Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

xu hướng của truyền hình hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.58 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ra đời vào những năm 30 thế kỷ trước, truyền hình ngay lập tức trở
thành “một hiện tượng đặc biệt và thú vị” của đời sống xã hội. Nó làm lu
mờ mọi loại hình truyền thơng trước đó nhờ những tính năng ưu việt về âm
thanh và hình ảnh của mình.
Ban đầu truyền hình chỉ là những sự lắp ghép hình ảnh một cách giản
đơn, gượng ép, nhưng cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, truyền
hình ngày càng được hồn thiện. Khơng chỉ đáp ứng được về chất lượng
hình ảnh, hình thức thể hiện, mà chất lượng thơng tin của truyền hình ngày
càng đa dạng và phong phú. Dường như mọi góc cạnh của đời sống xã hội
đều được đưa lên truyền hình, hay nói một cách khác truyền hình đề cập tới
mọi vấn đề của cuộc sống. Truyền hình trở thành tấm gương phản ánh xã
hội một cách chân thực và con người cũng soi mình vào nó để thay đổi.
Truyền hình tự nhiên trở thành “người bạn” thân thiết, món ăn tinh thần
khơng thể thiếu với tất cả mọi người.
Sự phát triển của truyền hình xuất phát từ sự phát triển của những địi
hỏi, nhu cầu tự nhiên của xã hội. Truyền hình khơng đơn thuần đóng vai trị
là một kênh cung cấp thơng tin, mà nó đã trở thành một phương tiện giải trí
hấp dẫn và độc đáo. Khơng hiểu con người sẽ thế nào nếu một ngày truyền
hình khơng cịn? Nhận định này chứng tỏ một khía cạnh rằng, truyền hình
đang đóng một vai trị quan trọng trong việc cung cấp và tiếp nhận thông
tin của công chúng.
Trải qua gần 100 năm hình thành và phát triển, truyền hình ngày càng
trở nên ưu việt hơn. Từ những hình ảnh đen trắng ban đầu, truyền hình
ngày nay đã có màu, thậm chí cịn đạt tới độ nét cao, âm thanh trung thực.
Cơng chúng giờ đây trở thành “thượng đế” khi truyền hình cố gắng đáp
ứng tối đa nhu cầu tất cả mọi người. Chỉ cần ngồi tại nhà, bạn có thể biết


những thơng tin cách đó hàng ngàn kilomet. Hay khơng cần phải bay vào
vũ trụ, chúng ta vẫn được ngắm nhìn trái đất qua lăng kính của truyền


hình…
Tuy nhiên, có một câu hỏi được đặt ra là, với sự phát triển như vũ bão
của khoa học và công nghệ, trong tương lai truyền hình sẽ như thế nào; xu
hướng của nó ra sao. Con người - mục tiêu phục vụ tối thượng – sẽ được
tận hưởng những dịch vụ gì? Sẽ có bao nhiêu loại truyền hình…
I. Tính cấp thiết của đề tài
Việc tìm hiểu xu hướng phát triển của truyền hình là vấn đề khơng phải
bây giờ mới được đặt ra. Trong một xã hội phát triển mạnh mẽ như ngày
nay, truyền hình đã trở thành một ngành cơng nghiệp và vấn đề nghiên cứu
dự báo luôn được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu. Nó có thể quyết định
đến sự thành bại của ngành truyền hình.
Ở Việt Nam, hiện vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu mang tính
chính thức và cụ thể nào (hoặc vẫn chưa được cơng bố). Chính vì thế địi
hỏi cần có một tài liệu mang tính khoa học về vấn đề “xu hướng của truyền
hình hiện đại”.
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa trên yêu cầu thực tế, người viết với vốn kiến thức nhất định mong
muốn đi rút ra một lời giải mang tính tương đối, dựa trên những phân tích
và luận chứng khoa học.
Bên cạnh đó, là một sinh viên của Học Viện Báo Chí và Tuyên Truyền,
người viết cho rằng, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học về vấn đề dự báo “xu
hướng truyền hình hiện đại” là việc cần làm và mong rằng tiểu luận này sẽ
giá trị nào đó, phục vụ cho q trình giảng dạy và thực tiễn của Khoa Phát
Thanh-Truyền Hình.
III.

Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Tiểu luận này chủ yếu tập trung đi sâu vào tìm hiểu quá trình hình thành
và phát triển của ngành truyền hình. Tuy nhiên, những lĩnh vực liên quan



như công nghệ thông tin, truyền thông hay các dạng báo chí khác như báo
in, báo nói, báo mạng… cũng được liên hệ sử dụng làm vấn đề thêm sáng
tỏ.
IV.

Phương pháp nghiên cứu

Dựa trên quan điểm của học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lê nin, người
viết sẽ sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê, phép biện chứng duy vật…
V.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Cơng trình nghiên cứu này thành cơng, nó sẽ là một tài liệu có giá trị lý
luận và thực tiễn nhất định, làm phong phú thêm kho tàng lý luận truyền
hình. Đồng thời nó phần nào đó giúp các nhà làm truyền hình có được cái
nhìn một cách khách quan, tổng thể và tồn diện về truyền hình. Từ đó, đề
ra những chiến lược đầu tư có trọng điểm và hiệu quả.


CHƯƠNG I:
LỊCH SỬ TRUYỀN HÌNH

1. Truyền hình là gì:
1.1

Khái niệm:


Theo từ điển kỹ thuật, thuật ngữ “vơ tuyến truyền hình” có nguồn gốc từ
hai từ ghép của tiếng Latinh và Hy Lạp. Thro tiếng Hy Lạp, “tele” có nghĩa
là “xa”, cịn từ “vedre” có nghĩa là “xem”. Một dạng khác cũng thường gặp
hiện nay, đó là từ “Vidio”, từ nà theo tiếng La tinh nghĩa là “xem”. Cũng
có giả thuyết cho rằng, thuật ngữ truyền hình – Television– lần đầu tiên
được mọi người biết đến nhờ một kỹ sư người Nga có tên là K.D. Perski.
Năm 1990, tại Hội nghị quốc tế được tổ chức tại Paris, trong báo cáo của
mình với tên gọi “Vơ tuyến điện”, kỹ sư Perski đã đưa ra thuật ngữ này.
Chính vì thế, có rất nhiều định nghĩa về truyền hình. Tuy nhiên, truyền hình
hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là một phương thức chuyển tải các thơng
điệp bằng hình ảnh, thơng qua máy phát và nhận thơng tin.
2. Sơ lược q trình hình thành và phát triển
Sự phát triển của truyền hình gắn liền với sự phát triển của nhiều ngành
khoa học, trong đó ứng dụng vơ tuyến điện và viễn thơng đóng vai trò chủ
đạo.
Năm 1887, nhà khoa học người Đức, Heinrich Hertz đã chứng minh
tính chất của sóng điện từ. Những năm sau đó (1890-1895), các khoa học
Edouard Brandly (người Pháp), Oliver Logde (người Anh), Alexander
Popop (người Nga) đã hoàn chỉnh điện báo vơ tuyến. Từ đó, mở ra một
chương mới về ứng dụng vô tuyến điện.


Tháng 3/1899, con người lần đầu tiên thực hiện thành công việc liên lạc
xuyên Đại Tây Dương thông qua vô tuyến điện, dù chỉ là những tín hiệu
mc.
Năm 1903, một trạm vô tuyến điện báo được quân sự được thiết lập trên
tháp Eilffel (Pháp), dưới sự chỉ đạo của tưởng Ferrié.
1905-1914, ra đời những hãng lớn chuyên sản xuất thiết bị vô tuyến
điện như Marconi (Anh), Telefunkel (Đức)…

Năm 1929, chương trình phát hình đầu tiên của BBC do kết quả nghiên
cứu của John Baird về quét cơ học.
Tháng 4/1931, chương trình phát hiện ở Pháp, theo nghiên cứu của Rene
Barthelemy.
Năm 1939, truyền hình màu ra đời.
1949 ra đời Đài truyền hình RTF (Pháp).
Ngày 21/7/1961, Mỹ sử dụng hệ thống vệ tinh giữa Mỹ phát sóng truyền
hình phản ánh sự kiện lần đầu tiên con người đặt chân lên Mặt trăng. Lúc
này, tồn thế giới đã có khoảng 22.500 chiếc máy thu hình, trong đó có hơn
2000 chiếc máy thu hình màu.
Tháng 7/1962, những hình ảnh đầu tiên được truyền qua Đại Tây Dương
bằng vệ tinh Telstar, bắt đầu cho sự ra đời hệ thống truyền hình quốc tế qua
vệ tinh (Mondovision). Đây được coi là thời điểm tạo ra bước ngoặt, đưa
ngành truyền hình lên tầm cao mới.
Thập niên 1970, theo đà phát triển của kỹ thuật vi điện tử, xuất hiện
máy thu hình bỏ túi. Năm 1982, một cơng ty Nhật bản sáng chế thành cơng
chiếc máy thu hình bé xíu đầu tiên trên thế giới với kích thước dài 2,5 cm,
rộng 1,7 cm được lắp trên đồng hồ đeo tay.
3. Các hệ truyền hình:
Thế giới hiện nay sử dụng 2 hệ thống truyền hình: truyền hình Analog
và truyền hình kỹ thuật số (Digital).


3.1 Truyền hình Analog (Đen trắng):
Khái niệm: Khi ghi hình, nhờ đèn phân tích, máy quay video chuyển
những tín hiệu ánh sáng do vật kính thu được thành tín hiệu điện. Hình ảnh
là một tổng thể của những điểm sáng (điểm ảnh), bố trí theo những đường
nối tiếp nhau.
Khi thu hình, những đường tạo nên hình ảnh này được quyets bởi một
chùm electron phát ra từ ốn thu hình. Chùm electron đó qut tồn bộ hình

ảnh trong 2 lần (dịng lẻ rồi dòng chẵn), trong một thời gian xác định (1/25
hoặc 1/30 giây), với một tần số lặp lại đủ để cho khán giả tạo được hình
ảnh một cách liên tục nhờ độ lưu ảnh trên võng mạc. Hệ thống truyền hình
đen trắng được xác định bởi số đường tạo nên hình ảnh (525 hoặc 625) và
bởi tần số quét (1/25 hoặc 1/30 giây).
Truyền hình Analog gồm 3 loại: NTSC (National Television System
Committee) – Hệ thống truyền hình tiêu chuẩn quốc gia Mỹ. PAL: Hệ
truyền hình màu kiểu quyét luân chuyển pha, Đức. SECAM – Hệ thống
truyền hình màu của Pháp.
3.2: Truyền hình kỹ thuật số:
Khái niệm: Hệ thống analog có tên như vậy là do sự biến điện tín hiệu
video tỷ lệ với sự biến điệu các cường độ ánh sáng do việc quét của chùm
electron. Truyền hình kỹ thuật số không dựa trên sự biến thiên liên tục của
cường độ ánh sáng, mà dựa trên nguyên lí đo cường độ mỗi điểm. Giá trị
của tín hiệu được cắt thành nhiều phần, được lượng hóa thành một dãy số
nối tiếp xung, biểu diễn bằng những số nhị phân. Các xung này khơng đổi
dù có những biến đổi trong tín hiệu ban đầu. Truyền hình kỹ thuật số cho
phép đạt được một tín hiệu ổn định, làm dễ dàng cho việc tổng hợp các
hình ảnh.
4. Truyền hình hiện đại
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của cơng nghệ thơng tin, truyền hình
cũng phát triển với tốc độ chóng mặt. Sự thống trị của truyền hình phát


sóng khơng cịn chiếm vị trí độc tơn mà hiện nay xuất hiện rất nhiều dạng
truyền hình.
Khi mới ra đời, truyền hình chỉ là những thước phim khơng lời. Hình
ảnh lúc này chỉ là những hình ảnh đen trắng. Đến năm 1936, truyền hình
màu xuất hiện giúp cho chất lượng hình ảnh trung thực và đa dạng hơn.
Tuy nhiên cơng chúng chỉ thực sự được thưởng thức những chương trình

truyền hình hấp dẫn từ những năm 50 và 60 thế kỷ trước. Khi mà các ngành
khoa học vũ trụ, viễn thông và công nghệ thông tin đạt được những thành
tựu nhất định. Truyền hình trở nên đa dạng, nhờ sự bổ sung của những
chương trình truyền hình trực tiếp, bên cạnh các chương trình "nguội”,
thơng qua vệ tinh nhân tạo.
Đến thời điểm này, sự xuất hiện của truyền hình cáp và truyền hình
Internet… khiến cho chất lượng của các kênh truyền hình ngày càng nâng
cao.


CHƯƠNG 2
XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA TRUYỀN HÌNH
1. Nhận định chung về xu hướng của truyền hình trong thời
truyền thơng đa phương tiện
1.1 Thách thức của truyền hình trong thời truyền thơng đa
phương tiện
Hiện nay, truyền hình khơng những phải cạnh tranh với các loại hình
truyền thơng đại chúng như báo in và phát thanh mà truyền hình cịn phải
cạnh tranh với một loại hình truyền thơng đa phương tiện khác như mạng
Internet. Với những ưu thế hơn hẳn truyền hình cả về tính chất đa phương
tiện lẫn tính chất mới đó là tính tương tác, loại hình truyền thơng đa
phương tiện này liệu có thể đánh bại truyền hình, thay thế truyền hình,
chiếm lấy vị trí độc tơn của truyền hình khơng?
Theo thạc sĩ Đỗ Anh Đức: “Nhiều thống kê khác cũng cho thấy, khán
giả thường xuyên của màn ảnh nhỏ cũng bắt đầu giảm dần kể từ khi họ bị
cuốn hút với máy tính và mạng Internet, đặc biệt là lớp trẻ.”.
Tại sao lại có hiện tượng trên? Điều này được lý giải bằng hai nguyên
nhân sau:
1.2 Các ngun nhân khiến truyền hình mất dần sự độc tơn:
1.2.1 Xuất phát từ tình hình thực tế và xu thế của thời đại:

Thế kỷ XXI là thế kỷ bùng nổ thơng tin. Con người ta có thể dễ dàng
tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn và đặc biệt nếu biết sử dụng máy tính
mà cụ thể là biết “lên mạng” và biết một chút tiếng anh thì thơng tin gì
cũng có thể tìm được. Tiến sĩ Dương Văn Quảng- tác giả cuốn “Báo chí và
Ngoại giao” nhận xét: “Thật vậy, ở thời đại ngày nay, bất cứ ai cũng có thể


tiếp cận được thông tin do khối lượng thông tin quá lớn và phương tiện
truyền tin rất đa dạng.”
1.2.2 Xuất phát từ người tiếp nhận thơng tin
Thêm vào đó cịn một lý do khác xuất phát từ phía người tiếp nhận
thơng tin. Đó là người tiếp nhận thơng tin hiện nay rất độc lập và rất chủ
động trong việc tiếp nhận thơng tin. Giải thích cho nhận định này, thạc sĩ
Đỗ Anh Đức đưa ra ý kiến của chuyên gia thẩm định thơng tin của hãng
truyền hình AOL- ơng Turner: “Con người đang thay đổi, thoát khỏi sự
quyến rũ của các kênh chương trình truyền hình. Họ thích tự nghiên cứu và
tiếp cận với thông tin hơn là bị chi phối bởi thông tin.”.
Thật vậy, với mạng Internet, công chúng được tự mình lựa chọn
thơng tin, lựa chọn chương trình giải trí mà mình ưa thích. Trong khi đó,
các kênh truyền hình chủ yếu lại cung cấp thơng tin theo một trật tự tuyến
tính thời gian.
Điều đó có nghĩa là thơng tin trên truyền hình thì được sắp xếp theo
một trật tự chương trình nhất định: có trước có sau, khơng thể thay đổi. Các
chương trình được bố trí theo một thứ tự nhất định, hết một chương trình
mới có thể chuyển sang một chương trình khác. Và như vậy có nghĩa là cho
dù người xem đã chán ngấy với chương trình đang xem hoặc giả họ muốn
xem ln chương trình kế tiếp mà họ biết rằng nó cũng sẽ được phát tiếp
trong chương trình thì họ cũng phải cố mà nán lại xem cho đến hết hoặc
chọn phương án khác là tắt đi và căn giờ đến chương trình kế tiếp thì bật
lên xem tiếp.

Trong khi đó một ngun tắc tối ưu của truyền thông được tác giả
Loic Hervoet khái quát lên biểu thị một sự thật không thể phủ nhận được:
“Thơng tin chỉ tồn tại khi nó được đọc”. Và Loic Horvoet giải thích rằng sở
dĩ đây là một sự thật vì: “ Đây chính là tiêu chí đầu tiên của truyền thông.
Người nhận thông tin cũng quan trọng như người phát ra thông tin”.


Thật vậy hãy tưởng tượng xem những thông tin mà đài truyền hình phát mà
cụ thể là sản phẩm của các phóng viên trong đài nỗ lực tìm kiếm, nỗ lực
sáng tạo mà lại chẳng có ai xem thì phỏng có ích gì? Tất cả những chương
trình, những chun mục, những thơng tin mà chúng ta đem đến trên sóng
truyền hình chẳng phải vì một lý do duy nhất là vì cơng chúng đó sao. Thế
mà lại chẳng được đón nhận thì cịn ý nghĩa gì nữa. Có thể ví điều này
giống như một hình ảnh về một thuyết khách đứng ra hùng biện trước một
đám đông để thuyết phục cơng chúng, nhằm đạt được một mục đích gì đó
nhưng ngờ đâu sức thuyết phục không cao, công chúng đứng nghe tản dần
đi, chỉ cịn mỗi thuyết khách nói cho chính mình nghe. Đối diện với sự thực
đó chúng ta sẽ cảm thấy thế nào? Chắc chắn là không thoải mái rồi.
Trong khi với mạng Internet người truy cập có thể tuỳ chọn thơng tin
theo sở thích của mình, theo nhu cầu của mình mà khơng phụ thuộc vào
thời gian hãy bất cứ yếu tố gì miễn là có thơng tin từ phía nhà cung cấp.
Đây là một thực tế nảy sinh mà chúng ta không thể nào phủ nhận
được. Xã hội hiện đại ngày nay với nhiều lo toan, con người không thể
dành nhiều thời gian để xem những thứ mà khơng thuộc sự quan tâm của
mình. “Người ta lựa chọn thơng tin theo mục đích, thậm chí cực đoan hố
duy nhất những thứ mà mình thích”. Đó là nhận định của thạc sĩ Đỗ Anh
Đức khi nói về nhu cầu thông tin của công chúng ngày nay.
Nhu cầu của cơng chúng ngày nay thì như vậy mà một phương tiện
mới ngày nay: Truyền thông đa phương tiện lại có thể đáp ứng được nhu
cầu đó của họ thì phải chăng cơng chúng truyền hình sẽ vứt bỏ sự quan tâm

với truyền hình để chuyển sang sử dụng một phương tiện mới mà có thế
cùng lúc đáp ứng được nhều địi hỏi của họ, lại có thể cùng họ trao đổi, bàn
bạc những tâm tư nguyện vọng của họ, tạo điều kiện để họ bày tỏ những
suy nghĩ nguyện vọng của họ?


2. Truyền hình trước sự cạnh tranh khốc liệt với loại hình truyền
thơng đa phương tiện.
Trước khi truyền thơng đa phương tiện xuất hiện thì truyền hình giữ
một vị trí độc tôn, ảnh hưởng lớn đến đến nhu cầu tận hưởng thông tin của
công chúng. Nhiều người cho rằng với ưu thế của truyền hình thì báo in rồi
phát thanh sẽ biến mất, bởi vì chỉ cần truyền hình là đã đủ đáp ứng được
nhu cầu của công chúng rồi. Truyền hình là phương tiện tổng hợp của phát
thanh và báo in. Thế nhưng bất chấp những ưu thế của truyền hình, phát
thanh và báo in vẫn có được độc giả cho riêng mình và vẫn cùng tồn tại
song song với sự tồn tại của truyền hình.
Chính vì vậy khi đánh giá về xu hướng truyền thông trong kỷ nguyên
web, thạc sĩ Anh Đức đã nhận định.
“Lịch sử truyền thông đã chứng minh sự chao đảo của báo in khi
phát thanh đặc biệt là truyền hình ra đời. Khi đó nhiều tiên đốn kiểu này
rốt cục đã khơng thành hiện thực. Báo in vẫn tồn tại cùng các phương tiện
khác và mỗi loại hình kết hợp, bổ xung cho nhau tạo nên sự phong phú của
nghành truyền thông đại chúng.”(84- Báo chí những vấn đề lý luận và thực
tiễn).
Lịch sử đã chứng minh sự đứng vững của báo in và phát thanh trước
sự xuất hiện của truyền hình, và bây giờ lịch sử cũng sẽ vẫn công nhận sự
cạnh tranh của truyền hình trước những thách thức của loại hình truyền
thơng đa phương tiện.
Nhưng nói như vậy khơng có nghĩa là truyền hình khơng chịu đổi
mới mình, khơng chịu phát huy những ưu thế của mình mà vẫn có thể đứng

vững được trước đối thủ cạnh tranh mới: truyền thông đa phương tiện. Đó
là điều khơng tưởng. Ngay cả báo in và phát thanh khi phải cạnh tranh với
truyền hình, khơng phải là những loại hình này khơng chịu đổi mới mình
mà vẫn có thể đững vững được mà ngược lại. Những phương tiện truyền


thông đại chúng này đã phát huy hết sức những ưu thế của nó mà truyền
hình khơng có được và đổi mới cả về nội dung và hình thức của thơng tin
mà nó chuyển tải tới cơng chúng. Chả thế vậy sao mà khi nhắc tới mối
quan hệ giữa phát thanh, báo in và truyền hình, giới báo chí đều nhắc đến
một câu nói: “ Phát thanh đưa tin, truyền hình diễn giải và báo in phân
tích.”.
Thật vậy, về xu thế của truyền thông trong kỷ nguyên web, tác giả
Anh đức nhận xét: “Các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là báo in,
nếu không đánh giá đúng, không điều chỉnh chiến lược để thích ứng với
một thời đại mới, sẽ khó có thể tồn tại trước sự tấn cơng của các loại hình
trao đổi thơng tin cơng nghệ Internet mà đến nay cịn chưa hình dung hết về
sự phát triển của nó.”.
Vậy để tồn tại và phát triển được trong thế kỷ 21 này, các hãng
truyền hình phải làm gì?
3. Giải pháp của các hãng truyền truyền hình trong thời truyền
thông đa phương tiện
3.1 Đổi mới công nghệ
Trong thời đại truyền thông đa phương tiện hiện nay, nhiều hãng
truyền hình, để cạnh tranh trong nghành cũng như là cạnh tranh với các
phương tiện truyền thông khác đã liên tục cử phóng viên đến trực tiếp nơi
xảy ra sự kiện để đưa tin. Hãng truyền hình nào cũng muốn hãng mình là
người đưa tin nhanh nhất. Vì thơng tin là vàng nếu đưa tin kịp lúc. Người ta
thậm chí cịn mua bán thơng tin nếu thơng tin đó phục vụ đắc lực cho công
việc và nhu cầu của họ. Chẳng phải vậy sao mà hãng truyền hình CNN

mặc dù ra đời vào những năm 80 của thế kỷ 20, muộn hơn rất nhiều so với
các hãng thông tấn khác và hãng truyền hình khác như AP, BBC nhưng lại
vượt lên đứng đầu thế giới về công nghệ đưa tin. Rất nhiều hãng truyền
hình trên thế giới đều phải mua tin từ CNN. Có thể nói nhiều tin tức, sự


kiện mà CNN chuyển đến người xem là đồng nhất về mặt thời gian diễn ra
sự kiện và thời gian phát tin từ hãng truyền hình CNN đến cơng chúng. Ví
dụ như sự kiện Mỹ tấn cơng Irac năm 2002 là được phát trực tiếp từ hiện
trường vụ việc. Thậm chí có tổng thống Mỹ đã từng nói khơng thể đưa ra
quyết định gì nếu như chưa xem chương trình của CNN trong ngày. Có thể
nói nhờ cơng nghệ đưa tin nhanh mà hãng truyền hình CNN đã đóng một
vai trị rất quan trọng trong đời sống nước Mỹ nói riêng và nhiều nước trên
thế giới nói chung. Chính nhờ ưu thế đưa tin nhanh như vậy mới có thể
giúp CNN có thể cạnh tranh nổi với hệ thống đưa tin qua mạng Internet
hiện nay.
Để có thể đưa tin cập nhật như vậy, các phóng viên truyền hình, khi
đến nơi diễn ra sự kiện, đã sử dụng phương tiện làm tin điện tử có thiết bị
biên tập hình kèm theo. Các tư liệu liên quan được ghi hình bằng Camera
xách tay và được biên tập ngay tại hiện trường. Nhờ hệ thống này, tồn bộ
chun mục được hình thành ngay tại chỗ và sau đó được chuyển về trung
tâm truyền hình nhờ máy phát Radio lưu động.
Để có được cách đưa tin như vậy, các hãng truyền hình phải trơng
đợi rất lớn vào sự đổi mới của cơng nghệ. Chính sự cải tiến liên tục công
nghệ đã giúp cho con người nói chung và các hãng truyền hình nói riêng
nâng cao được đời sống văn hoá xã hội. Như vậy là nẩy sinh từ nhu cầu
của đời sống xã hội mà con người phát minh, sáng chế những công nghệ
mới và công nghệ mới khi ra đời lại tác động đến đời sống của con người
bằng cách phục vụ, nâng cao đời sống của con người và bắt con người phải
thay đổi lối sống, lối làm việc khác với trước kia. Đánh giá về điều này, tác

giả người Nga N. N Tsurxin trong cuốn sách “Thông tin học đại chúng”
viết: “Sự bùng nổ thông tin và các hiện tượng khủng hoảng liên quan với
nó là hậu quả trực tiếp của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, biến khoa
học thành đối tượng tham gia trực tiếp vào sản xuất.”.


3.2 Đổi mới nội dung
Không phủ nhận một điều, công nghệ đóng một vai trị rất quan
trọng trong đời sống của con người, tạo ra rất nhiều sự thay đổi lớn đối với
cuộc sống của chúng ta hiện nay. Đối với các hãng thơng tin thì cơng nghệ
càng có tác động lớn. Tuy nhiên, cơng nghệ dù có giúp ích cho nhà báo bao
nhiêu đi chăng nữa thì cũng chỉ giúp được về mặt hình thức, giúp được về
mặt xử lý thông tin, điều kiện làm việc của nhà báo. Cịn cái chính vẫn là
nội dung của chính những thơng tin về sự kiện mà nhà báo chuyển đến
công chúng như thế nào? chuyển tải dưới hình thức như thế nào sao cho
hấp dẫn nhất?
Chính vì vậy tiến sĩ Dương Văn quảng đã nhận xét: “ Đối với chúng
tôi, điều quan trọng khơng phải là xem xét có bao nhiêu phương tiện truyền
thơng đại chúng mà là nghiên cứu chính bản thân truyền thơng đại chúng
được nhìn nhận dưới góc độ hành vi chứ không phải là phương tiện.
Phương tiện quan trọng nhưng vẫn chỉ là công cụ”
Quả thật công nghệ dù quan trọng đến đâu thì nó cũng chỉ là hình
thức, là cơng cụ mà cái chính là cái nội dung mà nó chứa đựng. Chính vì
vậy mà Nhân dân ta đã khái quát nên một câu tục ngữ: “ Tốt gỗ hơn tốt
nước sơn”. Do đó, để đảm bảo cho nội dung của một tác phẩm truyền hình
tốt thì chỉ có cách là người làm ra tác phẩm đó phải có sự đầu tư cho tác
phẩm của mình. Vậy phóng viên truyền hình phải đầu tư thế nào cho tác
phẩm của mình để có thể cạnh tranh được với các phương tiện truyền thông
khác trong thời truyền thông đa phương tiện này?
4. Xu thế của truyền hình:

Từ những nhận định trên, rõ ràng truyền hình sẽ ngày càng đổi mới
và phát triển từ hình thức chuyển tải đến nội dung thông tin. Trong một xã
hội hiện đại, không phải lúc nào con người cũng có thời gian để người
trước máy thu hình. Chính vì thế, các dạng khác của truyền hình như truyền


hình internet, truyền hình khơng dây, truyền hình có mùi… sẽ đóng vai là
“người dẫn đường”, đối thủ quan trọng với những loại hình báo chí khác.
4.1 Chức năng cung cấp thông tin:
Trong tương lai, chức năng cung cấp thông tin của truyền hình dù có
thay đổi về mức độ (nhiều ít…), nhưng nó sẽ vẫn là chức năng nổi bật nhất.
Chắc chắn, các phương thức chuyển tải của truyền hình sẽ ngày càng
trở nên đa dạng như: truyền hình kỹ thuật số, truyền hình cáp, truyền hình
có độ nét cao…
Công nghệ viễn thông và điện tử phát triển giúp cho truyền hình
ngày càng trở nên gần gũi hơn với khán giả. Công chúng vừa là khán giả
vừa là người tham gia sản xuất trong các kênh truyền hình tương tác sẽ dần
trở nên quen thuộc.
Bên cạnh đó, truyền hình Internet với những khả năng ưu việt của
mình sẽ giúp truyền hình khơng bị lỗi so với các loại hình truyền thông
khác, nhất là báo Mạng điện tử. Ngồi bất cứ đâu bạn cũng có thể trở thành
khán giả truyền hình với một chiếc máy tính cá nhân có kết nối Internet.
4.2 Chức năng giải trí:
Ngay kể từ khi ra đời, truyền hình đã chú ý tới chức năng giải trí.
Các trị chơi, các chương trình giao lưu, tọa đàm…. sẽ được tổ chức thường
xuyên hơn trên truyền hình. Hay nói một cách khác, truyền sẽ là một sân
chơi bổ ích cho công chúng.
5. Một vài nhận định về đài truyền hình Việt Nam trong thời
truyền thơng đa phương tiện
5.1 Một số đánh giá chung về truyền hình Việt Nam

Nhìn chung, truyền hình Việt Nam đã có sự vượt bậc về cả kênh
chương trình lẫn nội dung chương trình so với 10 năm về trước. Trước đây,
đài truyền hình Việt Nam chỉ có duy nhất 1 kênh chương trình(VTV1 hiện


nay) mà lại phát thưa giờ. Nội dung của các chương trình truyền hình thì
đơn điệu, có gì phát lấy. Thậm chí ngay cả các chương trình thời sự, tin tức
cũng không cập nhật, thường chậm hai ba ngày. Các chương trình giải trí
như phim ảnh thì rất hạn chế. Các chương trình trị chơi cho khán giả hầu
như khơng có.
Tuy nhiên, ngay từ khi đổi mới và đến nay, truyền hình Việt Nam đã
có sự thay đơỉ cả về nội dung và hình thức. Các chương trình thời sự đã
được cập nhật trong ngày. Các chương trình giải trí như phim ảnh, ca nhạc
rất phong phú.
Khán giả truyền hình Việt Nam được xem rất nhiều thể loại phim của
nhiều nước trên thế giới. Thậm chí, đài truyền hình Việt Nam còn mở rộng
nhu cầu thưởng thức các tác phẩm điện ảnh bằng việc mở thêm chuyên
mục “ Phim đặc sắc cuối tuần trên kênh VTV1” và bây giờ đã trở thành
một chuyên mục không thể thiếu được của người yêu điện ảnh vào buổi tối
chủ nhật hàng tuần.
Các chương trình ca nhạc cũng rất phong phú. Mỗi năm, đài truyền
hình Việt Nam cịn tổ chức giải Sao Mai ca nhạc để một mặt là chọn nhặt
các ca sĩ và một mặt là cung cấp thêm chương trình giải trí âm nhạc cho
khán giả truyền hình. Nếu để ý một chú, ta có thể nhận thấy chương trình
“Trị chơi âm nhạc” phát trên kênh VTV3 vào mỗi tối thứ sáu được đổi mới
theo từng kỳ phát. Rồi đến cả các chương trình ca nhạc quốc tế như chương
trình MTV được đổi mới sau các kỳ phát, từ “MTV theo yêu cầu” đến
“MTV miền nhiệt đới”.
Không chỉ dừng lại ở việc đổi mới các chương trình giải trí để phục
vụ khán giả xem truyền hình Việt Nam, đài truyền hình Việt Nam ngày

càng có sự quan tâm sang các chuyên mục: “Giao lưu” và “Trị chơi” cho
cơng chúng cả nước và khán giả truyền hình. Các chương trình trị chơi
khơng chỉ tập trung vào từng đối tượng cơng chúng mà cịn được mở rộng


cho tất cả các đối tượng công chúng như “Đường lên đỉnh Olimpia”,
“Vườn cổ tích”, “Chiếc nón kỳ diệu”, “Ở nhà chủ nhật”… .
Có thể nói, đó là một xu thế chung của nghành truyền hình. Truyền
hình Việt Nam phải liên tục cải biến nội dung của các chương trình như vậy
để cạnh tranh khơng chỉ trong nghành; đó là cạnh tranh với các kênh truyền
hình khác như truyền hình Hà Nội, truyền hình Hà Tây, Truyền hình thành
phố Hồ Chí Minh…. . Bởi vì các đài truyền hình này cũng khơng nằm
ngồi xu thế phát triển chung của nghành truyền hình. Các đài truyền hình
đều phải ra sức cải tiến các kênh truyền hình, các chương trình truyền hình,
các chuyên mục truyền hình để gây sự chú ý và tạo được sự cảm mến từ
phía cơng chúng xem truyền hình trong cả nước.
Khơng chỉ cạnh tranh trong nghành truyền hình, đài truyền hình Việt
Nam hiện nay cịn phải cạnh tranh với cả các dịch vụ truyền hình khác như
truyền hình cáp Hà Nội, truyền hình kỹ thuật số VTC mà các dịch vụ
truyền hình mới như thế này thì chương trình vừa phong phú, lại có thể đáp
ứng được nhu cầu của từng đối tượng công chúng xem truyền hình.
Và theo xu thế chung của thời đại, đài truyền hình Việt Nam cịn phải
đối diện với 1 đối thủ đáng gờm khác đó là truyền thơng đa phương tiện.
Cũng giống như các đài truyền hình khác trên thế giới, bên cạnh việc đổi
mới về cơng nghệ, đài truyền hình Việt Nam còn phải ngày càng đổi mới về
mặt nội dung của các chương trình truyền hình mà cụ thể là đầu tư cho nội
dung từng tác phẩm truyền hình.
5.2 Tiêu chí cho nội dung các tác phẩm truyền hình
Như trên đã nói, để có một tác phẩm truyền hình tốt, nhà báo truyền
hình phải có sự đầu tư thích đáng vào cho tác phẩm truyền hình của mình.

Tiêu chí thì rất nhiều, tuỳ theo quan niệm và cách đánh giá của từng người
mà mỗi người có thể đưa ra tiêu chí của riêng mình với mỗi một tác phẩm
truyền hình. Tuy nhiên, theo quan điểm của cá nhân tơi, nhà báo truyền


hình Việt Nam phải chú ý đến 3 khía cạnh sau cho tác phẩm truyền hình mà
mình làm ra:
Tính chân thực
Tính thời sự
Tính hấp dẫn
5.2.1 Tính chân thực
Khơng chỉ riêng với các nhà báo truyền hình mà với tất cả các nhà
báo của các loại hình của các phương tiện thơng tin đại chúng khác, tiêu chí
này cũng rất được coi trọng. Đối với truyền hình Việt Nam tiêu chí này lại
càng được coi trọng. Vì đài truyền hình Việt Nam trong tương quan với các
đài truyền hình khác, đài truyền hình Việt Nam là cơ quan ngơn luận của cả
nước.
Thêm vào đó, truyền hình Việt Nam phải ln ln đảm bảo tiêu chí
này vì đây sẽ là con át chủ bài của đài truyền hình Việt nam trong cuộc
chiến tranh giành công chúng với các phương tiện truyền thông đa phương
tiện. Bởi vì trong xu thế hiện nay, các đài truyền hình khơng thể cạnh tranh
với các báo mạng về mặt đưa tin. Các báo mạng khơng những có khả năng
đưa tin nhanh mà lại cịn hơn truyền hình ở một khía cạnh khác là có thể
đưa thêm rất nhiều thơng tin khác mà truyền hình khơng thể đưa lên trên
sóng truyền hình. Tuy nhiên cái gì cũng có mặt trái của nó. Thơng tin
nhanh là ưu điểm nhưng cũng chính là hạn chế của loại hình này. Vì hiện
nay có nhiều thơng tin trên mạng là thơng tin có độ tin cậy khơng cao vì
khơng có khả năng kiểm chứng.
Chính vì vậy, trong xu thế của thời đại, đài truyền hình Việt Nam
càng cần phải coi trọng tiêu chí này.



5.2.2 Tính thời sự
Hiện nay, truyền hình Việt Nam đã có sự thay đổi rất nhiều về
phương thức làm việc của nhà báo so với trước kia, đặc biệt là chuyên mục
thời sự. Tuy nhiên để ngày càng đứng vững và phát triển, các chuyên mục
khác của đài truyền hình Việt Nam cũng phải quan tâm đến tiêu chí này chứ
khơng thể để tình trạng nhiều chun mục thực hiện song lâu rồi mới đem
phát trên truyền hình. Nhất là để cạnh tranh với các báo mạng, đài truyền
hình Việt Nam nên tạo điều kiện để các phóng viên đài mình có cách tác
nghiệp như cách tác nghiệp của đài truyền hình CNN đã nêu ở trên. Có như
vậy truyền hình Việt Nam mới có thể cạnh tranh được với các loại truyền
thơng đa phương tiện về tính thời sự của thơng tin.
5.2.3 Tính hấp dẫn
Đây là một tiêu chí hết sức quan trọng và là một tiêu chí khơng thể
thiếu với bất cứ loại hình văn hố nghệ thuật nào. Một tác phẩm báo chí
cho dù có chân thật, có thời sự đến mấy mà lại khơng hấp dẫn cơng chúng
thì sẽ khơng bao giờ có thể tồn tại được. Trong khi đó, tiêu chí này thì lại
phụ thuộc rất nhiều vào khả năng thể hiện tác phẩm của nhà báo nói chung
và nhà báo truyền hình nói riêng. Để làm được điều này, người làm báo
truyền hình phải không ngừng học hỏi, trau dồi kinh nghiệm và ngày càng
phải đổi mới mình, đặc biệt là phải đọc nhiều các tác phẩm văn học để thể
hiện tốt hơn nữa các tác phẩm của mình. Ngồi ra, nhà báo truyền hình nói
riêng và các nhà báo khác nói chung phải có một tinh thần lăn xả vào cuộc
sống để tìm ra càng nhiều đề tài mới lạ để phục vụ cơng chúng. Có sự gắn
kết với cuộc sống, trải nghiệm trong cuộc sống, nhà báo truyền hình mới có
thể đem đến những tác phẩm hay cho cơng chúng được. Đó mới là những
chất liệu của cuộc sống, chất liệu mang tính thời sự, chất liệu hấp dẫn



người xem. Đó là yếu tố bắt buộc với nghề báo mà còn là yếu tố đảm bảo
cho vai trò của nhà báo nói chung nhà báo truyền hình nói riêng

KẾT LUẬN

Khơng phủ nhận, truyền hình đang phải đối mặt với rất nhiều thách
thức và khó khăn. Tuy nhiên, nói như thế khơng có nghĩa truyền hình
khơng cịn chỗ đứng trong mối tương quan với các loại hình truyền thơng
khác.
Lịch sử đã chứng minh, truyền hình đã có những bước tiến vượt bậc
từ chất lượng hình ảnh, đến nội dung cung cấp thơng tin. Số lượng các Đài
truyền hình tăng lên chóng mặt. Song song với nó là chất lượng cũng được
thay đổi, cơ bản đáp ứng được yêu cầu, thị hiếu của công chúng.
Với với kiến thức nhất định, tiểu luận này chắc chắn khơng tránh
khỏi những thiếu sót. Vì thế, tác giả rất mong có được sự góp ý của thầy cô
giáo để tiểu luận thêm chỉnh.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo chí truyền thơng và kinh tế, văn hố và xã hội, Lê Thanh Bình, NXB
Văn hố Thơng tin 2005.
2. Viết cho độc giả- Loic Hervoet- Hội nhà báo Việt Nam 1999
3. Sức mạnh của truyền thơng, Micheal Schudson, NXB Chính trị Quốc
gia, 2003
4. Báo chí và Ngoại giao, Dương Văn Quảng, NXB Thế giới, 2002.
5. Truyền thơng đại chúng, Tạ Ngọc Tấn, NXB Chính trị Quốc gia, 2002.
6. Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Đại học Quốc gia, 2005.
7. Truyền thông theo dấu lịch sử truyền thông, NXB Kim Đồng, 2002.
8. Những vấn đề của báo chí hiện đại, TS Hồng Đình Cúc, TS Đức Dũng,

NXB Lý luận chính trị, 2007.


MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU

Trang

NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
LỊCH SỬ TRUYỀN HÌNH…………..

4

1. Truyền hình là gì:……………………………………….

4

2. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển……………..

4

3. Các hệ truyền hình……………………………………..

5

4. Truyền hình hiện đại…………………………………..

6


CHƯƠNG 2:……….

8

XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA TRUYỀN HÌNH
1. Nhận định chung về xu hướng của truyền hình trong thời truyền thơng
đa phương tiện

…………………………………………………...

8

2. Truyền hình trước sự cạnh tranh khốc liệt với loại hình truyền thơng đa
phương tiện…………………………………………………..

11

3. Giải pháp của các hãng truyền truyền hình trong thời truyền thơng đa
phương tiện…………………………………………………

12

4. Xu thế của truyền hình …………………………………..

14

5. Một vài nhận định về đài truyền hình Việt Nam trong thời truyền thông
đa phương tiện………………………………………………

15


KẾT LUẬN …………………………………………………

20



×