranh chấp hành chính được Tịa án có thẩm quyền thụ lý theo yêu
cầu khởi kiện của các cá nhân, tổ chức đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ4”. Cịn theo cách giải thích trong
giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam của trường Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh: “VAHC là vụ án phát sinh khi cá nhân, tổ chức khởi kiện hợp lệ các quyết
định hành chính hay hành vi hành chính hoặc các quyết định khác theo quy định của
pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được Tịa án có thẩm quyền thụ
lý5”. Từ những quan điểm trên chúng tôi nhận thấy rằng theo cách định nghĩa của từ
điển thì cịn chung chung, khái qt, khơng nêu rõ được hết nội hàm của VAHC, điều
này dẫn đến không phân biệt được VAHC với các vụ án khác. Về quan điểm của tác
giả Lê Thị Hồng Phượng mặc dù đã xác định được chủ thể khởi kiện, đối tượng khởi
kiện, chủ thể có thẩm quyền giải quyết VAHC và chỉ ra được cơ sở pháp luật để điều
chỉnh là Luật TTHC nhưng chưa chỉ ra được đầy đủ các điều kiện cần thiết để cấu
thành việc phát sinh một VAHC. Còn theo quan điểm của giáo trình Luật tố tụng hành
chính Việt Nam trường Đại học Luật Hà Nội và giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt
Nam trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thì khái niệm VAHC được đưa ra
tuy chưa chỉ rõ cơ sở pháp luật để điều chỉnh VAHC là Luật TTHC nhưng các khái
niệm này có phần rõ ràng hơn, đã nêu lên được chủ thể khởi kiện, đối tượng khởi kiện,
chủ thể có thẩm quyền giải quyết VAHC và đặc biệt hơn là đã chỉ rõ ra được đầy đủ
các điều kiện cần thiết để phát sinh một VAHC. Như vậy để một VAHC phát sinh thì
phải đáp ứng được đầy đủ hai cơ sở sau:
Một là, có việc khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Khởi kiện là quyền tự
định đoạt thuộc về cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với việc yêu cầu Tòa án xem xét một
quyết định hành chính, hành vi hành chính nào đó mà theo họ là trái pháp luật, xâm hại
trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong TTHC, khởi kiện là điều kiện


3

Lê Thị Hồng Phượng (2006), Khóa luận tốt nghiệp “Khởi kiện vụ án hành chính – quy định của pháp luật và
thực tiễn thực hiện”, tr.2.
4
Đại học Luật Hà Nội (2012), “Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam”, Nxb. Công an nhân dân, tr.217.
5
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), “Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam”, NXB Hồng Đức – Hội
luật gia Việt Nam, tr.23.


11

đầu tiên để làm phát sinh VAHC nếu khơng có hành vi khởi kiện thì sẽ khơng có
VAHC; tuy nhiên, khơng phải chủ thể nào cũng đều có quyền khởi kiện VAHC mà
muốn khởi kiện VAHC thì cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện phải đáp ứng các điều
kiện do pháp luật quy định và khởi kiện theo đúng đối tượng được phép khởi kiện6.
Hai là, đơn khởi kiện được Tịa án thụ lý giải quyết. Khi có đơn khởi kiện của
cá nhân, cơ quan, tổ chức, Tòa án sẽ xem xét các điều kiện như: Điều kiện về khởi kiện
vụ án, điều kiện về việc nộp tiền tạm ứng án phí, điều kiện về thẩm quyền giải quyết
của Tịa án… để từ đó quyết định có thụ lý hay không thụ lý đơn khởi kiện. Nếu thỏa
mãn đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật thì Tịa án sẽ tiến hành thụ lý vụ
án, cịn khơng Tịa án sẽ trả lại đơn kiện khi việc khởi kiện rơi vào một trong những
trường hợp pháp luật quy định phải trả lại đơn kiện7. Có thể nói, hành vi khởi kiện của
cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ là điều kiện cần, còn việc thụ lý của Tòa án mới là điều
kiện đủ để phát sinh một VAHC.
Chính vì những lẽ đó, chúng tơi đồng ý với khái niệm được trình bày trong giáo
trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội và giáo trình
Luật tố tụng hành chính Việt Nam của trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh vì
khái niệm này khơng chỉ xác định được chủ thể khởi kiện, đối tượng khởi kiện, thẩm

quyền giải quyết; mà đặc biệt hơn là khái niệm này còn chỉ ra được đầy đủ cả hai yếu
tố để phát sinh một VAHC đó là có đơn khởi kiện của các cá nhân, cơ quan, tổ chức và
được Tòa án thụ lý; nên có thể nói đây là quan điểm khá đầy đủ, rõ ràng, phản ánh
được nội dung, bản chất của VAHC.
Từ những phân tích và nghiên cứu trên chúng tơi đưa ra kết luận khái niệm
VAHC như sau: VAHC là vụ án phát sinh khi cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện u
cầu Tịa án có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của các đối tượng khiếu kiện hành
chính theo quy định của pháp luật TTHC nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình khi có căn cứ cho rằng đối tượng khiếu kiện này là trái pháp luật, xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân và được Tịa án có thẩm quyền thụ lý theo quy
định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm vụ án hành chính
Từ khái niệm nêu trên chúng tơi nhận thấy VAHC có những đặc điểm sau:

6
7

Điều 103 Luật TTHC.
Điều 109 Luật TTHC.


12

Thứ nhất, đối tượng tranh chấp trực tiếp trong VAHC là tính hợp pháp của
quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc, danh
sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Quyền tài sản và quyền nhân
thân không phải là đối tượng tranh chấp trực tiếp của tranh chấp hành chính. Khi ban
hành một quyết định hành chính hoặc thực hiện một hành vi hành chính thì phải đảm
bảo cả hai thuộc tính là tính hợp pháp và tính hợp lý, hai thuộc tính này ln gắn bó

mật thiết với nhau như một chỉnh thể thống nhất, nếu thiếu một trong hai yếu tố đó thì
quyết định hành chính được ban hành, hành vi hành chính được thực hiện sẽ khơng
hiệu quả và đạt được mục đích. Trong Luật TTHC, đối tượng trực tiếp trong tranh chấp
VAHC là tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính nên khi Tịa án
xem xét các khiếu kiện thì chỉ xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành
vi hành chính, mà khơng xem xét tình hợp lý của chúng. Điều này xuất phát từ nguyên
tắc hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước ta là quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp8, trong đó hoạt động tư pháp không được can thiệp
vào công việc thuộc nhánh hành pháp mà chỉ xem xét tính hợp pháp của hoạt động
hành pháp nên với vai trò là một cơ quan tư pháp, Tòa án chỉ dừng lại ở việc xem xét
tài liệu, chứng cứ để đánh giá tính đúng sai của quyết định hành chính, hành vi hành
chính mà khơng xem xét, can thiệp vào nội dung của các quyết định hành chính, hành
vi hành chính do các chủ thể quản lý nhà nước ban hành. Hay nói cách khác trong q
trình xem xét Tịa án khơng có quyền ra một quyết định hành chính thay thế cho chủ
thể quản lí nhà nước mà chỉ có quyền phán quyết và yêu cầu các chủ thể thể này ra
quyết định phù hợp với pháp luật9.
Ngoài ra, trong VAHC người khởi kiện, người có quyền và nghĩa vụ liên quan
có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại. Yêu cầu bồi thường thiệt hại này phải đi kèm với
một trong năm đối tượng khiếu kiện hành chính và thiệt hại này phải “là thiệt hại thực
tế do có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc,
quyết định giải quyết khiếu nại về xử lý vụ việc cạnh tranh gây ra10” thì mới được Tòa
án thụ lý và áp dụng quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà

8

Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đinh Văn Minh (1995), “Tài phán hành chính so sánh”, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.44.
10
Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP.

9


13

nước và pháp luật về tố tụng dân sự để giải quyết. Tuy nhiên, quyền tài sản và quyền
nhân thân không phải là đối tượng tranh chấp trực tiếp của VAHC.
Thứ hai, người bị kiện trong VAHC luôn là cơ quan nhà nước hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Điều này xuất phát từ lý do đối tượng tranh chấp
trong VAHC ln là tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính mà
các quyết định, hành vi này chỉ được ban hành hoặc thực hiện bởi những chủ thể có
thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước nên khi VAHC phát sinh thì bên bị kiện sẽ
luôn là cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Trong
Luật TTHC người bị kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành
vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri bị khởi kiện11. Khi tham
gia tố tụng, người bị kiện là cá nhân thì có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác
để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng, còn đối với người bị kiện là cơ quan, tổ
chức nhà nước thì sẽ thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình thơng qua người
đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó.
Thứ ba, người khởi kiện luôn là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động trực tiếp
bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc, danh
sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Người khởi kiện trong VAHC
được hiểu là cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện VAHC đối với quyết định hành chính,
hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc, quyết định giải quyết khiếu nại
về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri12. Quyền khởi kiện chỉ
phát sinh khi cá nhân, cơ quan, tổ chức có căn cứ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp
của họ bị xâm hại bởi các các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Điều đó có
thể hiểu khi cơ quan nhà nước, cá nhân người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước

ban hành các quyền định hành chính hoặc thực hiện các hành vi hành chính mà xâm
phạm trực tiếp đến quyền lợi của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội thì các chủ
thể bị xâm phạm này có quyền khởi kiện VAHC để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Ở đây, ta có thể thấy khơng phải chủ thể nào chịu sự tác động của các quyết
định hành chính, hành vi hành chính thì đều có quyền khởi kiện mà chỉ có những chủ
thể nào bị chịu sự tác động trực tiếp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính
thì mới được quyền khởi kiện VAHC ra TAND.

11
12

Khoản 7 Điều 3 Luật TTHC.
Khoản 6 Điều 103 Luật TTHC.


14

1.2. Khái niệm, đặc điểm tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
1.2.1. Khái niệm tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
Ở nước ta hiện nay, tranh chấp hành chính và giải quyết tranh chấp hành chính
là vấn đề luôn được các cơ quan nhà nước và các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã
hội quan tâm. Khi VAHC phát sinh, quá trình giải quyết VAHC có thể trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau như chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử
giám đốc thẩm và tái thẩm. Tuy nhiên, khơng phải lúc nào q trình giải quyết VAHC
cũng diễn ra một cách xuyên suốt liền mạch vì khi xuất hiện các căn cứ “đương sự là
cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng; đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà
chưa xác định được người đại diện theo pháp luật; đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà
một trong các đương sự khơng có mặt vì lý do chính đáng, trừ trường hợp có thể xét xử
vắng mặt các đương sự; hoặc cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan khác hoặc vụ

việc có liên quan13” thì Tịa án phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VAHC một
thời gian, đến khi nào các căn cứ trên khơng cịn nữa thì Tịa án sẽ tiếp tục đưa vụ án ra
giải quyết. Vậy tạm đình chỉ giải quyết VAHC là gì? Hiện nay trong Luật TTHC cũng
như trong Pháp lệnh TTGQVAHC và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có điều
khoản nào định nghĩa thế nào là tạm đình chỉ giải quyết VAHC. Đây cũng được xem là
một điểm hạn chế trong Luật TTHC, điều này đã dẫn đến sự tồn tại một số quan điểm
khác nhau về khái niệm này. Theo cách giải thích của từ điển Tiếng Việt thì: “tạm (làm
việc gì) là chỉ trong một thời gian nào đó, khi có điều kiện sẽ có thay đổi14”. Cịn theo
từ điển Luật học thì: “tạm đình chỉ vụ án là Tòa án tạm ngừng giải quyết vụ án đã thụ
lý15”. Từ thuật ngữ gốc này có thể hiểu tạm đình chỉ giải quyết vụ án là việc Toà án sau
khi thụ lý vụ án đã ra quyết định tạm dừng việc giải quyết vụ án trong một khoảng thời
gian, việc giải quyết vụ án sẽ tiếp tục khi có sự thay đổi về điệu kiện hồn cảnh. Theo
cách giải thích của các giáo trình phục vụ cho việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học
như giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội:
“Tạm đình chỉ giải quyết vụ án là việc thẩm phán được giao giải quyết vụ án ra quyết
định tạm thời dừng giải quyết vụ án vì có những lý do nhất định làm cho vụ án không
thể tiếp tục giải quyết được, khi những lý do đó khơng cịn nữa thì được giải quyết vụ

13

Khoản 1 Điều 118 Luật TTHC.
Hoàng Phê (2008), “Từ điển Tiếng Việt”, NXB. Đà Nẵng, tr.887.
15
Đại học Luật Hà Nội (1999), “Từ điển giải thích thuật ngữ luật học”, Nxb. Công an nhân dân, tr.147.
14


15

án16”. Theo giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam của trường Đại học Luật

thành phố Hồ Chí Minh: “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án là việc Tịa án có thẩm quyền
tạm dừng việc giải quyết VAHC khi có căn cứ tạm đình chỉ do Luật TTHC quy định. Vụ
án sẽ được tiếp tục đưa ra xét xử khi căn cứ tạm đình chỉ khơng cịn17”.
Từ các quan điểm khác nhau về khái niệm tạm đình chỉ giải quyết VAHC nêu
trên, xét thấy các khái niệm có nội hàm giống nhau là đều khẳng định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án là việc tạm dừng giải quyết vụ án. Tuy nhiên, các khái niệm trên vẫn chưa
đầy đủ, rõ ràng. Theo cách định nghĩa của từ điển thì còn chung chung, khái quát, chưa
nêu rõ được hết nội hàm của chế định tạm đình chỉ giải quyết VAHC, dẫn đến không
phân biệt được với các khái niệm về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, tạm đình chỉ
giải quyết vụ án hình sự. Theo quan điểm của giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt
Nam trường Đại học Luật Hà Nội thì khái niệm tạm đình chỉ giải quyết vụ án đưa ra có
phần rõ ràng hơn, khái niệm này đã nêu lên được thẩm quyền và điều kiện để tạm đình
chỉ giải quyết VAHC nhưng chưa chỉ ra một cách rõ ràng là cơ sở pháp luật cụ thể nào
sẽ được áp dụng để điều chỉnh. Chúng tơi đồng ý với khái niệm được trình bày trong
giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh vì ngay từ khái niệm đã giúp chúng ta không chỉ xác định được thẩm quyền, căn
cứ, điều kiện của việc tạm đình chỉ giải quyết VAHC mà cịn chỉ ra được cụ thể văn
bản pháp luật chứa đựng các căn cứ tạm đình chỉ là Luật TTHC nên có thể xem đây là
quan điểm phản ảnh khá đầy đủ cả về nội dung và bản chất pháp lý của hoạt động tạm
đình chỉ giải quyết VAHC.
Như vậy, qua việc phân tích trên có thể đi đến kết luận khái niệm tạm đình chỉ
giải quyết VAHC như sau: Tạm đình chỉ giải quyết VAHC là việc Tịa án có thẩm
quyền sau khi thụ lý giải quyết VAHC đã ra quyết định tạm dừng việc giải quyết vụ án
khi phát hiện có các căn cứ tạm đình chỉ theo quy định của Luật TTHC; vụ án sẽ được
tiếp tục đưa ra giải quyết khi căn cứ đó khơng cịn.
Tóm lại, tạm đình chỉ giải quyết VAHC không phải là một cách giải quyết
VAHC mà nó chỉ có ý nghĩa tạm dừng tiến trình tố tụng trong một thời gian18.
1.2.2. Đặc điểm tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính

16


Đại học Luật Hà Nội (2012), “Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam”, NXB. CAND, tr.298.
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), “Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam”, NXB Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.277.
18
Đoàn Tấn Minh (2010), “Bình luận khoa học Luật Tố tụng hành chính và các văn bản áp dụng giải quyết các
khiếu nại hành chính tại Tịa”, Nxb. Lao động, tr.215.
17


16

Từ khái niệm về tạm đình chỉ giải quyết VAHC nêu trên chúng tơi nhận thấy
tạm đình chỉ giải quyết VAHC có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, tạm đình chỉ giải quyết VAHC chỉ xảy ra khi vụ án được thụ lý giải
quyết. Một VAHC chỉ phát sinh khi có đơn khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức và
được Tịa án có thẩm quyền thụ lý. Sau khi tiến hành thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành các
hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ theo các quy định của Luật TTHC và tùy thuộc
vào kết quả của hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ cùng với các căn cứ theo quy
định của pháp luật, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án sẽ ra một trong các
quyết định sau: “đưa vụ án ra xét xử, tạm đình chỉ giải quyết VAHC, đình chỉ giải
quyết VAHC”19. Vậy, hoạt động thụ lý vụ án là hoạt động đầu tiên, là cơ sở tiền đề cần
thiết để Tịa án có thể tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo để giải quyết VAHC,
nên Tòa án sẽ khơng thể ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết VAHC nếu như
vụ án chưa được thụ lý theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, tạm đình chỉ giải quyết VAHC phải dựa trên những căn cứ luật định. Ở
nước ta hiện nay chưa thừa nhận án lệ là một nguồn văn bản pháp luật chính thống, các
quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ theo Hiến pháp và
pháp luật20. Do đó, khi ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết VAHC Tịa án phải
dựa vào các căn cứ được quy định trong văn bản pháp luật TTHC để giải quyết. Mặc

khác, trong TTHC cịn có ngun tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật nên điều này địi hỏi Thẩm phán được phân cơng giải quyết vụ án
hoặc Hội đồng xét xử tại phiên tịa khơng được tự mình xem xét và đưa ra quyết định
tạm đình chỉ giải quyết VAHC theo ý chí chủ quan của bản thân mà buộc phải tuân
theo các căn cứ luật định để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VAHC. Việc ra
quyết định tạm đình chỉ giải quyết VAHC dựa trên căn cứ luật định không chỉ đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự mà còn đảm bảo được yêu cầu pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, chỉ Tòa án mới có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết
VAHC. TAND với vai trò là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân21. Do đó, trong q trình giải quyết VAHC chỉ

19

Khoản 2 Điều 112 Luật TTHC.
Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
21
Khoản 1, khoản 3 Điều 120 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013.
20


17

có Tịa án là chủ thể có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi
phát hiện có căn cứ tạm đình chỉ. Tuy nhiên, tùy theo mỗi giai đoạn xét xử khác nhau
mà chủ thể có thẩm quyền trong Tịa án được quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết VAHC cũng khác nhau. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, thẩm quyền ra quyết
định tạm đình chỉ giải quyết VAHC thuộc về Thẩm phán được phân cơng giải quyết

VAHC, cịn tại phiên tịa xét xử thì thẩm quyền thuộc về Hội đồng xét xử22. Các chủ
thể khác như đại diện Viện kiểm sát khi tham gia tố tụng thì chỉ giữ vai trị kiểm sát
việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động TTHC chứ không được can thiệp vào hoạt
động ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VAHC của Tịa án. Điều này là xuất phát từ
nguyên tắc đảm bảo độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án và xuất phát từ vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân là: “thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp23” do đó Viện kiểm sát khơng được can thiệp vào cơng việc xét xử của Tòa án mà
chỉ xem xét giám sát việc tuân thủ pháp luật trong quá trình xét xử của Tịa án.
Thứ tư, việc tiến hành tạm đình chỉ giải quyết VAHC có thể được tiến hành ở
giai đoạn chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm nếu có các căn cứ tạm đình chỉ giải quyết
VAHC theo quy định của Luật TTHC. Các căn cứ tạm đình chỉ giải quyết VAHC theo
quy định của Luật TTHC được xây dựng trên các sự kiện pháp lý tồn tại khách quan,
khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Tịa án và các đương sự có liên quan, nên các
căn cứ đó có thể xuất hiện trong bất kỳ khoảng thời gian nào trong quá trình giải quyết
VAHC, làm cho VAHC khơng thể tiếp tục giải quyết. Do đó, khi phát hiện có căn cứ
tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật thì Tịa án sẽ ra quyết định
tạm đình chỉ giải quyết vụ án để đảm bảo VAHC được giải quyết đúng pháp luật, bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ năm, tạm đình chỉ giải quyết VAHC làm tạm dừng việc giải quyết vụ án.
Trong quá trình giải quyết vụ án nếu phát hiện có một trong các căn cứ tạm đình chỉ
giải quyết VAHC thì Tịa án sẽ ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết VAHC. Việc
ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VAHC không làm chấm dứt vụ VAHC mà chỉ là
tạm ngưng việc giải quyết VAHC một thời gian. Điều này có nghĩa là quyết định tạm
đình chỉ giải quyết VAHC chỉ có ý nghĩa tạm dừng tố tụng chứ khơng phải là quyết
định cuối cùng của việc giải quyết vụ án hay nói cách khác tạm đình chỉ giải quyết vụ
án khơng phải là một cách giải quyết VAHC mà nó chỉ có ý nghĩa tạm dừng tiến trình

22

Nguyễn Thị Thương Huyền (2011), “Luật tố tụng hành chính Việt Nam, những nội dung cơ bản câu hỏi và tình

huống”, Nxb. Lao động, tr.139.
23
Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013.


18

tố tụng trong một thời gian24. Tịa án sẽ khơng xóa tên VAHC trong sổ thụ lý mà chỉ
ghi chú vào sổ thụ lý về quyết định tạm đình chỉ giải quyết VAHC và khi căn cứ tạm
đình chỉ khơng cịn nữa thì Tịa án sẽ tiếp tục đưa vụ án ra xét xử.
1.3. Ý nghĩa tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án là một trong các nội dung quan trọng trong q
trình giải quyết VAHC. Việc xác định chính xác các căn cứ, nội dung, thẩm quyền, hậu
quả pháp lý của chế định tạm đình chỉ giải quyết VAHC có ý nghĩa quan trọng ở cả
phương diện công quyền lẫn công dân và cá nhân, tổ chức. Cụ thể:
1.3.1. Đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức
Thứ nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức
một cách triệt để, đúng đắn. Việc nắm vững các quy định pháp luật về căn cứ, trình tự
thủ tục, thẩm quyền và hậu quả pháp lý của chế định tạm đình chỉ giải quyết VAHC là
cơ sở để cá nhân, cơ quan, tổ chức chủ động khắc phục các sự kiện phát sinh làm cho
vụ án bị tạm đình chỉ, chống lại sự lạm quyền của Tịa án và sự cố tình vi phạm pháp
luật của các chủ thể khác, tránh được những hậu quả bất lợi cho mình, bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân kịp thời, hiệu quả.
Thứ hai, tăng cường phát huy hiệu quả quyền làm chủ của cá nhân, cơ quan, tổ
chức. Khi Tòa án thực hiện tốt các yêu cầu về chế định tạm đình chỉ giải quyết VAHC
sẽ mở ra cơ hội để các cá nhân, cơ quan, tổ chức tin tưởng vào hoạt động xét xử của
Tòa án, thúc đẩy các chủ thể này mạnh dạn hơn trong việc tiến hành khởi kiện VAHC
để yêu cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng con đường TTHC.
Từ đó góp phần giảm thiểu được gánh nặng áp lực cho các cơ quan nhà nước trong
việc giải quyết khiếu nại hành chính, đảm bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân,

bảo vệ hiệu quả quyền con người trong xã hội.
1.3.2. Đối với Tịa án
Thứ nhất, đảm bảo hiệu quả cơng tác xét xử do Tịa án đảm nhiệm. Thơng qua
việc tạm đình chỉ giải quyết VAHC giúp Tịa án có thêm thời gian thu thập chứng cứ,
tài liệu, triệu tập đương sự,... để chuẩn bị tốt hơn cho phiên tòa xét xử khi căn cứ tạm
đình chỉ khơng cịn. Bên cạnh đó, việc tạm đình chỉ giải quyết VAHC cịn tạo điều kiện
để Tòa án khắc phục được những sai lầm, thiếu sót trong các giai đoạn tố tụng trước;

24

Đồn Tấn Minh (2010), “Bình luận khoa học Luật tố tụng hành chính và các văn bản áp dụng giải quyết các
khiếu nại hành chính tại Tịa”, Nxb. Lao động, tr.215.


19

qua đó giúp cho việc giải quyết VAHC được hiệu quả, hợp tình, hợp lý và đúng quy
định của pháp luật TTHC. Ngồi ra, việc xác định, nắm bắt chính xác và khoa học các
chế định về tạm đình chỉ giải quyết VAHC cịn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định được những điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết để từ đó có kế hoạch
phục vụ hiệu quả cho hoạt động giải quyết VAHC của Tòa án.
Thứ hai, nâng cao tinh thần trách nhiệm, chất lượng hoạt động, ý thức tôn trọng
pháp luật của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, cơng chức ngành Tịa án trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Khi VAHC rơi vào một trong các căn cứ tạm
đình chỉ giải quyết vụ án nhưng nếu như Tịa án khơng ban hành ra các quyết định tạm
đình chỉ sẽ dẫn đến hậu quả vi phạm pháp luật nghiêm trọng về mặt thủ tục tố tụng. Do
đó, việc ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VAHC đúng và kịp thời cho thấy Tịa án
có trách nhiệm cao trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính. Bên cạnh đó, việc
ra quyết định tạm đình chỉ VAHC đúng và chính xác cịn góp phần quan trọng vào việc
đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa; đảm bảo tính khách quan, chính xác trong hoạt

động xét xử của Tịa án; hạn chế được tư tưởng cẩu thả của một số Thẩm phán, buộc
Thẩm phán phải nâng cao tinh thần trách nhiệm khi ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết VAHC để đảm bảo vụ án được giải quyết một cách đúng đắn, khách quan. Việc
nâng cao tinh thần trách nhiệm của Tịa án khi ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết
VAHC thể hiện được ý thức tôn trọng pháp luật, tơn trọng việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, chính những yếu tố này góp phần quan trọng trong việc củng
cố niềm tin của người dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án, đối với chính sách
pháp luật của Nhà nước.
1.3.3. Đối với hoạt động tố tụng
Thứ nhất, đảm bảo hoạt động tố tụng giải quyết VAHC được diễn ra hiệu quả,
chất lượng. Trong pháp luật TTHC, việc xác định đúng đắn, chính xác các chế định
tạm đình chỉ giải quyết VAHC tạo điều kiện cần thiết để đảm bảo cho hoạt động tố
tụng giải quyết VAHC đạt hiệu quả cao, đồng thời cũng là cơ sở quan trọng để thực
hiện tốt các hoạt động tố tụng tiếp theo. Bởi lẽ, việc xác định các căn cứ tạm đình chỉ
giải quyết VAHC càng rõ ràng, khoa học bao nhiêu thì nó sẽ là đòn bẩy thúc đẩy hoạt
động giải quyết VAHC càng nhanh gọn, chính xác bấy nhiêu; từ đó góp phần hạn chế
sự sai sót trong hoạt động tố tụng của Tịa án và giảm bớt sự phiền phức, áp lực cho
đương sự trong quá trình tham gia tố tụng.
Thứ hai, tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc cho hoạt động tố tụng giải
quyết VAHC. Trong thực tiễn xét xử, việc ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VAHC


20

sai có thể dẫn đến việc Tịa án vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, bản án có thể bị
hủy để xét xử lại, gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Do đó, nhờ vào căn cứ tạm đình chỉ giải quyết
vụ án được pháp luật quy định Tịa án có thể đưa ra một quyết định tạm đình chỉ giải
quyết VAHC đúng đắn góp phần quan trọng trong việc tiết kiệm được cơng sức, chi
phí, thời gian cho hoạt động tố tụng giải quyết VAHC.

1.3.4. Đối với hoạt động quản lý Nhà nước
Thứ nhất, giúp các cơ quan Nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong các cơ
quan Nhà nước kịp thời khắc phục những sai lầm, thiếu xót trong việc ban hành và
thực hiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính gây xâm phạm trực tiếp đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội. Trong hoạt
động quản lý xã hội không phải lúc nào các quyết định hành chính, hành vi hành chính
do cơ quan Nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước ban hành
hoặc thực hiện cũng đều hợp pháp. Do đó, thơng qua q trình giải quyết vụ án, cụ thể
là thơng qua quyết định tạm đình chỉ giải quyết VAHC sẽ tạo điều kiện cho cơ quan
Nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước có cơ hội để xem xét
lại và có phương án điều chỉnh, khắc phục kịp thời nếu quyết định hành chính, hành vi
hành chính này vi phạm các quy định pháp luật có liên quan gây ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả trong việc điều chỉnh bộ máy quản lý hành chính
Nhà nước, nâng cao tinh thần trách nhiệm, chất lượng hoạt động, hạn chế tình trạng vi
phạm pháp luật của chủ thể thực hiện nhiệm vụ cơng quyền. Thơng qua cơ chế tạm
đình chỉ giải quyết VAHC, có thể phát hiện ra yếu tố bất hợp lý của bộ máy hành
chính, các tiêu cực, hạn chế của một số bộ phận cán bộ, công chức nhà nước để từ đó
có những chấn chỉnh, xử lý kịp thời nhằm loại bỏ ra khỏi bộ máy Nhà nước những cán
bộ, công chức mất phẩm chất đạo đức, quan liêu, tham nhũng, thiếu trách nhiệm, năng
lực yếu kém nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm minh. Qua đó, góp
phần đề cao trách nhiệm cơng vụ của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước trong
hoạt động ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính và giải quyết
khiếu nại hành chính từ đó mang lại nguồn động lực to lớn trong việc thúc đẩy, tăng
cường gắn kết mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, tạo niềm tin vững chắc của


21

nhân dân vào Đảng và Nhà nước, góp phần hiệu quả vào công cuộc cùng phấn đấu xây

dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước của dân, do dân và vì dân25.
Tóm lại tạm đình chỉ giải quyết VAHC là một hoạt động tố tụng có ý nghĩa
trong q trình giải quyết VAHC, thơng qua hoạt động này nó khơng chỉ bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội mà còn có vai trị
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của Tòa án và các chủ
thể quản lý hành chính nhà nước.
1.4. Quy định của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
1.4.1. Quy định chung về tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
Dựa trên những nội dung quy định trong Luật TTHC và các văn bản pháp luật
hướng dẫn có liên quan, chúng tơi đi vào phân tích các quy định chung của pháp luật
về căn cứ, thẩm quyền và hậu quả pháp lý về chế định tạm đình chỉ giải quyết VAHC
như sau:
1.4.1.1. Về căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
Hiện nay căn cứ tạm đình chỉ giải quyết VAHC được quy định tại khoản 1 Điều
118 Luật TTHC bao gồm có bốn căn cứ. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể mà chưa có
cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.
Trong Luật TTHC, đương sự là cá nhân gồm có cơng dân Việt Nam, người
nước ngồi, người khơng có quốc tịch họ có thể là những chủ thể bình thường trong xã
hội hoặc có thể là cán bộ, cơng chức trong cơ quan hành chính nhà nước và các cơ
quan nhà nước khác; đương sự là cơ quan gồm có cơ quan hành chính nhà nước từ
trung ương tới địa phương ở trong nước, ngoài nước và các cơ quan nhà nước khác
như: Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, TANDTC, VKSND...; đương sự
là tổ chức gồm có tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội nghề nghiệp... Tất cả họ đều có năng lực chủ thể tố tụng hành chính, khi tham
gia vào hoạt động tố tụng họ có thể là người khởi kiện, người bị kiện hoặc người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, tùy vào từng tư cách chủ thể mà quyền và nghĩa vụ tố
tụng của họ sẽ khác nhau.
Khi VAHC phát sinh, quyền và nghĩa vụ tố tụng của các bên đương sự được
hình thành và gắn liền với từng cá nhân, cơ quan, tổ chức cụ thể khi họ tham gia tố


25

Vũ Thiết Triệu (2007), “Mối quan hệ giữa xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật – ý nghĩa thực tiễn”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 9/2007, tr.33-34.


22

tụng, do đó trong q trình giải quyết vụ án khi xảy ra trường hợp cá nhân chết, cơ
quan, tổ chức giải thể thì sẽ làm cho quá trình tố tụng bị gián đoạn. Hiện nay cá nhân
chết được chia thành hai trường hợp là chết pháp lý và chết não, trong đó chết pháp lý
được thể hiểu là cá nhân chết về mặt pháp lý do Tòa án tuyên bố theo u cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan26, khi đương sự là cá nhân chết thuộc trường hợp này
thì quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ vẫn chưa thật sự bị chấm dứt hồn tồn vì chết
pháp lý là cái chết do Tòa án tuyên bố theo u cầu của người có quyền và lợi ích liên
quan khi có căn cứ được quy định tại Điều 81 BLDS nên chưa hẳn họ đã chết thật mà
có thể họ vẫn cịn sống ở đâu đó vì vậy khi có tin tức xác thực họ cịn sống và quay về
thì lúc này các quyền và nghĩa vụ của họ có thể sẽ được khơi phục trở lại. Cịn chết não
là tình trạng tồn não bị tổn thương nặng, chức năng của não đã ngừng hoạt động và
người chết não không thể sống lại được27, khi đương sự cá nhân chết thuộc trường hợp
này thì quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ sẽ bị chấm dứt nếu không được thừa kế hoặc
khơng có người thừa kế vì lúc này đương sự đã hoàn toàn kết thúc sự sống. Còn cơ
quan, tổ chức bị giải thể là theo quy định của điều lệ, hoặc theo quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, hoặc hết thời hạn hoạt động được ghi trong điều lệ hoặc trong
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền dẫn đến cơ quan, tổ chức bị giải thể28.
Cũng giống như cá nhân chết, khi cơ quan, tổ chức bị giải thể sẽ dẫn đến chấm dứt sự
tồn tại của chủ thể này trên thực tế, việc chấm dứt sự tồn tại này có thể dẫn đến quyền
và nghĩa vụ tố tụng của họ cũng sẽ chấm dứt theo nếu như khơng có chủ thể kế thừa
theo quy định của pháp luật. Trong Luật TTHC, sự kiện pháp lý cá nhân chết, cơ quan,

tổ chức giải thể xảy ra có thể làm cho q trình giải quyết VAHC bị gián đoạn do đó
việc xác định đúng và hiểu rõ như thế nào là cá nhân chết, cơ quan, tổ chức bị giải thể
không chỉ đóng vai trị quan trọng trong việc đảm bảo cho việc giải quyết chính xác
VAHC nói chung mà nó cịn giúp Tịa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án
được kịp thời, đắng đắn.
Khi cá nhân chết, cơ quan, tổ chức bị giải thể thì cũng đồng nghĩa với việc
quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ cũng có nguy cơ chấm dứt nếu như khơng có người
kế thừa. Sự kiện pháp lý chết hoặc giải thể này sẽ làm cho quá trình tố tụng bị gián
đoạn, việc gián đoạn này không chỉ gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của bản thân
đương sự là cá nhân đã chết hoặc cơ quan, tổ chức đã bị giải thể mà còn ảnh hưởng đến

26

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2008), “Tập bài giảng những vấn đề chung về luật dân sự”, tr.123.
Nguồn: truy cập 12/7/2014.
28
Điều 98 BLDS.
27


23

quyền, lợi ích của các đương sự khác có liên quan trong VAHC, do đó cần phải có
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ. Kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
hành chính được hiểu là trường hợp khi đang tiến hành mà đương sự không thể tiếp tục
tham gia tố tụng được nữa hoặc chấm dứt hoạt động, giải thể, xác nhập, thì vụ án vẫn
được tiếp tục giải quyết để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác
trong vụ án29. Khi đương sự là cá nhân đã chết hoặc cơ quan, tổ chức đã giải thể, để
đảm bảo hoạt động tố tụng được tiếp tục diễn ra thì Tịa án cần phải tạm đình chỉ giải
quyết vụ án để xác định người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ, việc xác định

ai là người kế thừa sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật. Đối với cá nhân đã
chết, người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ được xác định dựa vào mức độ
quan hệ gần gũi trong họ hàng huyết thống từ gần đến xa giữa người thừa kế với người
để lại thừa kế được quy định trong BLDS. Cụ thể, khi đương sự là cá nhân đã chết thì
các chủ thể ở hàng thừa kế thứ nhất gồm có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết sẽ được ưu tiên kế thừa đầu tiên; khi ở hàng thừa
kế thứ nhất khơng cịn ai thì chuyển sang hàng thừa kế thứ hai gồm có ơng nội, bà nội,
ơng ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người
chết mà người chết là ông nội, bà nội, ơng ngoại, bà ngoại; cuối cùng nếu khơng cịn ai
ở hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai, thì chuyển sang hàng thừa kế thứ ba gồm có cụ nội,
cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột của người chết,
cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột;
cháu ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại30. Còn đối với cơ quan, tổ
chức bị giải thể, tùy vào từng trường hợp mà chủ thể kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
của cơ quan, tổ chức sẽ khác nhau, cụ thể, trong trường hợp người khởi kiện là cơ
quan, tổ chức bị hợp nhất, sát nhập, chia, tách, giải thể thì cơ quan, tổ chức hoặc cá
nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức cũ sẽ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố
tụng của cơ quan, tổ chức đó31, cịn trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức bị
hợp nhất, sát nhập, chia, tách thì cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ của cơ quan,
tổ chức cũ sẽ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan tổ chức đó; nếu người bị
kiện là cơ quan, tổ chức bị giải thể mà khơng có người kế thừa quyền và nghĩa vụ thì
cơ quan, tổ chức cấp trên thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị kiện32. Khi người

29

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), “Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam”, Nxb. Hồng Đức
– Hội luật gia Việt Nam, tr.150.
30
Điều 676 BLDS.
31

Khoản 2 Điều 53 Luật TTHC.
32
Khoản 4 Điều 53 Luật TTHC.


24

bị kiện là người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức mà cơ quan, tổ chức đó bị hợp
nhất, sát nhập, chia, tách, giải thể thì người tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của người đó
sẽ tham gia tố tụng; cịn đối với người bị kiện là người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ
chức mà chức danh đó khơng cịn nữa thì người đứng đầu cơ quan tổ chức đó thực hiện
quyền và nghĩa vụ của người bị kiện33.
Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng không phải lúc nào khi rơi vào trường hợp
đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể thì Tịa án cũng đều ra quyết
định tạm đình chỉ giải quyết VAHC để xác định người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng của họ, mà trong trường hợp này nhằm để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được
nhanh chóng, tinh gọn thì Tịa án chỉ được ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết
VAHC trong trường hợp đương sự có người thừa kế thừa và theo quy định pháp luật
quyền và nghĩa vụ của họ được phép kế thừa. Cụ thể, chỉ khi nào quyền và nghĩa vụ tố
tụng của họ liên quan đến tài sản thì Tịa án mới được ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án vì quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ được thừa kế, người thừa kế sẽ là
người được tham gia tố tụng, còn nếu quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ liên quan đến
nhân thân thì Tịa án sẽ khơng ra quyết định tạm đình chỉ vì theo quy định của BLDS
thì “quyền nhân thân là quyền gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho
người khác34” nên sẽ không được thừa kế. Việc Tịa án khơng ra quyết định tạm đình
chỉ trong trường hợp này là hợp lý vì quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự là quyền
và nghĩa vụ nhân thân nên việc giải quyết vụ án sẽ gặp rất nhiều khó khăn và nếu tiếp
tục giải quyết thì cũng sẽ khó đạt được mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của các bên
đương sự, gây mất nhiều thời gian, chi phí, cơng sức, do vậy, trong trường hợp này tốt
nhất là Tịa án ra quyết định đình chỉ giải quyết VAHC.

Khi ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, cần phải xác định rõ các trường
hợp “đã có”, “chưa có” và “khơng có” chủ thể kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng để có
những đường lối xử lý chính xác, góp phần đảm bảo cho việc giải quyết VAHC được
nhanh chóng, hiệu quả. Theo đó, “đã có” là khi đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan,
tổ chức đã giải thể, quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ được thừa kế và cá nhân, cơ
quan, tổ chức thừa kế đã sẵn sàng có mặt để tiếp tục kế thừa tham gia hoạt động tố tụng
giải quyết VAHC, trong trường hợp này Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vụ án luôn mà
không ra quyết định đình chỉ hay tạm đình chỉ giải quyết VAHC. Việc thừa kế quyền
và nghĩa vụ tố tụng có thể được Tịa án chấp nhận ở bất cứ giai đoạn nào trong quá

33
34

Khoản 3 Điều 53 Luật TTHC.
Điều 24 BLDS.


25

trình giải quyết VAHC. Trường hợp “chưa có” là khi đương sự là cá nhân đã chết, cơ
quan, tổ chức đã giải thể, quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ được phép thừa kế nhưng
tại thời điểm đó chưa xác định ngay được chủ thể có quyền thừa kế là ai, đang ở đâu
nên Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án để có thời gian xác định đối
tượng được thừa kế theo các quy định về thừa kế của BLDS và sẽ tiếp tục giải quyết vụ
án sau khi xác định được cá nhân, cơ quan, tổ chức thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Cịn trường hợp “khơng có” là trường hợp quyền và nghĩa vụ tố tụng của các cá nhân
đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể khơng có chủ thể nào thừa kế, trong trường hợp
này Tòa án sẽ tiến hành ra quyết định đình chỉ giải quyết VAHC.
Tóm lại, trong quá trình giải quyết vụ án, nếu đương sự là cá nhân đã chết, cơ
quan, tổ chức đã giải thể mà quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ được pháp luật cho phép

thừa kế nhưng chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa thì Tịa án sẽ căn cứ vào điểm
a khoản 1 Điều 118 Luật TTHC ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết VAHC.
Thứ hai, đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định
được người đại diện theo pháp luật. Đương sự là cá nhân ở đây được hiểu là cá nhân
khởi kiện, cá nhân bị kiện, cá nhân có quyền và lợi ích liên quan; họ có thể là cơng dân
Việt Nam, cơng dân nước ngồi, người khơng có quốc tịch. Theo quy định của BLDS,
năng lực hành vi dân sự là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực
hiện quyền và nghĩa vụ dân sự35, mọi cá nhân đủ 18 tuổi trở lên khơng bị Tịa án tun
bố mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự là người có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ. Người bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà khơng thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình, theo u cầu của người có quyền và lợi ích liên quan, Tòa án
ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức
giám định thì người đó được xem là mất năng lực hành vi dân sự36. Khi một cá nhân bị
mất năng lực hành vi dân sự thì họ khơng thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền và
nghĩa vụ nên mọi giao dịch của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại
diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Người đại diện theo pháp luật là người đại diện
do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định37.
Trong Luật TTHC, đương sự muốn tự mình tham gia vào hoạt động tố tụng để
thực hiện các quyền và nghĩa vụ thì địi hỏi đương sự đó phải có năng lực chủ thể
TTHC. Năng lực chủ thể TTHC gồm có năng lực pháp luật TTHC và năng lực hành vi

35

Điều 17 BLDS.
Điều 22 BLDS.
37
Điều 140 BLDS.
36



×