Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần thương mại xi măng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.16 KB, 65 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Các doanh nghiệp hiện nay hoạt động kinh doanh trong điều kiện của nền
kinh tế mở, với xu thế quốc tế hoá ngày càng cao, nhất là trong bối cảnh Việt Nam
đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO cho nên sự cạnh tranh trên thị
trường trong và ngoài nước ngày càng mạnh mẽ. Do vậy nhu cầu vốn cho hoạt
động kinh doanh, cho đầu tư phát triển ngày càng lớn, điều đó đòi hỏi doanh
nghiệp phải huy động cao độ không những nguồn vốn bên trong mà phải tìm cách
huy động nguồn vốn bên ngoài, đồng thời phải bảo đảm sử dụng vốn một cách có
hiệu quả nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư và phát triển, trên cơ sở tôn trọng các
nguyên tắc tài chính, tín dụng.
Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế đất nước, với chủ trương phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng
XHCN, các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
đồng thời có trách nhiệm bảo toàn vốn, sử dụng vốn của mình có hiệu quả. Nhờ đó,
nhiều doanh nghiệp đã thích nghi kịp thời với tình hình mới, hiệu quả sản xuất
kinh doanh tăng lên rõ rệt và trở thành các doanh nghiệp lớn của đất nước. Song
bên cạnh đó có không ít các doanh nghiệp còn lúng túng trong hoạt động quản lý,
sản xuất kinh doanh, làm ăn thua lỗ kéo dài, doanh thu không đủ bù chi phí bỏ ra,
không bảo toàn được vốn dẫn tới phá sản. Thực tế này do nhiều nguyên nhân, một
trong các nguyên nhân quan trọng là năng lực tổ chức quản lý và sử dụng vốn của
doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn còn quá thấp. Vấn đề huy
động và sử dụng vốn của doanh nghiệp hiện nay là vấn đề rất bức thiết. Doanh
nghiệp cần xác định được mình đang thừa hay thiếu vốn, nên đầu tư vào đâu để
đồng vốn sinh lợi tốt nhất. Ý thức được điều này, doanh nghiệp sẽ tìm ra được các
giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn phù hợp nhất với mình, tránh được những
bất cập trong công tác quản lý và tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp trong giai
đoạn hiện nay.
1
Từ những lí do nêu trên tôi đã quyết định chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn tại công ty cổ phần thương mại xi măng” để tìm hiểu chi tiết thực
trạng sử dụng vốn ở doanh nghiệp vừa và nhỏ và tìm ra giải pháp khắc phục.


Nội dung chuyên đề được phân chia thành 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn trong doanh
nghiệp
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần
thương mại xi măng
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ
phần thương mại xi măng
Qua thời gian thực tập tại công ty cổ phần thương mại xi măng được sự giúp
đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn và ban lãnh đạo công ty, cùng với những kiến
thức, lý luận đã được trang bị trong Nhà trường tôi đã từng bước vận dụng vào tìm
hiểu tình hình thực tế của công ty cổ phần thương mại xi măng, đồng thời từ những
thực tế đó bổ xung và rút ra kinh nghiệm quý báu cho bản thân. Qua đó càng thấy
rõ được tầm quan trọng và bức thiết của vấn đề quản lý và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của các doanh nghiệp nói chung và của công ty cổ phần thương mại xi
măng.
Tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới ban lãnh đạo công ty, đặc biệt là PGS –
TS Đàm Văn Huệ đã giúp đỡ tôi hoàn thành tốt chuyên đề này.
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về vốn của doanh nghiệp
1.1.1. Các khái niệm
Theo quan điểm của Marx, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là
một đầu vào của quá trình sản xuất.
Theo các nhà kinh tế học hiện đại: Vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài
sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Vốn và tài sản là hai mặt giá trị và hiện vật
của một bộ phận nguồn lực sản xuất mà doanh nghiệp huy động vào quá trình sản
xuất kinh doanh của mình.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là toàn bộ những

giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp nhằm
tạo ra giá trị gia tăng.
Như vậy, vốn là yếu tố quan trọng nhất của mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh, nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lý và sử dụng có hiệu quả để bảo
toàn và phát triển vốn, đảm bảo cho doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh. Vì vậy, các
doanh nghiệp cần thiết phải nhận thức đầy đủ hơn về vốn cũng như những đặc
trưng của vốn.
1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của vốn
- Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định: Có nghĩa là vốn được
biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp.
- Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát
huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
- Vốn có giá trị về mặt thời gian.
3
- Vốn phải được gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô
chủ.
- Vốn được quan niệm như một hàng hoá và là một hàng hoá đặc biệt có thể
mua bán quyền sử dụng vốn trên thị trường.
- Không thể đồng nhất vốn và tiền. Tiền chỉ là một dạng biểu hiện của vốn và
tiền không nhất thiết phải là vốn.
1.1.3. Phân loại vốn
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để quản lý và sử dụng vốn một cách có
hiệu quả các doanh nghiệp đều tiến hành phân loại vốn. Tuỳ vào mục đích và loại
hình của từng doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp phân loại vốn theo các tiêu thức
và cách thức khác nhau. Hầu hết trong mọi doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hại bộ
phận: vốn chủ sở hữu và nợ, mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục
khác nhau tùy theo tính chất của chúng. Nhưng việc lựa chọn nguồn vốn trong các
doanh nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau mà nó phụ thuộc vào một loạt các

nhân tố như:
- Trạng thái của nền kinh tế.
- Ngành kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp
- Quy mô và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
- Trình độ khoa học-kỹ thuật và trình độ quản lý.
- Chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp.
- Thái độ của chủ doanh nghiệp.
- Chính sách thuế.v.v…
1.1.3.1. Phân loại theo nguồn hình thành
1.1.3.1.1.Vốn chủ sở hữu
Đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm
các bộ phận chủ yếu sau: vốn góp ban đầu, lợi nhuận giữ lại, tăng vốn bằng phát
hành cổ phiếu mới.
 Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp bắt đầu được thành lập bao giờ chủ
doanh nghiệp cũng phải bỏ ra một số vốn ban đầu nhất định. Hình thức sở
4
hữu của doanh nghiệp sẽ quyết định cách thức và tính chất tạo vốn của
doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư
của Nhà nước, chủ sở hữu của doanh nghiệp là Nhà nước. Tuy nhiên hiện
nay, một số công ty Nhà nước đã có một vài thay đổi về cơ chế quản lý vốn
và tài chính để phù hợp hơn với điều kiện thực tế.
Đối với doanh nghiệp, theo Luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải
bỏ ra một số vốn ban đầu cần thiết lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định mới
được phép xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân do
một cá nhân làm chủ thì vốn ban đầu sẽ do chủ doanh nghiệp bỏ ra và chủ
doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Với công
ty hợp danh, vốn ban đầu do các thành viên hợp danh góp, thành viên tham
gia quản lý và ra quyết định sẽ chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình.

Đối với công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có
vốn đầu tư nước ngoài… vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định
để thành lập công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty, chịu trách
nghiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mình nắm giữ. Tuy nhiên, đối với mỗi
công ty cổ phần tỷ lệ và quy mô góp vốn phụ thuộc nhiều và các yếu tố khác
nhau như luật pháp, đặc điểm nền kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu liên doanh… do
đó cách thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau.
 Nguồn vốn từ lợi nhuận giữ lại: Quy mô vốn ban đầu của doanh nghiệp là
rất quan trọng. Tuy nhiên, số vốn này thông cần phải tăng lên theo quy mô
phát triển của doanh nghiệp. Thông thường, các doanh nghiệp làm ăn có lãi
đều dùng lợi nhuận thu được của năm trước không chia cho các chủ sở hữu
mà giữ lại tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong
quá trình sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động càng hiệu quả thì
càng có cơ hội thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận giữ lại là một phương thức tạo nguồn tài
chính quan trọng và khá hấp dẫn đối với doanh nghiệp. Dùng nguồn vốn
này, doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc của doanh
nghiệp đối với bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách đầu
tư bằng lợi nhuận giữ lại do đó họ đặt ra mục tiêu lợi nhuận giữ lại đủ lớn để
đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng cao. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận giữ
lại chỉ có thể thực hiện được nếu doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có
lợi nhuận được phép tiếp tục đầu tư. Đối với các doanh nghệp Nhà nước,
việc tái đầu tư không chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh lời của doanh nghiệp
mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước.
Đối với các công ty cổ phần, việc giữ lại lợi nhuận tái đầu tư lại liên
quan đến một số yếu tố nhạy cảm khác. Khi công ty để lại lợi nhuận trong
5
năm cho tái đầu tư, tức là không dùng lợi nhuận đó để chia cổ phần, các cổ
đông sẽ không nhận được cổ tức, nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số vốn
cổ phần tăng lên của công ty. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ

cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác lại làm giảm tính thanh khoản và tính hấp
dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ ngắn hạn do cổ đông chỉ nhận được một phần
cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hoặc số lãi ròng không đủ hấp
dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút. Các chủ sở hữu doanh nghiệp tán
thành với việc giữ lại lợi nhuận mà không được chia vì thực tế họ kỳ vọng sẽ
thu được lợi nhuận cao hơn vào năm sau. Nếu đó là công ty tăng trưởng tốt
thì không nhận cổ tức là lựa chọn tốt nhất vì đầu tư vào công ty của mình là
tốt nhất và an toàn nhất so với việc nhận cổ tức và đầu tư vào nơi khác. Khi
giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, công ty cổ phần phải lưu ý đến một số
yếu tố có liên quan như: tổng lợi nhuận ròng trong kỳ, mức chia lãi trên một
cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của
thị giá cổ phiếu của công ty và hiệu quả của việc tái đầu tư.
 Phát hành cổ phiếu mới: trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh
nghiệp (trừ công ty tư nhân và công ty hợp danh) có thể tăng vốn chủ sở hữu
bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Đây là nguồn tài chính dài hạn rất quan
trọng để huy động vốn cho doanh nghiệp. Khi một công ty phát hành cổ
phiếu, đã thu được một nguồn vốn dài hạn rất lớn từ công chúng mà chỉ phải
chi trả cổ tức nếu công ty làm ăn có lãi. Mặc dù việc phát hành cổ phiếu có
nhiều ưu thế so với các phương thức huy động vốn khác, song doanh nghiệp
cũng cần phải cân nhắc đến khả năng bi sáp nhập, thâu tóm hoặc phát hành
cổ phiếu quá loãng sẽ làm giảm khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.
Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã ban hành quy định về giới hạn phát hành
nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch
chứng khoán. Lượng cổ phiếu tối đa được quyền phát hành gọi là vốn cổ
phiếu được cấp phép. Các doanh nghiệp có thể lựa chọn phát hành hai loại
cổ phiếu là cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu tiên.
Cổ phiếu phổ thông là cổ phiếu thông dụng nhất, điểm hình nhất. Nếu
một công ty chỉ được phép phát hành một loại cổ phiếu, nó sẽ lựa chọn phát
hành cổ phiếu phổ thông. Cổ phiếu phổ thông mang lại cho các cổ đông
những quyền lợi sau: quyền hưởng cổ tức, quyền mua cổ phiếu mới, quyền

biểu quyết. Ngoài ra cổ đông phổ thông còn có quyền pháp lý khác nữa đó là
quyền được kiểm tra sổ sách của công ty khi cần thiết, quyền được yêu cầu
đại hội đồng cổ đông bất thường… Sau khi phát hành, phần lớn các cổ phiếu
này nằm trong tay các nhà đầu tư. Những cổ phiếu này được gọi là cổ phiếu
đang lưu hành. Tuy nhiên, trong một số trường hợp công ty phát hành có thể
mua lại một số cổ phiếu của chính mình, số cổ phiếu này gọi là cổ phiếu
6
quỹ. Những cổ phiếu này tạm thời được coi như không lưa hành. Việc mua
vào hoặc bán ra các cổ phiếu này phụ thuộch vào các yếu tố như:
- Tình hình cân đối vốn và khả năng đầu tư của công ty.
- Tình hình biến động giá chứng khoán trên thị trường.
- Chính sách đối với việc sáp nhập và thôn tính công ty.
- Quy định của ủy ban chứng khoán Nhà nước.
- Mệnh giá và thị giá của cổ phiếu.
Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ
phiếu phát hành. Cổ phiếu ưu tiên dành cho cổ đông những ưu đãi hơn so
với cổ đông phổ thông. Kiểu ưu đãi truyền thống và phổ biến nhất là ưu đãi
về cổ tức. Cổ phiếu ưu đãi cổ tức được ấn định một tỷ lệ cổ tức tối đa so với
mệnh giá, thu nhập của cổ đông ưu đãi nói chung là cố định. Trong trường
hợp công ty không có khả năng trả theo cổ tức cố định công ty sẽ trả theo
khả năng có thể. Trong trường hợp công ty thanh lý tài sản, cổ đông ưu đãi
được ưu tiên nhận lại vốn trước cổ đông phổ thông nhưng sau người có trái
phiếu. Đổi lại những điều đó, cổ đông ưu đãi không được tham gia bỏ phiếu
quyết định những vấn đề quan trọng của công ty.
Cổ phiếu ưu tiên cũng có thể kèm theo những điều khoản để tăng
thêm tính hấp dẫn. Cổ phiếu ưu đãi cộng dồn quy định nếu chưa trả cổ tức
cho cổ đông ưu đãi thì coi như công ty còn mắc nợ cho tới khi có đủ lợi
nhuận để trả cho cổ đông ưu đãi, và tới khi đó cổ đông phổ thông mới nhận
dược cổ tức. Cổ phiếu ưu đãi tham dự cho phép cổ đông ưu đãi được chia sẻ
thành quả hoạt động của công ty khi công ty làm ăn phát đạt. Cổ phiếu ưu

đãi chuyển đổi cho phép cổ đông trong những điều kiện cụ thể có thể chuyển
đổi số cổ phiếu ưu đãi thành cổ phiếu thường, thường là trong điều kiện
công ty làm ăn phát đạt. Ngoài cổ phiếu ưu đãi về cổ tức, còn có thể có cổ
phiếu ưu đãi biểu quyết, hay được quyền đòi lại vốn góp.
1.1.3.1.2.Nợ và các phương thức huy động nợ
Trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, ngoài vốn do chủ sở hữu doanh nghiệp tự
tài trợ, doanh nghiệp còn huy động thêm các nguồn vốn vay để bổ sung cho quá
trình sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp cần tăng vốn trong quá trình sản xuất
kinh doanh thì chủ yếu là nhu cầu ngắn và trung hạn. Nguồn vốn vay đáp ứng rất
tốt và nhanh chóng nhu cầu đó của doanh nghiệp. Để bổ sung vốn, doanh nghiệp
có thể sử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và phát
hành trái phiếu.
 Tín dụng ngân hàng: Có thể nói nguồn tín dụng ngân hàng là một trong
những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ đối với các doanh nghiệp mà nó
còn quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trên thực tế, không
một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín
7
dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương
trường. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng dễ dàng huy động, nhanh chóng, tiện
lợi và có thể huy động cùng lúc một lượng vốn rất lớn. Tuy nhiên nguồn vốn
này cũng có những hạn chế nhất định đó là các hạn chế về điều kiện tín
dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn.
Doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương mại cần đáp ứng
được những yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng
trước tiên đánh giá hồ sơ xin vay vốn, đánh giá kế hoạch sử dụng vốn vay…
Ngoài ra doanh nghiệp còn phải xuất trình giấy tờ, hồ sơ có liên quan và các
thông tin mà ngân hàng yêu cầu.
Khi doanh nghiệp đi vay vốn tại ngân hàng, ngân hàng thường yêu
cầu doanh nghiệp phải có các bảo đảm tiền vay, phổ biến nhất là tài sản thế
chấp. Điều kiện tín dụng này đôi khi là trở ngại rất lớn để doanh nghiệp có

thể tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng.
Một khi doanh nghiệp được ngân hàng chấp nhận cho vay vốn, thì
doanh nghiệp cũng chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình
hình sử dụng vốn vay. Khi doanh nghiệp vay vốn, doanh nghiệp phải cam
kết trả một mức lãi suất cho ngân hàng. Lãi suất này phụ thuộc vào tình hình
thực tế trên thị trường tài chính. Nhưng nếu lãi suất này quá cao sẽ làm giảm
đáng kể lợi nhuận của doanh nghiệp.
 Tín dụng thương mại: Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong
quan hệ mua bán chịu, trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn này có sức ảnh
hưởng to lớn đến các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Khi được trả
chậm, trả góp, mua bán chịu thì đồng thời doanh nghiệp đã lợi dụng được
một số vốn nhất định từ người cung cấp dịch vụ và hàng hóa một khoản nhất
định. Trong một số doanh nghiệp, nguồn vốn này có thể lên đến 20 thậm chí
40% tổng nguồn vốn.
Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn tín dụng thương mại là một
phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh. Hơn nữa nó
còn tạo quan hệ hợp tác làm ăn lâu dài giữa các đối tác. Điều kiện ràng buộc
cụ thể có thể được ấn định khi các bên ký kết hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên
cần nhận thức rõ tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy
mô tài trợ quá lớn.
Chi phí của nguồn tín dụng được thể hiện qua lãi của khoản vay. Đối
với tín dụng thương mại thì chi phí này sẽ được tính vào giá thành sản phẩm
hay dịch vụ tùy thuộc vào quan hệ thỏa thuận giữa các bên. Hiện nay, xu
hướng chung của Việt Nam cũng như thế giới, các hình thức tín dụng ngày
càng được đa dạng hóa và linh hoạt hơn, cạnh tranh hơn giúp doanh nghiệp
có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của mình.
8
 Phát hành trái phiếu: Trái phiếu là tên chung của giấy tờ vay nợ dài hạn và
trung hạn. Trái phiếu là một công cụ nợ đòi hỏi người phát hành (người đi
vay) hoàn trả cho người cho vay ( người đầu tư) khối lượng vốn đã vay cộng

thêm tiền lãi trong thời gian nhất định. Các doanh nghiệp khi muốn phát
hành trái phiếu cần hiểu rõ đặc điểm, ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu
Việc lựa chọn loại trái phiếu là rất quan trọng vì nó có liên quan đến chi phí
trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu.
Việc lựa chọn phải rất kỹ lưỡng sao cho phù hợp nhất với điều kiện của
doanh nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính. Trái phiếu công ty có rất
nhiều loại:
Trái phiếu có đảm bảo: đó là những trái phiếu được đảm bảo bặng
những tài sản cụ thể. Người nắm giữ trái phiều này được đảm bảo ở mức đọ
cao trong trường hợp công ty phá sản vì họ có quyền đòi nợ đối với một tài
sản cụ thể. Tài sản thế chấp thường là các bất động sản, thiết bị, máy móc…
Trái phiếu tín chấp: là trái phiếu không có tài sản đảm bảo mà bảo
đảm bằng uy tín của công ty. Nếu trong trường hợp công ty phá sản thì
người nắm giữ trái phiếu này được giải quyết trước các cổ đông nhưng sau
các trái chủ có đảm bảo.
Trái phiếu có lãi suất thả nổi: loại trái phiếu này quy định cứ sau một
khoảng thời gian (6 tháng, 1 năm, 2 năm…) thì ấn định lại lãi suất theo thị
trường. Loại trái phiếu này thường được phát hành trong thời điểm nền kinh
tế đang có nhiều biến động về lãi suất.
Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu được sử dụng nhiều
nhất, phổ biến nhất trong các loại trái phiếu công ty. Việc thanh toán lãi trái
phiếu cũng thường được quy định rõ ví dụ trả hàng năm hay trả hai lần một
năm… Với loại trái phiếu này, cả người đi vay và người cho vay đều biết rõ
mức lãi suất của khoản nợ trong suốt kỳ hạn của trái phiếu.
Trái phiếu có thể mua lại: là loại trái phiếu cho phép người vay trong
những điều kiện nhất định có thể mua lại toàn bộ hay một phần những trái
phiếu đã phát hành, tức là trả lại vốn cho người vay trước hạn định.
Trái phiếu có thể bán lại: cho phép người mua trái phiếu trong những
điều kiện nhất định có thể bán lại trái phiếu cho người phát hành trước khi
đáo hạn. Việc bán lại sẽ phá vỡ dự kiến về các dòng thanh toán nhận được từ

trái phiếu trong điều kiện bình thường.
Trái phiếu có thể chuyển đổi: cho phép người mua trái phiếu trong
những điều kiện nhất định có thể đổi trái phiếu lấy cổ phiếu thường thêo một
tỷ lệ đã được ấn định.
1.1.3.2. Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển
1.1.3.2.1.Vốn cố định của doanh nghiệp
9
Trong doanh nghiệp việc mua sắm hay lắp đặt các tài sản cố định đều phải
thanh toán chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay
lắp đặt tài sản cố định hữu hình hay vô hình gọi là vốn cố định của doanh nghiệp.
Nói cách khác, vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư
ứng trước về tài sản cố định của doanh nghiệp. Số vốn này nếu được sử dụng có
hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ sản
phẩm hàng hoá hay dịch vụ của mình. Quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ qui
định đến quy mô của tài sản cố định, ngược lại những đặc điểm vận động của tài
sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm
tuần hoàn và chu chuyển vốn cố định.
Đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh:
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm. Có đặc điểm
này là do tài sản cố định tham gia trực tiếp hay gián tiếp và phát huy tác
dụng trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì vậy vốn cố định là hình thái biểu hiện
bằng tiền của tài sản cố định cùng tham gia vào các chu kỳ tương ứng.
- Vốn cố định được luân chuyển giá trị dần dần từng phần trong các chu kỳ
sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất tài sản cố định không bị thay
đổi hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng và công suất của nó bị giảm
dần tức là nó bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá
trị của nó cũng bị giảm đi theo đó, vốn cố định được tách thành hai bộ
phận:
 Bộ phận thứ nhất tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố định được
luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức chi

phí khấu hao và được tích luỹ thành quỹ khấu hao, sau khi sản phẩm
hàng hoá được tiêu thụ, quỹ khấu hao này sẽ được sử dụng để tái sản
xuất tài sản cố định nhằm duy trì năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
 Bộ phận thứ hai đó chính là phần còn lại của vốn cố định được gọi là
giá trị còn lại của tài sản cố định.
Sau mỗi một chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm
dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định lại dần giảm xuống
tương ứng với mức giảm dần giá trị sử dụng của tài sản cố định. Kết thúc quá trình
10
vận động đó cũng là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng giá trị của nó được
dịch chuyển hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất, và khi đó vốn cố định mới hoàn
thành một vòng luân chuyển.
Trong các doanh nghiệp, vốn cố định là bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng
tương đối lớn trong vốn đầu tư nói riêng, vốn sản xuất kinh doanh nói chung. Do ở
một vị trí then chốt và đặc điểm luân chuyển của nó lại tuân theo quy luật riêng,
nên việc quản lý vốn cố định đòi hỏi phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái
hiện vật của nó là các tài sản cố định vì điều này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh các tư liệu lao động mà bộ phận quan trọng nhất là tài sản cố định
để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp còn cần có các đối tượng lao
động. Khác với tư liệu lao động, các đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu
kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái hiện vật ban đầu, giá trị của nó được
dịch chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm.
Vậy nếu xét về hình thái hiện vật thì các đối tượng lao động trên gọi là các tài
sản lưu động, còn về hình thái giá trị thì được gọi là vốn lưu động của doanh
nghiệp.
1.1.3.2.2.Vốn lưu động của doanh nghiệp
Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh
ứng trước về tài sản lưu động sản xuất và nó nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành một cách thường xuyên liên tục.

Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động, nên đặc điểm vận động của vốn
lưu động luôn chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động. Trong các
doanh nghiệp tài sản lưu động bao gồm các loại nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng
thay thế, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, đang trong quá trình dự trữ sản
xuất hoặc chế biến còn tài sản lưu động ở khâu lưu thông bao gồm các sản phẩm,
thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các tài khoản vốn trong thanh
toán, các khoản chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước, Trong quá trình sản
xuất kinh doanh các tài sản lưu động luôn vận động thay thế hoặc đổi chỗ cho nhau
đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành thuận lợi.
11
Khác với tài sản cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh tài sản lưu động
của doanh nghiệp luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm hàng
hoá và do đó phù hợp với đặc điểm của tài sản lưu động, vốn lưu động của doanh
nghiệp cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự
trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và thường
xuyên lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn của vốn lưu động.
Trong quá trình vận động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, qua
mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, vốn lưu động lại thay đổi hình thái biểu hiện
từ hình thái tiền tệ ban đầu chuyển sang vốn hình thái vật tư hàng hoá dự trữ. Qua
giai đoạn sản xuất, vật tư được đưa vào chế tạo thành các bán thành phẩm và thành
phẩm sau khi sản phẩm được liên tục, vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ như
điểm xuất phát ban đầu của nó. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động mới
hoàn thành một vòng chu chuyển. Có thể thấy, trong cùng một lúc vốn lưu động
của doanh nghiệp được phân bố trên khắp các giai đoạn luân chuyển và chuyển hoá
hình thái của vốn trong quá trình luân chuyển được thuận lợi doanh nghiệp phải có
đủ vốn lưu động đầu tư vào các hình thái khác nhau.
1.1.4. Chi phí và cơ cấu vốn
1.1.4.1. Chi phí vốn
Bên phải của bảng cân đối kế toán là nguồn vốn của doanh nghiệp. Theo
cách phân chia phổ biến nhất hiện nay nguồn vốn bao gồm các khoản nợ và vốn

chủ sở hữu. Nợ bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn
huy động bằng cổ phiếu, lợi nhuận giữ lại, và có thể có thặng dư vốn cổ phần. Tỷ
trọng của các nguồn đó so với tổng nguồn vốn chính là cơ cấu vốn. Bất cứ một sự
tăng lên nào của tài sản đều được tài trợ bằng việc tăng lên của một hoặc nhiều yếu
tố cấu thành của tổng nguồn vốn. Như bất kỳ một nhân tố nào khác, để sử dụng
vốn, doanh nghiệp phải bỏ ra một chi phí nhất định. Có thể hiểu chi phí vốn là chi
phí cơ hội của việc sử dụng vốn được tính bằng số lợi nhuận kỳ vọng đạt được trên
vốn trên vốn đầu tư vào dự án hoặc doanh nghiệp để giữ không làm giảm số lợi
nhuận dành cho chủ sở hữu. Ví dụ doanh nghiệp A sử dụng số vốn 10 tỷ đồng đầu
tư vào một dự án, nếu 10 tỷ đó cho vay với lãi suất 10% thì 10% đó chính là chi
phí cơ hội của 10 tỷ.
12
1.1.4.1.1.Chi phí vốn chủ sở hữu
Chi phí của lợi nhuận giữ lại (K
s
): là tỷ lệ cổ tức mà người nắm giữ cổ phiếu
thường yêu cầu đối với dự án mà doanh nghiệp đầu tue bằng lợi nhuận không chia.
Lợi nhuận giữ lại thuộc về người nắm giữ cổ phiểu thường, phần lợi nhuận này để
bù đắp cho người nắm giữ cổ phiếu về việc doanh nghiệp sử dụng vốn của họ. Cổ
đông lẽ ra có thể nhận được cổ tức và đầu tư dưới dạng khác. Tỷ suất lợi nhuận mà
các cổ đông mong muốn trên phần vốn này chính là chi phí của nó, đó là lợi tức mà
người nắm giữ cổ phần mong đợi kiếm được từ những khoản đầu tư có rủi ro
tương đương. Khi doanh nghiệp muốn sử dụng lợi nhuận giữ lại để đầu tư vào dự
án thì dự án đó phải đạt được tỷ suất doanh lợi ít nhất bằng K
s
. Người ta không thể
tính ra chính xác mà chỉ có thể ước lượng chi phí vốn cổ phần ( K
s
).
Lợi tức yêu cầu = lợi tức mong đợi

K
s
= K
s
= D
1
/P
0
+g
D
1
: lợi tức kỳ vọng năm sau
P
0
: giá chứng khoán năm nay
g: tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp
Chi phí cổ phiếu thường mới (K
e
): muốn phát hành cổ phiếu thường mới phải
tính đến các cho phí như chi phí in ấn, chi phí quảng cáo, hoa hồng…Các chi phí
này tùy thuộc vào nhiều yếu tố và có thể chiếm tới 10% tổng giá trị phát hành. Vốn
huy động bằng phát hành cổ phiếu mới phải được sử dụng sao cho lợi tức của các
cổ đông cũ ít nhất không bị giảm. Ta có:
P
n
: giá thuần của một cổ phiếu
K
e
: chi phí của cổ phiếu mới
D

t
: cổ tức mong đợi năm thứ t
F: chi phí phát hành
P
n
= Tổng( D
t
/ (1+ K
e
)
t
)
Giá thuần mỗi cổ phiếu mới doanh nghiệp thu được là:
P
n
= P
0
( 1- f )
Ta có thể viết:
P
0
(1-f) = D
1
/( K
e
-g)
Từ đó chi phí của cổ phiếu mới sẽ là:
K
e
= ( D

1
/ P
0
( 1- f)) + g
Chi phí cổ phiếu ưu tiên (K
p
): được xác định bằng cách lấy cổ tức ưu tiên (D
p
)
chia cho giá phát hành thuần của cổ phiếu (P
n
) là giá mà doanh nghiệp nhận được
sau khi đã trừ chi phí phát hành.
K
p
= D
p
/P
n
1.1.4.1.2.Chi phí nợ vay
13
Chi phí nợ trước thuế (K
d
): được tính toán trên cơ sở nợ vay. Lãi suất này
thường được ấn định trong hợp đồng vay tiền
Chi phí nợ vay sau thuế K
d
(1-T): được xác định bằng chi phí nợ trước thuế trừ
đi khoản tiết kiệm thuế. Phần tiết kiệm này tính bằng chi phí nợ trước thuế nhân
với thuế suất (K

d
*T). Ví dụ nếu doanh nghiệp A vay tiền với lãi suất 10% và thuế
suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 38% thì chi phí nợ sau thuế là 6.2%
K
d
(1-T) = 10% (1-0.38) = 6.2%
Giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp mà ta muốn tối đa hóa phụ thuộc vào các
luồng tiền sau thuế. Vì vậy để so sánh được với nhau chúng ta phải quy tất cả các
chi phí vốn về chi phí sau thuế.
1.1.4.1.3.Chi phí trung bình của vốn (WACC)
Mỗi doanh nghiệp đều muốn đạt tới một cơ cấu vốn tối ưu nhằm mục đích tối
đa hóa giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đã thiết lập một cơ cấu
vốn tối ưu và coi đó là cơ cấu vốn mục tiêu, doanh nghiệp sẽ tài trợ sao cho đảm
bảo được cơ cấu vốn mục tiêu đó.
Tỷ lệ nợ, cổ phần ưu tiên, cổ phần thường và chi phí lợi nhuận giữ lại được sử
dụng để tính chi phí bình quân gia quyền của vốn.
WACC=W
d
*K
d
(1-T) +W
p
*K
p
+W
s
*K
s
W
d

: Tỷ trọng của nợ
W
p
: Tỷ trọng vốn cổ phần ưu tiên
W
s
: Tỷ trọng vốn cổ phần thường
1.1.4.1.4.Chi phí cận biên của vốn
Chi phí cận biên của bất kỳ một khoản mục nào là chi phí của một đơn vị tăng
thêm của khoản mục đó. Khái niệm như vậy cũng được áp dụng đối với vốn. Khi
doanh nghiệp cố gắng thu hút những đồng vốn mới, chi phí của mỗi đồng vốn tại
một thời điểm nào đó sẽ tăng lên. Vì vậy chi phí cận biên của vốn (MCC) được
định nghĩa như là chi phí của đồng vốn mới cuối cùng mà doanh nghiệp huy động
và chi phí cận biên sẽ tăng khi càng nhiều vốn được huy động trong một giai đoạn
nào đó.
Ví dụ công ty Y sử dụng 45% nợ vay, 2% cổ phiếu ưu tiên, 53% lợi nhuận
giữ lại thì: WACC = 45% x K
d
+ 2% x K
p
+ 53% x K
s
.
Giả sử K
d
= 6%, K
p
=10,3%, K
s
=13,4%. Khi đó WACC = 10% tức là chi phí

vốn trung bình bằng 10% hay là với tỉ lệ vốn 45:2:53 thì doanh lợi của doanh
nghiệp phải lớn hơn 10% thì mới có lãi.
Lợi nhuận giữ lại là một số hữu hạn nên công ty mở rộng huy động vốn đến
một giới hạn nào đó là hết lợi nhuận giữ lại khi đó công ty phải phát hành cổ phiếu
mới K
e
>K
s
và WACC sẽ tăng lên. Với K
e
= 14% thì:
WACC = 45% x 6% + 2% x 10.3% + 53% x 14% = 10,3%
14
Với WACC = 10,3% nếu doanh nghiệp muốn mở rộng thêm vốn thì cũng bị
giới hạn bởi nợ vay. Đến một giới hạn nào đó nếu doanh nghiệp muốn vay thêm thì
chi phí nợ vay là 8%:
WACC = 45% x 8% + 2% x 10,3% + 53% x 14% = 11,12%
Cứ như vậy nếu doanh nghiệp muốn tiếp tục mở rộng quy mô vốn thì WACC
phải nhỏ hơn doanh lợi của doanh nghiệp.
1.1.4.2. Cơ cấu vốn
Sau khi doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu và phân tích một số nhân tố liên
quan đến vốn, doanh nghiệp sẽ tiến hành thiết lập cơ cấu vốn hợp lý. Mục tiêu này
có thể thay đổi theo thời gian khi một hoặc nhiều điều kiện thay đổi. Chính sách cơ
cấu vốn liên quan tới mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro của doanh nghiệp.Việc
tăng sử dụng nợ làm tăng rủi ro đối với thu nhập và tài sản của chủ sở hữu, do đó
tất nhiên các cổ đông sẽ có xu hướng đòi hỏi một mức lợi tức đền bù cao hơn. Để
đạt được mục tiêu hóa giá trị tài sản của chủ doanh nghiệp, cơ cấu vốn tối ưu cần
đạt được sự cân bằng giữ rủi ro và lợi nhuận.
( đồ thị)
Có bốn nhân tố tác động đến những quyết định về cơ cấu vốn đó là:

- Rủi ro kinh doanh: đây là rủi ro tiềm ẩn trong tài sản của doanh nghiệp.
Rủi ro kinh doanh càng lớn thì tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp.
- Chính sách thuế: thuế thu nhập doanh nghiệp có tác động đến chi phí nợ
vay thông qua phần tiết kiệm nhờ thuế. Thuế suất cao sẽ khuyến khích
doanh nghiệp sử dụng nhiều nợ vay để tận dụng được phần tiết kiệm nhờ
thuế.
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp: khả năng tăng vốn hợp lý của doanh
nghiệp ngay cả trong điều kiện khó khăn sẽ giúp doanh nghiệp giữ được cơ
cấu vốn hợp lý và thể hiện được tình hình tài chính vững mạnh sẽ khiến
cho doanh nghiệp càng dễ dàng huy động vốn hơn.
- Quan điểm của nhà quản lý rất quan trọng: nếu nhà quản lý theo trường
phái “bảo thủ” thì họ sẽ ít sử dụng nợ vay, còn đối với nhà quản lý theo
phương pháp “ phóng khoáng” thì sẽ sử dụng nhiều nợ vay.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp
1.2.1. Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp
Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của
mỗi doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh của
15
doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai giác độ là
hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh nghiệp, người ta
chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù kinh tế phản ánh trình
độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi
phí hợp lý nhất. Do vậy các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn của doanh
nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì
thế việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt
buộc đối với doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được
hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và quản lý sử dụng vốn nói riêng.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh
trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lời tối đa
nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở

hữu.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu về khả
năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn, Nó phản ánh quan hệ
giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền
tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thực
hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí vốn
bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn có hai phương pháp để phân tích tài chính
cũng như phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đó là phương pháp so
sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ:
• Phương pháp so sánh:
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh
được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính
chất và đơn vị hạch toán ) và theo mục đích phân tích để chọn gốc so sánh. Gốc
so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được chọn là
kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được chọn là số tuyệt đối, số
tương đói, hoặc số bình quân.
• Phương pháp tỷ lệ:
16
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài
chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ lệ cố nhiên là sự biến đổi của
các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định
được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính của
doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ
tham chiếu.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp các tỷ lệ tài chính được phân thành
các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt
động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ
cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ
lệ về khả năng sinh lời Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ,

từng bộ phận của hoạt động tài chính, trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo
giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau phù
hợp với mục đích phân tích.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn
Các tỷ số khả năng thanh toán:
Tỷ số thanh toán ngắn hạn =
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Tỷ số khả năng thanh toán ngắn hạn là mối tương quan giữa tài sản lưu động
và các khoản nợ ngắn hạn. Tỷ số này cho thấy mức độ an toàn của công ty trong
việc đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.
Thông thường, tỷ số thanh toán ngắn hạn được kỳ vọng cao hơn 1.
Tỷ số thanh toán nhanh =
Tài sản lưu động - Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Tỷ số thanh toán nhanh đo lường khả năng của một công ty trong việc chi trả
các khoản nợ ngắn hạn bằng những tài sản có tính thanh khoản nhất.
17
Tỷ số này thích hợp cho việc đo lường khả năng thanh toán của những công
ty có vòng quay hàng tồn kho thấp. Một cách lý tưởng, tỷ số thanh toán nhanh ít
nhất bằng 1 đối với những công ty có vòng quay hàng tồn kho thấp và có thể thấp
hơn 1 đối với công ty với vòng quay hàng tồn kho nhanh với điều kiện công ty này
không gặp khó khăn về dòng tiền. Vấn đề quan trọng là cần phải xem xét xu hướng
của các tỷ số này để thấy được tính thanh khoản của công ty đang được cải thiện
hay đang giảm sút.
Tỷ số khả năng hoạt động:
Kỳ thu tiền bình quân =
Phải thu x 360 ngày
Doanh thu bán chịu


Kỳ thu tiền bình quân cho thấy khoảng thời gian trung bình cần thiết để một
công ty thu hồi các khoản nợ từ khách hàng. Xem xét xu huớng tăng giảm của kỳ
thu tiền bình quân qua các thời kỳ của một công ty là có hiệu quả nhất. Nếu kỳ thu
tiền bình quân tăng từ năm này qua năm khác cho thấy khả năng yếu kém trong
việc quản lý công nợ ở một công ty.
Số ngày vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho x 360 ngày
Giá vốn hàng bán
Số ngày vòng quay hàng tồn kho cho thấy khoảng thời gian trung bình hàng
tồn kho được lưu giữ. Sự tăng lên của vòng quay hàng tồn kho qua các năm cho
thấy sự chậm đi trong công việc kinh doanh hoặc tích trữ hàng tồn kho ở một công
ty đang tăng lên. Điều đó cũng có thể được hiểu rằng đầu tư vào hàng tồn kho đang
trên mức cần thiết.
Kỳ thanh toán tiền bình quân =
Phải trả x 360 ngày
Tổng giá trị hàng mua chịu trong năm
18
Kỳ thanh toán tiền bình quân cho thấy khoảng thời gian trung bình của một
công ty trong việc thanh toán các khoản nợ với nhà cung cấp. Sự gia tăng kỳ thanh
toán tiền bình quân qua các năm là dấu hiệu của việc thiếu hụt vốn đầu tư dài hạn
hoặc khả năng quản lý tài sản lưu động yếu kém. Đó là kết quả của việc gia tăng
các khoản phải trả nhà cung cấp, gia tăng hạn mức thấu chi tại ngân hàng.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính
của doanh nghiệp, không thể nói tình hình tài chính của doanh nghiệp là không tốt
nếu khả năng thanh toán ngắn hạn lớn. Nhưng khả năng thanh toán ngắn hạn lớn
có thể do: các khoản phải thu (tức nợ không đòi được hoặc không dùng để bù trừ
được) vẫn còn lớn, hàng tồn kho lớn (tức nguyên vật liệu dự trữ quá lớn không
dùng hết và hàng hóa, thành phẩm tồn kho không bán được không đối lưu được)
tức là có thể có một lượng lớn tài sản lưu động tồn trữ lớn, phản ánh việc sử dụng
tài sản không hiệu quả, vì bộ phận này không vận động không sinh lời Và khi đó

khả năng thanh toán của doanh nghiệp thực tế sẽ là không cao nếu không muốn nói
là không có khả năng thanh toán.
Mặt khác, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn có thể được hình thành từ vốn
vay dài hạn như tiền trả trước cho người bán; hoặc được hình thành từ nợ khác
(như các khoản ký quỹ, ký cược…) hoặc được hình thành từ nguồn vốn chủ sở
hữu. Chính vì thế có thể vốn vay ngắn hạn của doanh nghiệp nhỏ nhưng nợ dài hạn
và nợ khác lớn. Nếu lấy tổng tài sản lưu động chia cho nợ ngắn hạn để nói lên khả
năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp thì chẳng khác gì kiểu dùng nợ để
trả nợ vay. Chính vì vậy, không phải hệ số này càng lớn càng tốt. Tính hợp lý của
hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, ngành nghề nào có tài sản lưu
động chiếm tỷ trọng cao như thương mại trong tổng tài sản thì hệ số này cao và
ngược lại.
Cơ cấu vốn và khả năng thanh toán dài hạn:
Nợ dài hạn/VCP=
Nợ dài hạn
Vốn cổ phần
Tỷ số này cho biết cứ 1 đồng vốn tài trợ bởi các cổ đông thì có bao nhiêu đồng
vốn được tài trợ bởi nợ dài hạn.
Tổng nợ/VCP=
Tổng nợ
19
Vốn cổ phần
Tỷ số này cho biết cứ 1 đồng vốn tài trợ bới các cổ đông thì có bao nhiêu đồng
được tài trợ bởi các chủ nợ.
Đòn cân nợ =
Tổng nợ dài hạn
Tổng vốn cổ phần + Tổng nợ dài hạn
Tỷ số này liên quan đến cơ cấu vốn dài hạn của một công ty và được dùng để
xác định mức độ rủi ro liên quan đến việc nắm giữ vốn cổ phần trong một công ty.
Một công ty với đòn cân nợ cao thì có rủi ro gặp phải sự đi xuống trong chu

trình kinh doanh bởi vì công ty đó phải tiếp tục trả các khoản nợ cho dù doanh số
đang giảm sút. Một công ty với tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao có thể cho thấy tình hình
tài chính vững mạnh, tuy vậy công ty này lại phải đối mặt với áp lực lợi nhuận trên
số vốn đầu tư của cổ đông.
Khả năng sinh lời:
Khả năng sinh lời cơ bản của TS =
EBIT
Tổng tài sản

Tỷ suất này cho biết khả năng sinh lời để chi trả lãi vay, nộp thuế, trả cổ tức
của tài sản.
ROCE =
EBIT
Nguồn vốn dài hạn
Tỷ số ROCE cho thấy hiệu quả và khả năng sinh lời từ trong việc sử dụng
vốn đầu tư của một doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên có tỷ số ROCE lớn hơn mức
lãi suất đi vay, nếu không sự gia tăng vốn vay sẽ làm giảm thu nhập của cổ đông.
20
Doanh lợi doanh thu = Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu
Tỷ số này cho biết một đồng doanh thu đem về bao nhiêu đồng lợi nhuận
sau thuế.
Doanh lợi tổng tài sản (ROA) =
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản
Tỷ suất này cho biết hiệu quả sử dụng của tài sản. Cứ một đồng vốn đầu tư
vào tài sản thì đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) =
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu

Tỷ suất này cho biết cứ một đồng vốn chủ sở hữu đầu tư sẽ tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế.
Nhóm tỷ số này có thể cho ta thấy khả năng quản lý chi phí của doanh
nghiệp. Nếu doanh nghiệp quản lý tốt chi phí sẽ tạo ra được khả năng sinh lời cao
hơn các doanh nghiệp khác cùng ngành đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh hết
sức khốc liệt.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
1.2.3.1. Đặc điểm chung của nền kinh tế
Kinh tế Việt Nam thời gian trước vốn là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
đông dân và chậm phát triển, đã từng phải trải qua những cuộc chiến tranh liên tiếp
kéo dài. Kể từ năm 1986, Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, xóa bỏ
bao cấp và từng bước chuyển dịch sang nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh
tế dần thoát khỏi khủng hoảng và đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Sau năm 1986, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển to lớn và đạt
được tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 9% hàng năm từ 1993 đến
1997. Năm 1998, tăng trưởng GDP giảm xuống 4% do ảnh hưởng của cuộc khủng
21
hoảng kinh tế châu Á năm 1997, sau đó lại tăng lên đến 4,8% năm 1999. Trong
những năm 2000-2003, tăng trưởng GDP tăng từ 6% đến 7% trong khi tình hình
kinh tế thế giới đang suy thoái. Năm 2004, mức tăng GDP là 7,7% và năm 2005 là
8,4%, trong đó khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4%, khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng 11% và khu vực dịch vụ tăng 8%. Nền kinh tế Việt
Nam đang diễn ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách rõ rệt, khu vực nông
nghiệp đã giảm từ 21,7% năm 2004 xuống 19% năm 2005 trong khi khu vực công
nghiệp và dịch vụ tăng từ 40,1% năm 2004 lên 41% và khu vực dịch vụ tăng từ
38,2% lên 39%. Tuy nhiên, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu của IMF, Charles
Collyns nói thêm rằng Việt Nam cũng đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề. Lạm
phát đang tăng lên cho dù kinh tế tăng trưởng mạnh. Các vấn đề về cơ cấu cũng là
một mối quan ngại lớn. Việt Nam gia nhập WTO đã đem lại rất nhiều cơ hội phát

triển cho Việt Nam nhưng chính việc gia nhập này lại đặt ra nhiều vấn đề lớn cho
nền kinh tế. Những thay đổi lớn lao của nền kinh tế đã và đang hàng ngày hàng giờ
tác động trực tiếp đến các chính sách quản lý, hiệu quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
1.2.3.2. Đặc điểm ngành
Mỗi một ngành kinh doanh khác nhau đều mang trong mình những yếu tố đặc
trưng khác nhau. Không thể đánh đồng ngành khai khoáng với ngành sản xuất,
cũng như không thể đánh đồng ngành sản xuất với ngành thương mại. Ngành khai
khoáng chẳng hạn, các chủ doanh nghiệp nên chú trọng đầu tư tới tài sản cố định
nhằm tận dụng được sức sản xuất, nâng cao sản lượng từ đó tăng thu nhập cho
doanh nghiệp. Nhưng ở ngành thương mại, nếu các chủ doanh nghiệp lại chú trọng
đầu tư vào tài sản cố định thì khả năng sinh lời sẽ giảm đi, doanh nghiệp không tận
dụng được tính linh hoạt trong kinh doanh và không tận dụng được hết sức sản
xuất của tài sản cố định. Đặc điểm của ngành sẽ quy định các đặc thù về phương
thức quản lý khác nhau giữa các ngành.
1.2.3.3. Đặc điểm mặt hàng kinh doanh
Mặt hàng kinh doanh có tác động rất lớn đến phương thức kinh doanh cũng
như cách thức sử dụng vốn. Thị trường tiêu thụ sản phẩm có tác động to lớn đối
với doanh thu của doanh nghiệp. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp là thực phẩm
hoặc hàng dệt may, thị trường tiêu thụ phụ thuộc rất nhiều vào thị hiếu người tiêu
dùng hoặc theo mùa; do đó phương thức kinh doanh và phương pháp quản lý vốn
sẽ rất khác so với doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng.
1.2.3.4. Trình độ quản lý và sử dụng vốn
22
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp. Công cụ chủ yếu để theo dõi, quản lý sử dụng vốn là hệ thống công tác kế
toán - tài chính. Công tác kế toán thực hiện tốt sẽ đưa ra các số liệu chính xác giúp
cho lãnh đạo nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung cũng như
việc sử dụng vốn nói riêng từ đó ra quyết định quản lý đúng đắn. Vì vậy thông qua
công tác kế toán mà thường xuyên kiểm tra tình hình sử dụng vốn của doanh

nghiệp, sớm tìm ra những điểm tồn tại để có biện pháp giải quyết.
Mặt khác, nếu một doanh nghiệp chú trọng đến công tác sử dụng vốn, doanh
nghiệp đó sẽ đầu tư đến chất lượng các quyết định quản lý từ đó nâng cao trình độ
của đội ngũ quản lý trong doanh nghiệp. Trình độ quản lý tốt thì doanh nghiệp đó
sẽ có nền tài chính vững mạnh. Điều đó thể hiện ở hiệu quả kinh doanh, doanh
nghiệp sẽ vẫn dễ dàng huy động vốn mở rộng sản xuất kinh doanh ngay cả khi thị
trường có những biến động bất lợi. Ngoài ra, doanh nghiệp đó còn tự chủ hơn về
vấn đề tài chính, ít chịu ảnh hưởng xấu của nền kinh tế, tận dụng được cơ hội mà
môi trường kinh doanh lành mạnh mang lại.
1.2.3.5. Chính sách của Nhà nước
Vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là điều tất yếu, các
chính sách vĩ mô và vi mô của Nhà nước tác động một phần không nhỏ tới hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Từ cơ chế giao vốn, đánh giá tài sản cố định,
sự thay đổi các chính sách thuế, chính sách tín dụng, bảo hộ và khuyến khích nhập
một số loại nhất định đến các quy định của Nhà nước về phương hướng, định
hướng phát triển của các ngành nghề kinh tế đều có thể làm tăng hoặc giảm hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu Nhà nước khuyến khích tăng trưởng một
ngành nghề nào đó, Nhà nước sẽ đầu tư vốn để phát triển ngành, nhờ đó các doanh
nghiệp trong cùng một ngành dễ dàng huy động vốn hơn. Nếu Nhà nước tăng thuế
thu nhập doanh nghiệp sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tăng sử dụng vốn vay để
tận dụng được phần tiết kiệm nhờ thuế. Chỉ một phần rất nhỏ trong chính sách của
Nhà nước cũng có những tác động to lớn tới nền kinh tế quốc dân nói chung và các
ngành nghề nói riêng. Do đó, các chính sách Nhà nước khi được soạn thảo để đưa
vào áp dụng cũng đều thu hút được sự chú ý của toàn bộ nền kinh tế và đều cần
phải được nghiên cứu kỹ lưỡng.
23
1.2.4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong cơ chế thị trường
Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều
mục tiêu và tuỳ thuộc vào giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có những mục tiêu
được ưu tiên thực hiện nhưng tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá giá

trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn tại và
phát triển được.
Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động
kinh doanh có hiệu quả, một trong các yếu tố có tính chất quyết định đến hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp là việc huy động và sử dụng vốn như thế nào.
Trong nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh là quy luật của thị trường, nó cho
phép tận dụng triệt để mọi nguồn lực của doanh nghiệp và của toàn xã hội vì nó
khiến cho doanh nghiệp phải luôn tự đổi mới, hạ giá thành, tăng năng suất lao
động, cải tiến mẫu mã chất lượng sản phẩm để có thể đứng vững trên thương
trường và làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn có vị trí quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh
nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn đề
cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp
đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu quả sẽ
giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng huy động các nguồn vốn tài trợ dễ dàng hơn,
khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đảm bảo, doanh nghiệp có đủ tiềm lực
để khắc phục những khó khăn và một số rủi ro trong kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh
tranh. Để đáp ứng các yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm,
đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm, doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của
doanh nghiệp chỉ có hạn vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là rất cần thiết.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng
giá trị tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao
uy tín sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người lao động, Vì khi
hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô
sản xuất tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao
động cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó giúp cho năng suất lao động của
doanh nghiệp ngày càng nâng cao, tạo sự phát triển cho doanh nghiệp và các ngành
liên quan. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách Nhà

nước.
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không những
đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó còn ảnh
24
hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế và toàn xã hội. Do đó, các doanh nghiệp
phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
Qua việc phân tích trên đây, có thể thấy rõ sự cần thiết mang tính tất yếu
khách quan phải bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp.
Để thực hiện được vấn đề này một trong các phương pháp hết sức quan trọng là
các doanh nghiệp phải thiết lập và nghiên cứu các đặc trưng tài chính của doanh
nghiệp thông qua các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI XI MĂNG
2.1. Giới thiệu chung về công ty
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Trong những năm gần đây,đất nước ta đổi mới và phát triển rất mạnh mẽ.
Đất nước đang trong thời kì Công Nghiệp Hóa – Hiện Đại Hóa, thể hiện qua kiến
trúc hạ tầng đô thị thay đổi từng ngày. Trong bối cảnh đó thì nhu cầu xây dựng nổi
lên là vấn đề cấp thiết,do đó nhu cầu về xi măng và các thiết bị xây dựng ngày
càng tăng cao.
25

×