Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần vật liệu xây dựng Thái Bình.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.03 KB, 85 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được coi như là những tế
bào của xã hội mà sự tồn tại và phát triển của chúng đóng vai trò quan trọng
đối với nền kinh tế quốc dân. Đối với các doanh nghiệp nói chung và công ty
cổ phần vật liệu xây dựng Thái Bình nói riêng thì sự phát triển của nó phụ
thuộc rất lớn vào hoạt động tài chính của bản thân doanh nghiệp hay nói cách
khác là phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp
mình. Bởi vậy, trên cơ sở thực hiện các biện pháp chủ yếu về đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế của nhà nước, đảm bảo quyền tự chủ và độc lập về mặt tài
chính đòi hỏi tất cả các doanh nghiệp phải có các biện pháp hợp lý sử dụng
nguồn vốn của mình một cách có hiệu quả nhất. Hiệu quả sử dụng vốn cao
hay thấp sẽ quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong
môt trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay.
Cũng như nhiều doanh nghiệp khác, công ty cổ phần vật liệu xây dựng
Thái Bình đang phải đương đầu với những khó khăn về sản xuất, về quản lý
vốn và các nguồn lực khác. Vốn đầu tư của công ty tăng lên nhưng lợi nhuận
lại không tăng, thậm chí còn bị giảm.
Sau thời gian thực tập tại công ty cổ phần vật liệu xây dựng Thái Bình,
xuất phát từ tình hình thực tế của công ty, tôi đã chọn đề tài:
“Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần vật
liệu xây dựng Thái Bình” làm nội dung nghiên cứu của mình.
Với phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lý luận với thực tiễn trên cơ sở
phân tích các hoạt động tài chính của công ty, bản luận văn này nhằm nêu rõ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bản chất và vai trò của vốn trong nền kinh tế thị trường, nguyên tắc và nội
dung trong công tác sử dụng vốn của doanh nghiệp, đồng thời đưa ra các giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần vật liệu
xây dựng Thái Bình.
Luận văn được xây dựng thành 3 chương:
Chương I: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng về tình hình sử dụng vốn tại công ty cổ phần vật


liệu xây dựng Thái Bình.
Chương III: Giải pháp nâ ng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ
phần vật liệu xây dựng Thái Bình.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I
VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Vốn trong hoạt động của doanh nghiệp
1.1.1. Vốn của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm và phân loại
A. Khái niệm:
Vốn luôn đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của một
doanh nghiệp. Để định nghĩa “vốn là gì?” các nhà kinh tế đã tốn rất nhiều công
sức và mỗi người đều có những định nghĩa riêng, theo quan điểm riêng của mình.
Theo quan điểm của Marx, dưới giác độ các yếu tố sản xuất, vốn đã được
khái quát hóa thành phạm trù tư bản trong đó nó đem lại giá trị thặng dư và là
“một đầu vào của quá trình sản xuất”. Định nghĩa về vốn của Marx có một
tầm khái quát lớn vì nó bao hàm đầy đủ cả bản chất và vai trò của vốn. Bản
chất của vốn chính là giá trị cho dù nó có thể được biểu hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau: nhà cửa, tiền của…Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư vì
nó tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ kinh tế lúc bấy giờ, Marx đã chỉ bó hẹp khái
niệm về vốn trong khu vực sản xuất vật chất và cho rằng chỉ có kinh doanh
sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Theo David Begg, tác giả cuốn “kinh tế học”, thì vốn bao gồm: vốn hiện
vật và vốn tài chính doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng hóa đã sản xuất
để sản xuất ra các hàng hóa khác, vốn tài chính là các tiền và các giấy tờ có
giá của doanh ngiệp. Trong định nghĩa của mình, tác giả đã đồng nhất vốn với
tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực chất vốn của doanh nghiệp là biểu
hiện bằng tiền của tất cả tài sản của doanh nghiệp dùng trong sản xuất kinh

doanh. Vốn của doanh nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối tài sản của
doanh nghiệp. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất
định để thực hiện những khoản đầu tư cần thiết như chi phí thành lập doanh
nghiệp, mua sắm nguyên vật liệu, trả lãi vay, nộp thuế… đảm bảo cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục, chi phí mua công
nghệ và máy móc thiết bị mới… để tái sản xuất mở rộng. Do vậy vốn đưa vào
sản xuất kinh doanh có nhiều hình thái vật chất khác nhau để từ đó tạo ra sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ trên thị trường. Số tiền mà doanh nghiệp thu
về sau quá trình tiêu thụ phải bù đắp được chi phí đã bỏ ra và có lãi. Số tiền
ban đầu đã được tăng thêm nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh. Quá trình này
diễn ra liên tục bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Còn trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là một loại hàng hóa. Nó
giống các hàng hóa khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực, song nó có đặc điểm khác
vì người sở hữu vốn có thể bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định.
Giá của quyền sử dụng vốn chính là lãi suất. Chính nhờ có sự tách rời quyền sở
hữu và quyền sử dụng nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh và sinh
lời.
Dưới góc độ của doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật
chất cơ bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trình sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá
trình sản xuất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất
liên tục, suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá trình sản
xuất dầu tiên đến chu kỳ sản xuất cuối cùng.
Tóm lại, do có rất nhiều quan niệm về vốn nên rất khó đưa ra được một
định nghĩa chính xác và hoàn chỉnh về vốn. Tuy nhiên có thể hiểu mọt cách
khái quát về vốn như sau:
Vốn của doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu, tham gia
liên tục vào quá trình sản xuất kinh doanh với mục đích đem lại giá trị thặng dư.
B. Phân loại vốn:

Để có thể quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả bước đầu tiên mà người
quản lí doanh nghiệp phải thực hiện là phân loại vốn. Đây là công việc
được các doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển rất quan tâm vì
nó ảnh hưởng rất nhiều tới chi phí vốn và cơ cấu huy động vốn. ở các nước
đang phát triển, các nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chưa
nhiều nên việc phân loại vốn chưa được mọi người quan tâm.
- Căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh: phân thành hai loại là
Vốn sản xuất và vốn đầu tư.
- Vốn sản xuất: Là loại vốn sử dụng trong quá khứ và hiện tại phục vụ
cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đó là số tiền, tài sản hữu hình, vô hình...
dùng trong việc hình thành công việc sản xuất, duy trì và phát triển hoạt động
của doanh nhgiệp. Hiệu quả của nó được đánh giá thông qua sự phát triển của
doanh nghiệp và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Vốn đầu tư: Là loại vốn phục cho mục đích sản xuát kinh doanh trong
tương lai. Số lượng vốn đầu tư phụ thuộc vào kế hoạch, các dự án sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn đầu tư sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp trong tương lai do sự cạnh tranh ngày càng khóc liệt của các
đối thủ cạnh tranh và do tính phức tạp của nhu cầu ngày càng tăng. Việc huy
động đủ số lượng, kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một vấn đề
mà mọi doanh nghiệp luôn luôn quan tâm và dốc sức để hoàn thiện công việc
đó.
- Căn cứ vào nguồn hình thành vốn
Căn cứ vào nguồn hình thành vốn thì toàn bộ vốn của doanh nghiệp
được chia thành nợ vay và vốn của chủ sở hữu. Đây là cách phân loại cơ bản
và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Hai loại vốn này có mối quan hệ đặc
biệt với nhau khi chúng ta xem xét cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp.
- Vốn của chủ sở hữu: Là loại vốn do các chủ sở hữu của doanh nghiệp
tài trợ và giữ lại phần lợi nhuận chưa phân phối. Đối với các loại vốn này
doanh nghiệp không phải hoàn trả những khoản tiền đã huy động được trừ khi

doanh nghiệp đóng cửa. Tuy nhiên các chủ sở hữu có thể giảm vốn bằng cách
giảm vốn ngân sách nhà nước hay mua lại cổ phiêú... Chi phí vốn chủ sở hữu
là chi phí cơ hội cho việc sử dụng vốn. Trong trường hơp huy động vốn cổ
phần, chi phí vốn là lợi tức yêu cầu của các cỏ đông. Do tính dài hạn và gần
như không hoàn trả, vốn chủ sở hữu có độ an toàn rất cao.
- Vốn vay: Những tài trợ cho doanh nghiệp loại vốn này không phải là
chủ sở hữu doanh nghiệp. Đặc trưng của loại vốn này là doanh nghiệp phải
tiến hành hoàn trả vốn vay trong một thời gian nhất định. Chi phí vốn là lãi
phải trả cho các khoản nợ vay. Mức lãi xuất hay chi phí phải trả cho nợ vay
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thường ổn định và được thoả thuận trước khi vay. Huy động nợ vay rủi ro hơn
huy động vốn chủ sờ hữu song đôi khi các doanh nghiệp lại thích sử dụng nợ
vay do một đặc điểm hết sức quan trọng. Chi phí nợ vay được tính vào chi phí
hợp lí hợp lệ không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong khi, lợi tức
dành cho chủ sở hữu được trả từ lợi nhuận sau thuế không được tính vào chi
phí hợp lí hợp lệ như nợ vay. Đăc điểm này hết sức quan trọng ảnh hưởng tới
việc hình thành cơ cấu vốn tối ưu với mục đích tối đa hoá giá trị vốn chủ sở
hữu.
Nhìn chung đây là hai cách phân loại rất cơ bản và phổ biến trong nền
kinh tế thị trường. Nó giúp cho người sử dụng có thể thấy được thực trạng tài
chính của doanh nghiệp khi xem xét về măt kinh tế. Về mặt pháp lí, người sử
dụng có thể thấy được trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng kí
kinh doanh với nhà nước, về số tài sản đã hình thành từ vốn vay ngân hàng...
Còn nhiều cách phân loại vốn khác như thành vốn cố định và vốn lưu động,
phân chia theo khoản mục. Mỗi cách phân loại sẽ phục vụ những mục đích nhất
định.
- Căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu trình giá trị của vốn khi tham gia
vào quá trình kinh doanh có thể chia vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
thành 2 bộ phận: vốn cố định và vốn lưu động.
+ Vốn cố định của doanh nghiệp.

Vốn cố định của doanh nghiệp là giá trị ứng trước về tài sản cố định (bao
gồm cả tài sản cố định vô hình và tài sản cố định hữu hình). Hay nói cách khác
vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định
của doanh nghiệp.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đặc điểm của vốn cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm
giá trị được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất, hoàn
thành vòng luân chuyển khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. Vốn cố định
là một thành phần quan trọng của vốn kinh doanh. Để quản lý vốn cố định cần
phải hiểu những đặc điểm về hiện vật của vốn cố định và các tài sản cố định
của doanh nghiệp.
Tài sản cố định của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, thời gian
sử dụng dài, có chức năng là tư liệu lao động. Trong khi tham gia vào quá trình
sản xuất tài sản cố định được cụ thể hoá như sau:
Về mặt hiện vật: Tài sản cố định tham gia hoàn toàn và nhiều lần vào quá
trình sản xuất nhưng giá trị thì giảm dần cho đến khi hư hỏng hoàn toàn phải
loại khỏi quá trình sản xuất.
Về mặt giá trị: TSCĐ được biểu hiện dưới hai hình thái:
- Một bộ phận tồn tại dưới hình thái ban đầu gắn với hiện vật là tài sản cố định.
- Một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm mà tài sản cố định sản xuất ra
và bộ phận này sẽ chuyển hoá khi bán được sản phẩm.
Bộ phận thứ nhất ngày càng giảm, bộ phận thứ hai ngày càng tăng cho
đến khi bằng giá trị ban đầu của tài sản cố định thì kết thúc quá trình vận
động. Như vậy khi tham gia vào quá trình sản xuất nói chung tài sản cố định
không bị thay đổi hình thái hiện vật nhưng tính năng công suất thì bị giảm
dần, tức là bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị
của nó cũng giảm đi. Bộ phận giá trị hao mòn đó đã chuyển vào giá trị sản
phẩm sản xuất ra và được tính vào chi phí khấu hao. Quỹ khấu hao dùng để tái
sản xuất tài sản cố định khi chúng bị hư hỏng hoàn toàn phải loại ra khỏi quá
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

trình sản xuất đó nhằm duy trì năng lực sản xuất bình thường của doanh
nghiệp.
Chính đặc điểm vận động về hiện vật và giá trị tài sản cố định đã quyết
định đặc điểm lưu thông và chu chuyển của vốn cố định, đó là khi tham gia
vào quá trình sản xuất, vốn cố định đã bao gồm hai bộ phận.
- Một bộ phận tương ứng với giá trị hao mòn sẽ gia nhập vào giá thành
sản phẩm và được tích luỹ lại khi sản phẩm được tiêu thụ.
- Bộ phận thứ hai là phần giá trị còn lại của tài sản cố định chính từ đặc
điểm này của vốn cố định cũng như tài sản cố định mà khi đánh giá tài sản cố
định cần có các đại lượng như giá trị ban đầu (nguyên giá), giá trị còn lại của
tài sản cố định.
Để quản lý và sử dụng vốn cố định có hiệu quả cần nghiên cứu các
phương pháp phân loại và kết cấu tài sản cố định. Thông thường có các cách
phân loại sau:
- Phân loại tài sản cố định theo hình thức thái biểu hiện, theo phương
pháp này toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được chia thành hai loại:
+ Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh cơ bản: Là những tài sản
cố định vô hình và hữu hình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và kinh
doanh cơ bản cuả doanh nghiệp như, nhà xưởng, phương tiện vận tải, vật kiến
trúc...
+ Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh cơ bản: Là các tài sản
dùng cho sản xuất kinh doanh phụ trợ, nhà cửa máy móc thiết bị phục vụ sản
xuất phụ trợ và tài sản cố định cho thuê.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng: Theo phương pháp này,
căn cứ vào tình hình sử dụng của từng thời kỳ, tài sản cố định phân thành các
loại:
+ Tài sản cố định đang dùng
+ Tài sản cố định chưa cần dùng
+ Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh toán

Tuỳ theo từng yêu cầu quản lý mà sử dụng từng phân cách phân loại tài
sản cố định cho phù hợp, từ đó có các biện pháp quản lý và bảo toàn vốn cố
định hiệu quả.
- Vốn lưu động của doanh nghiệp: là số vốn được ứng ra để hình thành
các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho
quá trình sản xuất của doanh nghiệp được diễn ra liên tục thường xuyên. Vốn
lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần tuần hoàn liên tục và
hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Vốn lưu động là điều
kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động của doanh nghiệp dựa theo vai trò của nó trong quá trình
tái sản xuất được chia làm ba loại:
- Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất, bao gồm, vốn
nguyên vật liệu chính vật liệu phụ, phụ tùng thay thế công cụ nhỏ...
- Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất, bao gồm: vốn
sản phẩm đang chế tạo, vốn bán thành phẩm tự chế.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông, bao gồm: Vốn tiền tệ
vốn trong thanh toán...
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Dựa vào hình thái biểu hiện và theo chức năng của các thành phần vốn
lưu động có thể chia thành:
- Vốn vật tư hàng hoá, vốn nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ
- Vốn tiền tệ: Gồm vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán.
- Căn cứ vào thời gian hoạt động và sử dụng vốn có thể chia nguồn vốn
của doanh nghiệp thành hai loại:
+ Nguồn vốn thường xuyên: là tổng thể các nguồn vốn có tính chất ổn
định và dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn này được dành
cho việc hình thành các tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối
thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn thường xuyên bao gồm
chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn.
+ Nguồn vốn tạm thời: là các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1

năm) doanh nghiệp có thể sử dụng nhằm đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm
thời, bất thường phát sinh trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn
vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
Các khoản nợ ngắn hạn.
Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn
vốn phù hợp với thời gian sử dụng của các yếu tố trong quá trình kinh doanh.
- Căn cứ vào phạm vi hoạt động có thể chia làm hai nguồn:
+ Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động từ
hoạt động của bản thân doanh nghiệp bao gồm tiền khấu hao tài sản cố định,
lợi nhuận để lại và các khoản dự trữ dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán
thanh lý tài sản cố định.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Nguồn vốn bên ngoài: là nguồn vốn có thể huy động như vay vốn của
ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, phát hành trái phiếu nợ người cung cấp
và các khoản nợ khác. Cách phân loại này chủ yếu giúp cho sự xem xét huy
động nguồn vốn của doanh nghiệp đang hoạt động.
1.1.1.2. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một
lượng vốn nhất định đủ lớn như là một tiền đề quyết định, không có vốn sẽ
không có bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Sẽ là không tưởng nếu
nghĩ rằng có thể tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào mà không
có vốn hoặc không đủ vốn. Nói một cách khác vốn có vai trò đặc biệt quan
trọng để bắt đầu, duy trì và phát triển hoạt động của doanh nghiệp.
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập doanh nghiệp. Để bắt đầu
hoạt động sản xuất kinh doanh, trước hết doanh nghiệp cần mua sắm máy móc,
trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng hay thuê công sở, mướn nhân công... Vì vậy
trong giai đoạn này, doanh nghiệp cần tới một lượng vốn rất lớn và phải huy động
vốn. Vốn là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp chủ động thực hiện các dự án
mang lại lợi nhuận. Không có vốn thì các dự án sản xuất kinh doanh, các cơ
hội kinh doanh mang nhiều lợi nhuận sẽ bị bỏ lỡ và sẽ chỉ là dự định, kế

hoạch. Mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược duy trì và phát triển trên thị
trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vốn vẫn là yếu tố quan trọng hàng đầu
giúp doanh nghiệp có khả năng đầu tư, đổi mới công nghệ, đầu tư cho quảng
cáo..., nhằm tăng cường cạnh tranh trước các đối thủ.
Trong cơ chế bao cấp, mọi nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp Nhà nước đều được bao cấp qua nguồn cấp phát của ngân sách
Nhà nước và qua nguồn tín dụng lãi suất thấp của ngân hàng. Có thể nói trong
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thời bao cấp vốn của doanh nghiệp Nhà nước hầu như được bao cấp “cho
không”. Khi sử dụng đồng vốn doanh nghiệp chỉ lo sao cho làm được kế
hoạch Nhà nước giao còn thực tế lãi lỗ không cần quan tâm, nếu thiếu Nhà
nước sẽ bù lỗ. Chính vì vậy vấn đề khai thác thu hút vốn không được đặt ra
như một yêu cầu cấp bách, có tính sống còn đối với doanh nghiệp. Việc khai
thác đảm bảo vốn kinh doanh của doanh nghiệp trở lên hết sức thụ động. Điều
này đã một mặt thủ tiêu tính chủ động của một doanh nghiệp, mặt khác tạo ra
sự cân đối giả tạo về cung cầu vốn trong nền kinh tế. Đây là lý do chủ yếu để
giải thích tại sao trong thời kỳ bao cấp lại vắng mặt và không cần thiết có thị
trường vốn.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các khoản bao cấp về vốn qua cấp
phát của ngân sách Nhà nước không còn nữa, doanh nghiệp Nhà nước phải tự
trang trải mọi chi phí và đảm bảo kinh doanh có lãi, phải tổ chức và sử dụng
đồng vốn có hiệu quả. Mặt khác doanh nghiệp phải bảo toàn số vốn được giao
kể cả khi có trượt giá, phải chủ động tìm kiếm bạn hàng, đầu tư đổi mới trong
hoạt động kinh doanh. Nếu không làm cho vốn sinh sôi nảy nở, không bảo
toàn và phát triển vốn tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp, nguy cơ phá sản là khó tránh khỏi.
Với vai trò quan trọng to lớn như vậy nên việc bảo tồn và tăng trưởng vốn là
một nguyên lí, là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của doanh
nghiệp. Chính vì vậy mà một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp luôn trăn
trở là: Doanh nghiệp nên tạo vốn bằng cách nào? Làm thế nào doanh nghiệp có thể

huy động vốn tối đa từ mọi nguồn với một chi phí thấp nhất và một cơ cấu tối ưu?.
1.2. Nguồn vốn và quản lý sử dụng vốn trong doanh nghiệp
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.1. Nguồn vốn của doanh nghiệp
1.2.2. Chi phí vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp
1.2.2.1. Chi phí vốn.
Chi phí vốn là yếu tố đầu tiên có tác động quan trọng tới việc tạo lập
vốn của doanh nghiệp. Vốn là yếu tố cần thiết cho sản xuất. Cũng như bất
kỳ một yếu tố nào khác để sử dụng vốn, doanh nghiệp cần bỏ ra một chi phí
nhất định. Để tạo vốn, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ các nguồn khác
nhau. Với mỗi một loại vốn cụ thể thì chi phí vốn chính là chi phí trả cho
nguồn vốn huy động. Nó được tính bằng số lợi nhuận cần phải đạt được
trên nguồn vốn huy động để giữ không làm thay đổi số lợi nhuận dành cho
chủ sở hữu. Với mỗi nguồn huy động khác nhau lại có cách tính chi phí
riêng. Vì vậy, trên thực tế, người ta phân loại chi phí vốn theo những nguồn
cụ thể. Thông thường, khi tính toán chi phí vốn, doanh nghiệp thường phần
chia vốn thành vốn chủ sở hữu và nợ vay.
- Chi phí nợ vay.
Chi phí nợ vay là chi phí trả cho nguồn vay nợ của doanh nghiệp. Nó
được phân ra thành chi phí nợ trước thuế và chi phí nợ sau thuế. Chi phí nợ
trước thuế (K
d
) được tính toán trên cơ sở lãi suất nợ vay. Lãi suất này được
ấn định trong hợp đồng tiền vay. Trên thực tế khoản chi phí nợ vay trước
thuế còn bao gồm cả các chi phí khác ngoài lãi tiền vay như chi phí làm hồ
sơ xin vay, chi phí đi lại... Những khoản chi phí này đôi khi là rất lớn. Tuy
nhiên về cơ bản, người ta vẫn hiểu chi phí nợ vay trước thuế là lãi tiền vay
trả cho chủ nợ. Chi phí nợ sau thuế K
d
(1-T) được sử dụng để tính chi phí

trung bình của vốn. Nó được xác định bằng chi phí nợ trước thuế K
d
trừ đi
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khoản tiết kiệm nhờ thuế bởi vì lãi tiền vay được tính vào chi phí trước thuế
của doanh nghiệp. Sở dĩ, các doanh nghiệp thường tính chi phí nợ sau thuế
là để có thể so sánh chi phí các loại vốn khác nhau. Hơn nữa các doanh
nghiệp luôn quan tâm đến luồng tiền sau thuế vì đây mới là phần mà doanh
nghiệp được hưởng. Do vậy, tất cả các chi phí vốn cần được tính quy về chi
phí sau thuế.
- Chi phí vốn chủ sở hữu.
Chi phí vốn chủ sở hữu bao gồm chi phí cổ phiếu ưu tiên,chi phí cổ
phiếu thường và chi phí của lợi nhuận không chia. Chi phí của cổ phiếu ưu
tiên được xác định bằng cách lấy cổ tức ưu tiên chia cho giá phát hành
thuần, phần mà công ty nhận được sau khi đã trừ chi phí phát hành.

n
P
p
D
=
p
K
Trong đó: KP- Chi phí của cổ phiếu ưu tiên
DP- Cổ tức ưu tiên
Pn- Gía phát hành thuần
Chi phí của lợi nhuận không chia: Nó chính là tỷ lệ đổi tức mà người nắm
giữ cổ phiếu thông thường yêu cầu đối với cổ phần mà công ty đạt được
bằng lợi nhuận không chia được xác định bằng công thức K
s

= D
1
/P
0
+ g.
Trong đó: K
s
: Chi phí của lợi nhuận không chia.
D
1
/P
0
: Mức sinh lời của cổ phiếu.
g: Tỷ lệ tăng trưởng mong đợi.
Chi phí của cổ phiếu thường mới (K
e
). Để các cổ đông cũ không bị giảm lợi
nhuận do phát hành cổ phiếu mới vì giãn lợi nhuận các khoản đầu tư mới
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của doanh nghiệp phải mang lại một tỷ suất lợi nhuận sao cho cổ tức của
các cổ đông cũ ít nhất không bị giảm.
Với: P
n
: là giá thuần của một cổ phiếu.
K
e
: là chi phí của cổ phiếu mới.
D
t
: là cổ tức trong thời gian t (t = 1, 2, 3...)

thì P
n
=


= +1t
t
e
t
)K1(
D
Do đó :
g +
F)-(1
0
P
1
D
=
e
K

Thông thường, các doanh nghiệp đặt tiêu chí chi phí vốn lên hàng
đầu, tận dụng triệt để các nguồn vốn có chi phí thấp sau đó mới xét đến khả
năng cung ứng các nguồn vốn, thời gian sử dụng... Vì vậy tính toán chi phí
vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy được cách thức huy động nào có chi phí
thấp hơn, từ đó xác định chiến lược khai thác nguồn vốn của doanh nghiệp.
Ngoài ra các doanh nghiệp còn tính toán chi phí vốn trung bình dựa
trên cơ cấu vốn và chi phí từng nguồn vốn. Chẳng hạn một doanh nghiệp
tạo lập vốn từ ba nguồn: vay nợ, phát hành cổ phiếu thường từ lợi nhuận

không chia và phát hành cổ phiếu ưu tiên với tỷ trọng từng nguồn là W
d
, W
s
và W
p
thì chi phí vốn trung bình của doanh nghiệp (WACC) được tính theo
công thức:
WACC = W
d
K
d
(1-T) + W
p
K
p
+ W
s
K
s
Trong đó: Wd, Wp,Ws : lần lượt là tỉ trọng của từng nguồn là vay nợ,
phát hành cổ phiếu từ lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu ưu tiên
Kd, Kp, Ks :Lần lượt là chi phí của từng nguồn
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Như vậy, với cơ cấu vốn khác nhau, mặc dù chi phí từng nguồn huy
động là giống nhau thì chi phí vốn trung bình là khác nhau. Việc tính toán
chi phí vốn trung bình rất quan trọng khi doanh nghiệp đứng trước quyết
định phải chấp nhận hay từ chối một dự án đầu tư. Nếu dự án có tỷ lệ hoàn
vốn nội bộ thấp hơn chi phí trung bình của vốn thì cần phải từ chối vì điều
đó có nghĩa là tỷ lệ thu nhập do đầu tư mang lại sẽ thấp hơn chi phí tài trợ

của nó. Như thế, chi phí vốn có vai trò rất quan trọng, được sử dụng làm
căn cứ khi quyết định đầu tư.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.2.2. Cơ cấu vốn.
Các doanh nghiệp không thể huy động vốn theo ý muốn chủ quan mà
cần xét tới nhu cầu vốn của doanh nghiệp, khả năng trả nợ và tỷ lệ hợp lý
giữa các loại vốn. Vì vậy cơ cấu vốn có một vai trò hết sức quan trọng.
Thuật ngữ này được dùng để chỉ cách thức một doanh nghiệp sử dụng các
nguồn vốn khác nhau với một tỷ lệ nào đó của mỗi người để tài trợ cho các
tài sản. Trong quản trị tài chính, các nhà quản lý phải xây dựng được cơ cấu
vốn tối ưu, đảm bảo một tỷ lệ hợp lý giữa vốn chủ sở hữu và nợ vay sao cho
lợi ích thu được là cao nhất. Đó là cơ cấu hướng tới sự cân bằng giữa rủi ro
và lãi suất, bằng cách đó tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp. Trong điều
kiện nền kinh tế phát triển, sử dụng một tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao sẽ là
không linh hoạt. Huy động vốn từ nợ vay sẽ giúp cho doanh nghiệp khuếch
đại giá trị vốn chủ sở hữu do nợ vay không phải chịu thuế thu nhập. Ngược
lại, trong trường hợp nền kinh tế đi xuống, sử dụng quá nhiều nợ với tỷ lệ
nợ của cơ cấu vốn tối ưu sẽ khiến cho doanh nghiệp rơi vào tình trạng hiệu
ứng đòn bẩy âm: sử dụng nợ sẽ làm giảm giá trị tài sản thuộc chủ sở hữu.
Vì vậy, khi tiến hành huy động tạo lập vốn, các doanh nghiệp luôn chú ý
xây dựng một cơ cấu vốn tối ưu. Tiêu chuẩn để đánh giá nên tăng hay giảm
sử dụng nợ là tương quan so sánh giữa doanh lợi vốn và lãi suất nợ vay
trước thuế. Doanh lợi vốn được xác định bằng công thức như sau:
Lợi nhuận trước thuế và lã vay/ Tổng tài sản
Doanh lợi vốn =
Hay ( ebit / Tổng tài sản)
ebit
Nếu > Lãi suất nợ vay: Hiệu ứng đòn bẩy dương.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tổng tài sản

Doanh nghiệp sử dụng nợ sẽ có tác dụng khuếch đại giá trị vốn chủ sở hữu.
Vì vậy, doanh nghiệp nên tiếp tục sử dụng nợ vay.
ebit
Nếu < Lãi suất nợ vay: Hiệu ứng đòn bẩy âm.
Tổng tài sản
Doanh nghiệp cần có biện pháp giảm tỷ lệ nợ vay vì sử dụng nợ lúc này sẽ
làm giảm giá trị vốn chủ sở hữu.
Tuy nhiên, quản trị tài chính là một lĩnh vực quản trị hết sức linh hoạt. Vấn đề
cơ cấu vốn tối ưu cũng là một vấn đề rất linh hoạt. Với mỗi một doanh nghiệp
sẽ có một cơ cấu vốn tối ưu riêng phục vụ những mục tiêu riêng của từng doanh
nghiệp và mỗi doanh nghiệp tùy theo điều kiện hoàn cảnh của mình mà theo
đuổi cơ cấu vốn tối ưu đó. Vì thế cơ cấu vốn đã trở thành một yếu tố quan trọng
tác động tới quá trình tạo lập vốn của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần
phải quan tâm đến bốn yếu tố tác động đến những quyết định về cơ cấu vốn khi
tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Trước hết là rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp, đó là rủi ro cố hữu
trong tài sản của công ty nếu công ty không sử dụng nợ. Rủi ro kinh doanh
càng lớn, tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp.
- Yếu tố chính yếu thứ hai là vấn đề thuế của doanh nghiệp. Một lý
do cơ bản cho việc sử dụng nợ là ở chỗ lãi vay được tính trong chi phí hợp
lý hợp lệ khi tính thuế thu nhập. Trong trường hợp thuế suất thuế thu nhập
cao thì công ty có lợi hơn khi sử dụng nợ.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Khả năng linh hoạt tài chính hay khả năng tăng vốn một cách hợp lý
trong điều kiện có tác động xấu. Những người quản lý tài chính biết rằng một
sự cung cấp vốn vững chắc là cần thiết cho những hoạt động ổn định và đến
lượt nó, đây là sự sống còn cho sự thành công dài hạn. Họ cũng biết rằng khi
một doanh nghiệp đang trải qua những khó khăn trong hoạt động, những nhà
cung cấp vốn muốn tăng cường tài trợ cho những doanh nghiệp có bảng cân đối
kế toán vững chắc. Như vậy, nhu cầu vốn tương lai và những hậu quả thiếu vốn

có một ảnh hưởng quan trọng đối với mục tiêu cơ cấu vốn.
- Yếu tố cuối cùng là sự "bảo thủ" hay "phóng khoáng" của nhà quản
lý. Có thể có một số giám đốc doanh nghiệp sẵn sàng sử dụng nợ hơn để
làm tăng lợi nhuận còn một số khác lại không. Yếu tố này không tác động
đến cơ cấu vốn tối ưu, nhưng nó tác động đến mục tiêu cơ cấu vốn mà
doanh nghiệp thực tế thiết lập.
1.2.3. Quản lý vốn trong doanh nghiệp
1.2.3.1. Quản lý vốn cố định
Quản lý việc sử dụng vốn cố định là một trong những nội dung quan
trọng của công tác quản lý doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh,
sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái vật chất của nó. Vì vậy để
quản lý sử dụng có hiệu quả vốn cố định có một số hình thức quản lý sau:
+ Hao mòn và khấu hao tài sản cố định:
Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định có thể bị hao mòn dưới hai hình
thức: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình: là sự hao mòn về mặt vật chất tức là tổn thất dần về mặt
chất lượng và tính năng kỹ thuật của tài sản cố định cuối cùng tài sản cố định đó
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
không sử dụng được nữa và phải thanh lý. Thực chất về mặt kinh tế của hao
mòn hữu hình là giá trị của tài sản cố định giảm dần và giá trị của nó được
chuyển dần vào sản phẩm được sản xuất ra. Trường hợp tài sản cố định không
sử dụng được, hao mòn hữu hình biểu hiện ở chỗ tài sản cố định mất dần thuộc
tính do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên hay quá trình hoá học xảy ra bên trong
cũng như việc trông nom, bảo quản tài sản cố định không được chu đáo. Các
nguyên nhân ảnh hưởng đến hao mòn hữu hình của tài sản cố định có thể do:
vật liệu dùng để sản xuất ra tài sản cố định, trình độ và công nghệ chế tạo, chất
lượng xây dựng, lắp ráp; thời gian và cường độ sử dụng, trình độ tay nghề của
công nhân viên, chế độ bảo dưỡng; độ ẩm, không khí, thời tiết...
Hao mòn vô hình: Do tiến bộ khoa học kỹ thuật gây ra, thể hiện ở 3 dạng sau.
Tài sản cố định bị giảm giá trị do năng suất lao động xã hội tăng lên, người ta

sản xuất ra các loại tài sản cố định mới sản xuất ra những sản phẩm có chất
lượng như cũ nhưng có giá thành hạ hơn.
Tài sản cố định bị giảm giá trị do sản xuất được loại tài sản cố định khác hoàn
thiện hơn về mặt kỹ thuật.
Tài sản cố định bị giảm giá trị do sản phẩm của nó làm ra bị lỗi thời.
- Khấu hao tài sản cố định :
Tài sản cố định được sử dụng trong nhiều chu kỳ sản xuất, giá trị của nó hao
mòn dần và được dịch chuyển từng phần và giá trị của sản phẩm làm ra. Phần
giá trị này được thu hồi lại dưới hình thức khấu hao, được hạch toán vào giá
thành sản phẩm để hình thành quỹ khấu hao đáp ứng nhu cầu sửa chữa lớn,
khắc phục, cải tạo, đổi mới, hoặc mở rộng tài sản cố định.
Khấu hao là sự bù đắp về mặt kinh tế hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khấu hao có ý nghĩa quan trọng đối với bảo toàn và phát triển vốn, kết của của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện khấu hao đúng và đủ giá trị thực tế tài
sản cố định không những phản ánh đúng thực chất của kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh mà còn đảm bảo quỹ khấu hao, duy trì được số vốn bỏ ra.
Có hai hình thức khấu hao: khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn.
Tiền trích khấu hao cơ bản: dùng để bù đắp tài sản cố định sau khi bị đào thải
vì mất giá trị sử dụng. Nếu là Doanh nghiệp Nhà nước, Doanh nghiệp trích
một phần tiêu hao này vào Ngân sách Nhà nước, phần còn lại bổ sung vào quỹ
phát triển sản xuất theo hướng cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Các Doanh nghiệp
thuộc loại hình thức khác lập quỹ khấu hao cơ bản để duy trì hoạt động của
Doanh nghiệp và thực hiện yêu cầu tái sản xuất mở rộng.
Tiền khấu hao sửa chữa lớn: dùng để sửa chữa tài sản cố định một cách có kế
hoạch và có hệ thống nhằm duy trì khả năng sản xuất của tài sản cố định trong
suốt thời gian sử dụng. Doanh nghiệp tính một phần tiền khấu hao sửa chữa
lớn gửi vào một tài khoản riêng ở Ngân hàng để dùng làm nguồn vốn cho kế
hoạch sửa chữa tài sản cố định.
Tỷ lệ khấu hao là tỷ lệ phần trăm giữa tiền trích khấu hao hàng năm so

với nguyên giá tài sản cố định. Tỷ lệ này có tính chung cho cả hai loại khấu
hao hoặc cho từng loại. Việc xác định tỷ lệ khấu hao quá thấp sẽ không bù đắp
được hao mòn thực tế của tài sản cố định, Doanh nghiệp không bảo toàn được
vốn cố định, còn nếu tỷ lệ khấu hao qúa cao yêu cầu cho bảo toàn vốn được
đáp ứng, song nó sẽ làm tăng giá thành một cách giả tạo ảnh hưởng đến kết
quả sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp.
Theo chế độ hiện hành, muốn đổi mới thiết bị, tài sản cố định Doanh
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiệp phải tích luỹ trong một thời gian dài tuỳ loại tài sản cố định. Sau thời
gian này, khấu hao của Doanh nghiệp thường bị giảm tương ứng so với sự mất
giá của đồng tiền và Doanh nghiệp sẽ không đủ khả năng để tái đầu tư tài sản
cố định. Mặt khác phương pháp khấu hao đường thẳng hiện nay (khấu hao
theo tỷ lệ % cố định trong suốt thời gian sử dụng tài sản cố định) chưa tạo điều
kiện cho Doanh nghiệp thu hồi vốn, đổi mới thiết bị và ứng dụng kỹ thuật mới
vào giá thành kinh doanh. Một lý do khách quan nữa là giá trị tài sản cố định
không được điều chỉnh kịp thời, cho phù hợp với mặt bằng giá hàng năm nên
giá trị tài sản cố định tính khấu hao rất thấp so với giá hiện hành. Nhà nước
nên có chế độ quản lý quỹ khấu hao theo nguồn vốn đầu tư và theo yêu cầu
hiện đại hoá máy móc thiết bị, tài sản cố định. Không để vốn khấu hao sử
dụng sai mục đích. Mặt khác Doanh nghiệp cần quản lý khấu hao để lại cho
mình như các quỹ tiền tệ. Hàng năm, Doanh nghiệp cần có trách nhiệm bảo
toàn vốn theo hệ số trượt giá v.v...
+ Lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định.
Khấu hao tài sản cố định là một bộ phận quan trọng của kế hoạch tài
chính. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định phản ánh các chỉ tiêu giá trị về tài sản
cố định như: Tổng giá trị tài sản cố định có đầu kỳ, tình hình tăng giảm tài sản
cố định trong năm kế hoạch, xác định tổng giá trị bình quân tài sản cố định cần
tính khấu hao, mức khấu hao trong năm và tình hình phân phối quỹ khấu hao.
Trong khi lập quỹ khấu hao cần xác định rõ:
Đối với tài sản cố định đã trích khấu hao hết nhưng vẫn còn sử dụng được

Doanh nghiệp vẫn tiếp tục tính khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn theo tỷ
lệ nguyên giá và hạch toán vào giá thành nhưng không hạch toán giảm vốn cố
định.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tài sản chưa khấu hao mà đã hư hỏng, Doanh nghiệp cần nộp vào Ngân
sách số tiền chưa khấu hao hết và phân bổ vào khoản lỗ cho đến khi nộp đủ.
Kế hoạch khấu hao tài sản cố định bao gồm:
Tài sản cố định không phải tính khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn
như đất đai.
Tài sản cố định tăng thêm trong năm kế hoạch, nếu tăng vào một ngày nào đó
của tháng thì tháng sau mới tính khấu hao.
Tài sản cố định giảm trong năm kế hoạch, nếu giảm bớt từ ngày nào đó trong
tháng thì tháng sau không phải tính khấu hao.
Công thức
Giá trị bình quân tài
sản cố định tăng
(giảm) trong năm
kế hoạch
=
Giá trị b/quân
TSCĐ tăng
(giảm) trong năm
x
Số tháng sẽ sử dụng
(không sử dụng)
TSCĐ
12
Tổng giá trị bình quân tài sản cố định phải tính khấu hao trong năm kế hoạch
được xác định theo công thức:
Tổng giá trị TSCĐ

phải tính khấu hao
trong kỳ
=
Tổng giá
trị TSCĐ
có đầu kỳ
+
Tổng giá trị
b/quân TSCĐ
tăng trong kỳ
-
Tổng giá trị
b/quân TSCĐ
giảm trong kỳ
Trên cơ sở cách tính các chỉ tiêu, hàng năm vào đầu kỳ, Doanh nghiệp
lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định, biến động giá... Làm cơ sở cho việc xác
định mức khấu hao đúng. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định được xem là một
biện pháp quan trọng để quản lý sử dụng vốn cố định - trên phương diện nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Bảo toàn và phát triển vốn cố định.
Để đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh được duy trì và
phát triển, một trong nhiều yếu tố trong đó là phải bảo tồn và phát triển được vốn
cố định. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường không tách khỏi
những biến động về giá cả, lạm phát. Xu thế này thường có chiều hướng gia tăng
làm cho sức mua của đồng tiền và giá trị của tiền vốn giảm xuống so với thực tế.
Mặt khác do sự lỏng lẻo quản lý dẫn đến hiện tượng hư hỏng, mất mát tài sản cố
định trước thời hạn. Cả hai nguyên nhân này đều làm cho giá trị của đồng vốn
giảm tương đối so với thực tế và giảm tuyệt đối so với thời gian sử dụng vốn. Do
đó, các doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn cố định cả về

mặt hiện vật và giá trị. Cụ thể, trong quá trình sử dụng tài sản cố định vào sản
xuất kinh doanh, Doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ không làm hư hỏng, mất
mát tài sản cố định, thực hiện đúng quy chế sử dụng, bảo dưỡng, sửa chữa
nhằm làm cho tài sản cố định không hư hỏng trước thời gian, duy trì nâng cao
năng lực hoạt động của tài sản cố định. Doanh nghiệp có quyền chủ động thực
hiện đổi mới, thay thế tài sản cố định theo yêu cầu đổi mới công nghệ, phát
triển và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Nội dung của chế độ bảo toàn và phát triển vốn cố định bao gồm:
Các Doanh nghiệp xác định đúng nguyên giá tài sản cố định trên cơ sở tính
đúng, tính đủ khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn để tạo nguồn thay thế
và duy trì năng lực sản xuất của tài sản cố định bảo toàn vốn cố định.
Hàng năm, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ công bố hệ số điều chỉnh
giá trị tài sản cố định vào thời điểm 1/1 và 1/7 phù hợp với đặc điểm cơ cấu
hình thành tài sản cố định của từng ngành kinh tế - kỹ thuật làm căn cứ thống
nhất để các Doanh nghiệp điều chỉnh giá trị tài sản cố định, vốn cố định.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×