Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Moi lien he pho bien ve toan cau hoa va nen kinh te thi truong tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.16 KB, 33 trang )

A: LỜI NĨI ĐẦU


Kể từ Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI, cùng với việc đưa ra đường lối đổi
mới về kinh tế, nhờ hàng loạt chính sách tích cực cụ thể hoá chủ trương cải cách sâu
rộng nền kinh tế mà nhờ đó nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn không chỉ
trong phát triển kinh tế mà cả trong cải cách và phát triển xã hội. Xác định định hướng
xây dựng nền kinh tế nước ta thành nền kinh tế thị trường mang tính xã hội chủ nghĩa
đã trở thành mục tiêu cho tất cả các hoạt động quản lý và phát triển đất nước. Bên
cạnh đó hiện nay đất nước đang trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng là cơ
hội đồng thời cũng vừa là thách thức đối với nước ta hiện nay. Chính vì thế, nhận thức
được tầm quan trọng đó và để hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa tồn cầu hố và kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ bài viết này xin trình bày
xung quanh vấn đề mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh
tế quốc tế.
Bài viết gồm 3 chương:
Chương I: Toàn cầu hoá
Chương II: Xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Chương III: Thành tựu Việt Nam sau những năm đổi mới.
Trong q trình thực hiện khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận
được ý kiến đóng góp để bài viết hoàn chỉnh.
Xin cám ơn!

1


CHƯƠNG I: TỒN CẦU HỐ
1. Tồn cầu hố kinh tế là gì? Những đặc điểm của tồn cầu hố kinh tế.
Con người là một loài sinh vật đặc biệt, chúng ta có trí thơng minh và có trình
độ tổ chức xã hội cao. Con người sống với nhau dựa trên rất nhiều mối quan hệ, trong
đó quan hệ về kinh tế là chủ yếu. Có một số nhà nghiên cứu cho rằng “ tồn cầu hố”


đã có từ rất lâu và trước đây chính là q trình quốc tế hố. Vậy trong tình hình hiện
nay “Tồn cầu hố” là những mối quan hệ kinh tế vượt qua biên giới quốc gia, với
quy mơ tồn thế giới, đạt trình độ và chất lượng cao hơn các q trình quốc tế hố
trước kia. Tồn cầu hố kinh tế có một số đặc điểm sau khác với các q trình quốc tế
hố trước kia:
a) Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ thì Mỹ là một siêu cường lớn
nhất thế giới. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, Mỹ đang có chiều hướng chững lại
và các nước phát triển khác đang vươn lên, điều đó tạo nên một thế giới có nên kinh tế
khơng cịn một cực như trước kia mà là đa cực.
b) Kinh tế thị trường nhiều kiểu, nhiều mức độ khác nhau đang lan tràn khắp
thế giới, kéo theo nó là sự tăng cường tự do hố kinh tế và xu hướng vừa hợp tác vừa
cạnh tranh.
c) Cách mạng khoa học kĩ thuật làm cho con người có khả năng thực hiện rất
nhiều việc mà trước đây khơng thể. Chính điều này đã thúc đẩy sự tồn cầu hố một
cách nhanh chóng.
d) Các mối quan hệ của tồn cầu hố ngày càng tồn diện chứ khơng phải chỉ
dừng lại ở thương mại xuất – nhập khẩu.
e) Toàn cầu hoá được thúc đẩy bởi một số nhân tố sau:
+ Đó là các cơng ty cực lớn, vừa, nhỏ tới từng cá thể tích cực tham gia vào q
trình tồn cầu hố. Trong hàng triệu, hàng nghìn cơng ty trên, có vai trị lớn nhất nằm
trong tay khoảng chừng 50.000 cơng ty xun quốc gia
+ Đó là do sự thúc đẩy tích cực của các chính phủ.

2


+ Đó là do sự tác động của các tổ chức phi chính phủ, họ đang thành lập ngày
càng đơng đảo, đa dạng và hoạt động ngày càng có hiệu quả trong q trình tồn cầu
hố.
+ Đó là các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại khu vực.

+ Đó là các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại quốc tế như WTO, IMF...
f) Tồn cầu hố phải đi đôi với hội nhập khu vực và các quan hệ song phương
g) Tồn cầu hố, theo các nhà nghiên cứu thì đây là một q trình “mở” đang
cịn vân động và sẽ còn trải qua nhiều giai đoạn.
2. Bản chất của tồn cầu hố:
Hiện nay, nói đến vấn đề này trên thế giới đang có hai thái cực tranh cãi nhau
rất gay gắt:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng: toàn cầu hoá là một điều tất yếu phải xảy ra.
Mọi quốc gia khơng thể tránh khỏi, chính sách hợp lý nhất mà các quốc gia phải theo
là tham gia và làm theo các quy tắc của cuộc chơi. Tuy nhiên quan điểm này lại biến
con người thành kẻ bị lệ thuộc vào chính sản phẩm mà họ tạo ra.
+ Quan điểm thứ hai cho rằng: tồn cầu hố là một bước trong kế hoạch làm bá
chủ thế giới của Mỹ. Tuy nhiên, quan điểm này thì người ta lại quá đè cao sức mạnh
của Mỹ, mà trên thực tế không phải vậy.
Vậy đúng ra bản chất của tồn cầu hố kinh tế là gì? Tồn cầu hố kinh tế là
một xu hướng lớn của thời đại, nhưng dù nó khách quan đến mấy cũng do con người
tạo ra. Nó là kết quả của sự kết hợp giữa nhiều yếu tố, mà các yếu tố ấy đều do con
người tạo ra. Trong đó có 3 yếu tố chính:
- Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật.
- Nền kinh tế thị trường hiện đại.
- Chính sách rất có tính tốn của Mỹ và các nước cường quốc khác mà không
phải chỉ riêng Mỹ.
+ Một bản chất nữa của tồn cầu hố là tính bất đối xứng của nó. Điều đó được
thể hiện như sau:

3


-Tồn cầu hố phân phối thành quả rất bất cơng. Người giàu, nước giàu ngày
càng được nhiều lợi, nước nghèo, người nghèo bị thiệt. Dần dần một mảng lớn dân cư

trên thế giới bị loại khỏi q trình tồn cầu hố.
-Tồn cầu hố hiện nay, khơng hài hồ, khơng đồng bộ, các lĩnh vực so le,
chênh lệch nhiều, cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Đặc biệt là: thứ nhất, tồn cầu hố
kinh tế khơng đi đơi với sự quan tâm đúng mức về xã hội và con người. Điều này
khiến cho phần thua thiệt về xã hội và con người rất nặng nề. Thứ hai, tồn cầu hố
khơng đi đôi với một cơ cấu và cơ chế quản lý toàn cầu tương xứng. Điều này dẫn đến
toàn bộ thế giới như một con tàu khơng người lái.
+ Tồn cầu hố hiện nay bỏ qua các vấn đề khác, nó chỉ chú trọng tới thị
trường, xem nhẹ nhà nước và nhất là xã hội.
3. Tồn cầu hố những cơ hội và thách thức
a. Những cơ hội:
+ Thứ nhất, sự phát triển của tồn cầu hố kinh tế phá bỏ những cản trở, những
hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia. Nó mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển về quan hệ kinh tế thế giới. Từ đó, các quốc gia có thế lợi dụng để mở rộng
thị trường ra bên ngồi quốc gia mình.
+ Thứ hai, tồn cầu hoá phát triển giúp các nước chậm phát triển sớm tham gia
vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Điều này, giúp các nước chậm phát triển
hình thành một cơ cấu kinh tế – xã hội hiệu quả, đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình hiện
đại hố nền kinh tế.
+ Thứ ba, tồn cầu hố phát triển tạo điều kiện cho các nước tiếp cận với
những nguồn vốn và công nghệ kĩ thuật cao cũng như học tập công nghệ quản lý.
+ Thứ tư, tồn cầu hố phát triển làm cho các nước liên hiệp với nhau thành
những khu vực tự do thương mại. Điều này giúp dỡ bỏ hàng rào thuế quan đối với các
nước thành viên, dẫn đến hàng hố có thể nhanh chóng tiếp cần với thị trường thế
giới. Hơn nữa, với các nước đang phát triển thì việc hội nhập vào các tổ chức kinh tế
thế giới cũng chính là tham gia vào các diễn đàn kinh tế thế giới cho phép mình quyền
bình đẳng bày tỏ quan điểm, bảo vệ lợi ích của mình.

4



+ Thứ năm, tồn cầu hố thực chất là q trình mở cửa hội nhập của các quốc
gia. Tuy nhiên, khơng chỉ hội nhập riêng về kinh tế mà cịn về nhiều vấn đề khác nữa.
Điều ấy giúp cho các quốc gia nhanh chóng tiếp cận được các thơng tin, tri thức khoa
học mới nhất. Nó góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo cơ sở cho nền tảng cho dân
chủ phát triển.
+ Thứ sáu, tồn cầu hố mở ra khả năng phối hợp nguồn lực của các quốc gia
trên thế giới để giải quyết các vấn đề có tính tồn cầu như: mơi trường,dân số, chiến
tranh và hồ bình...
b. Những thách thức của tồn cầu hố
+ Thứ nhất, do tính bất đối xứng của tồn cầu hố, nó phân chia thành quả rất
bất cơng. Chính vì thế, tồn cầu hố khơng phân chia cơng bằng các cơ hội và lợi ích
giữa các khu vực, quốc gia và trong mơi quốc gia và từng nhóm dân cư. Trên thực tế,
trong tồn cầu hố thì các nước phát triển và những người giàu có là được lợi nhiều
nhất. Vì vậy, tồn cầu hố làm tăng thêm tình trạng bất cơng và gia tăng khoảng cách
giàu nghèo.
+ Thứ hai, việc mở cửa hội nhập một mặt làm cho các nước chậm phát triển
tiếp xúc với các nền kỹ thuật tiên tiến hiện đại làm tăng năng xuất, thế nhưng các
doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh gay gắt với dòng sản phẩm công nghệ cao
và các nguồn lực mạnh dễ dàng lấn át. Chính vì vậy, nó dẫn đến tình trạng phá sản,
thất nghiệp, làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội vốn đã rất nan giải ở các nước
chậm phát triển.
+ Thứ ba, tồn cầu hố mở ra cho các nước cơ hội tranh thủ nguồn vốn bên
ngoài. Song chính điều ấy sẽ làm các nước phụ thuộc vào hệ thống phân công lao
động quốc tế. Nếu như không xác định được một đường lối phát triển nội lực là chính
thì các nước rất dễ bị phụ thuộc và mất quyền tự chủ.
+ Thứ tư, tồn cầu hố cho phép vận dụng nguồn vốn bên ngoài nhằm rút ngắn
quá trình phát triển. Tuy nhiên trong đó cũng ẩn chứa nhiều nguy hiểm khơng vững
chắc.
+ Thứ năm, tồn cầu hố cịn đặt ra nhưng hậu quả phi kinh tế. Đó là vấn đề

lan toả các dịch bệnh, đặc biệt là HIV/AIDS. Ngồi ra, các luồng văn hố ngoại lai
5


tác động không nhỏ tới thuần phong mỹ tục làm bại hoại đạo đức con người. Chính
vì vậy, xu hướng tồn cầu hố đã nổi lên xu hướng dân tộc, bảo vệ bản sắc dân tộc.

6


CHƯƠNG II: NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA
1. Khái niệm kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế-xã hội.Trong đó từ sản xuất đến
tiêu dùng đều thông qua thị trường. Là một hình thức phát triển cao của kinh tế hàng
hố trong đó các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hố. Kinh tế hàng hố vận đơng
theo cơ chế thị trường
2. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường phát triển từ sơ khai đến hiện
đại là một cơng trình sáng tạo của lồi người trong q trình sản xuất và trao đổi.
Trước đây có quan niệm cho rằng kinh tế hàng hố là sản phẩm riêng có của chủ
nghĩa tư bản. Đây là quan điểm sai.Từ đó kinh tế xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ
chế tập trung, quan liêu bao cấp, làm cho nền kinh tế phát triển trì trệ, là một trong
những nguyên nhân làm cho chủ nghĩa xã hội khủng hoảng. Đó là trình độ văn minh
mà nhân loại đã đạt được, chứ không phải là phát minh của chủ nghĩa tư bản. Nền
kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường trên thực tế đã tỏ rõ nhiều lợi thế
nhưng đồng thời cũng bộc lộ những khuyết tật cần khắc phục. Nhờ có cơ chế thị
trường, việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế đã có hiệu quả hơn.
Động lực lợi ích kinhtế đã phát huy tác dụng mạnh hơn, cơ chế quản lý mới đã được

vận hành và ngày càng tham gia đầy đủ hơn phân công lao động ở trong nước và quốc
tế. Chinh sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường không những không làm hạn chế khả năng thu hút, đầu tư xây dựng đất
nước, mà cịn thực hiện chính sách đại đồn kết toàn dân, phát huy nội lực gắn với
khai thác cao nhất nguồn lực bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại đưa đất nước ta vững bước đi lên.
Trước những lợi ích đó Đảng và nhà nước ta chủ trương chuyển từ nền kinh tế
hành chính, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường bất kỳ, mà là một nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về thực chất ở đó vừa kế thừa những thành
7


tựu tiến bộ trong lịch sử phát triển nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa tư bản, vừa gắn
liền với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường nên chủ nghĩa tư bản đã đạt được
những thành tựu về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao năng
suất lao động xã hội. Nhờ sử dụng kinh tế thị trường, quản lí xã hội dưới chủ nghĩa tư
bản đã đạt được những thành quả văn minh hành chính, văn minh cơng nghiệp, văn
minh trí tuệ...
Vì vậy chủ nghĩa xã hội cũng phải biết kế thừa và sử dụng các ưu điểm của
kinh tế thị trường, loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng thành cơng chủ nghĩa
xã hội.
Phát triển kinh tế thị trường có vai trị quan trọng. Đối với nước ta muốn
chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì khơng
cịn con đường nào khác là phải phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường khắc
phục được kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc, đẩy mạnh phân công lao động xã hội phát
triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, khuyến khích ứng dụng cơng
nghệ- kĩ thuật mới nhằm tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chủng loại, hàng
hoá, dịch vụ, thúc đẩy tích tụ tập trung sản suất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa
phương, các vùng lãnh thổ, thúc đẩy việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi

người lao động, mỗi đơn vị kinh tế đông thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các
nguồn lực của xã hội hợp lý, tiết kiệm. Vì vậy phát triển kinh tế thị trường được coi
là chiếc đòn xeo để xây dựng chủ nghĩa xã hội, là phương tiện khách quan để xã hội
hoá xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác chúng ta cần phải nắm lấy vai trò to lớn của kinh tế thị trường để đưa
nền kinh tế thốt khỏi tình trạng trì trệ, kém phát triển. Nắm bắt và hạn chế những
mặt tiêu cực, mặt trái, khuyết tật của kinh tế thị trường. Bởi vì kinh tế thị trường thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trên cơ sở khơi dậy nguồn tiềm năng, sức sáng
tạo của nhân dân ta để sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân. Sự phân công lao
động xã hội ngày càng phát triển sự chuyên môn hố ngày càng sâu tiến tới sự phân
cơng và hợp tác quốc tế. Trong khi đó nước ta chuyển sang chủ nghĩa xã hội từ điểm
xuất phát thấp, kinh tế xã hội cịn nghèo nàn lạc hậu chưa có cơ sở để đảm bảo thực
8


hiện thành công chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường còn là sự tồn tại của những chủ
thể kinh tế độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh có lợi ích riêng để họ có quyền
ra quyết định phi tập trung hố. Vì vậy trong điều kiện chế độ cơng hữu xã hội chủ
nghĩa cũng có thể thực hiện được thể chế kinh tế thị trường.
Trước đậy có quan niệm cho rằng kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội không
thể dung hợp với nhau, chúng là những thực thể xã hội tuyệt đối loại bỏ lẫn nhau. Đã
là chủ nghĩa xã hội thì khơng thể là kinh tế thị trường. Họ cho rằng kinh tế thị trường
là chủ nghĩa tư bản và khi đưa ra đòi hỏi trong hai điều kiện phải chọn lấy một. Họ hi
vọng rằng trước sự năng động hấp dẫn của kinh tế thị trường so với kinh tế bao cấp
nhân dân sẽ chọn chủ nghĩa tư bản nhưng họ đã sai kinh tế thị trường có cả mặt tích
cực và mặt tiêu cực, nó như “con dao hai lưỡi” trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Kinh tế thị trường là con đường dẫn tới giàu có, văn minh, là bạn đồng hành của
chủ nghĩa xã hội, nhưng nó cũng có thể dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tự
phát đi theo con đường tư bản chủ nghĩa trái với mục tiêu mà Đảng, Bác Hồ và nhân
dân đã chọn. Vì vậy cần định hướng xã hội chủ nghĩa cho kinh tế thị trường để kinh tế

thị trường phát triển phục vụ cho xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
3. Những đặc điểm cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
a Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa trên cái chung và cái đặc
trưng.
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mang những đặc
tính chung của kinh tế thị trường. đó là quy luật giá cả,quy luật cung cầu,quy luật giá
trị... Trên thị trường giá cả là phạm trù kinh tế trung tâm, là cơng cụ quan trọng thơng
qua cung cầu để kích thích và điều tiết hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế
tham gia thị trường. Sự biến động của cung cầu kéo theo sự biền động giá cả trên thị
trường và ngược lai giá cả thị trường cũng điều tiết cung cầu. Mặt khác có sự cạnh
tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh tế tham gia thị trường nhằm giành giật những
điều kiện kinh doanh thuận lợi. Trong cuộc cạch tranh đó tất yếu có người được và
người thua nên sự phá sản của một bộ phận doanh nghiệp là khó tránh khỏi. Trong đó
có cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh là sự
9


cạnh tranh được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật cuả nhà nước và bằng những
biện pháp kinh tế, kĩ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động, số-chất lượng hàng
hố, dịch vụ bằng tiết kiệm chi phí sản xuất, chi phí lưu thơng để nâng cao mức lãi.
Cạnh tranh lành mạnh là động lực để phát triển kinh tế hàng hố. Cạnh tranh khơng
lành mạnh là cạnh tranh được tiến hành bằng những hình thức và thủ đoạn phi kinh tế,
lẩn tránh sự kiểm soát của nhà nước, kinh doanh phi pháp thu lời bất chính. Sự cạnh
tranh này gây thiệt hại cho người tiêu dùng và những đối tác có liên quan do vậy cần
phải nghiêm trị bằng phấp luật. Vậy kinh tế thị trường chịu tác động hàng ngày hàng
giờ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy
luật cạnh tranh chứ không phải là những quy luật mang tính hình thức như trong mơ
hình kinh tế cũ. Cơ chế thị trường là cơ chế kinh tế tất yếu vì chỉ thơng qua cơ chế
thị trường mới liên kết các nhà sản xuất riêng lẻ vào hoạt động kinh tế của quốc gia.

Cạnh tranh là tất yếu để tồn tại của doanh nghiệp. Mỗi đơn vị kinh tế là một chủ thể
tự do, tự chủ kinh doanh theo pháp luật. Kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng
trongviệc làm sống động thị trường. Trong nền kinh tế thị trường tiền tệ đóng vai trị
rất quan trọng. Đồng tiền phát huy đầy đủ các chức năng của mình, đồng tiền quốc gia
từng bước hội nhập thị trường khu vực và quốc tế. Tối ưu hoá các hoạt động kinh tế
để đạt lợi nhuận tối đa.
Bên cạnh những nét chung đó kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
cịn có những nét đặc thù. Đó là kiểu tổ chức nền kinh tế trong quá trình đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu kinh tế kém phát triển. Kiểu tổ chức
nền kinh tế này nhằm nhanh chóng đưa đất nước ta đạt đến mục tiêu “ dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là một nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể phải trở thành nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các
thành phần kinh tế đều vận động theo định hướng chung và theo khuôn khổ pháp luật
của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực
chất là kiểu tổ chức kinh tế hàng hoá dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế mở
cả bên trong và bên ngoài.
10


- Đồng thời kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích
phát triển lực lượng sản xuất ,xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội
và hoàn thiện quan hệ sản xuất trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức, phân phối.
Định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện sự phát triển của lực lượng sản xuất là
từng bước xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh cơng
nghiệp hố-hiện đại hố theo hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở tính hiệu quả tồn
diện, tao ra năng xuất lao động cao hơn và tránh được lãng phí lao động. Tính nhân
văn vì con người, do con người, tính cân đối của nền kinh tế quốc dân, tính mục đích
phát triển bền vững tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngaỳ càng cao của người

lao động. Trong định hướng phát triển lực lượng sản xuất cần xác định rõ được mơ
hình mục tiêu, nội dung của cơng nghiệp hố, hiện đại hố trong cả một thời gian dài
cho đến khi xây dựng xong cơ sở vật chất-kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, cũng như
trong từng thời kì,từng bước của q trình đó. Cần phải định hướng cả sự phát triển
của khoa hoc-công nghệ, định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, định hướng đào tạo,
phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong sự nghiệp đẩy mạnh cong nghiệp hoáhiện đại hoá đất nước.
Định hướng phát triển quan hệ sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở
nước ta hiện nay là cùng với quá trình tạo lập cơ sở vật chất- kĩ thuật của chủ nghĩa xã
hội, phải xây dựng quan hệ sản xuất làm cho quan hệ sản xuất hướng theo chủ nghĩa
xã hội. Về chế độ sở hữu phải phát triển nền kinh tế đa sở hữu, đa thành phần, các
thành phần kinh tế phải được tự do kinh doanh theo pháp luật, lien kết hợp tác và
cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Về chế độ quản lý nền kinh tế thị trường phải có sự định
hướng, quản lí của nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách, pháp luật và các công cụ khác nhằm phát huy mặt tích cực, đồng thời hạn
chế khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, kích thích sản xuất, bảo vệ lợi ích
của nhân dân và người lao động. Về chế độ phân phối,thực hiện phân phối theo lao
động và hiệu quả kinh tế , đồng thời phân phối theo mức đóng góp vào nguồn lực
khác vào sản xuất kinh doanh và thơng qua phúc lợi xã hội. Ngồi sự điều chỉnh ba
11


mặt cơ bản hợp thành quan hệ sản xuất trong đó quan hệ sở hữu giữ vị trí qet định
cũng cần quan tâm đến một khía cạnh khác của quan hệ sản xuất xét trong quá trình
tái sản xuất xã hội là quan hệ của 4 khâu sản xuất –phân phối-trao đổi- tiêu dùng. Đặt
các mối quan hệ này trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo dịnh
hướng xã hội chủ nghĩa. Tinh dịnh hướng xã hội chủ nghĩa đối với quan hệ sản xuất
thể hiện ở chỗ không phải để cho quan hệ sản xuất kìm hãm lực lượng sản xuất hoặc
quan hệ sản xuất tự phát điều chỉnh lực lượng sản xuất mà là một q trình tự giác

nhận thức được tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để có sự điều chỉnh phù
hợp, tạo ra động lực phát triển liên tục cho lực lượng sản xuất
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một mơ hình
kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kì quá độ. Về thực chất là nền kinh tế hàng
hoá vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mơ của nhà nước phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế thị trường là cơ chế kinh tế nảy sinh một cách tất yếu từ sự phát triển
của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cơ chế thị trường là cơ chế kinh tế thông qua thị
trường để tự điều chỉnh các cân đối của nền kinh tế theo yêu cầu của các quy luật
khách quan (giá trị, cung-cầu, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ..). Cơ chế thị trường là
guồng máy vận hành của nền kinh tế thị trường, là phương thức cơ bản để phân phối
và sử dụng các nguồn vốn, tài nguyên, công nghệ, tư liệu sản xuất , sức lao động. Căn
cứ vào thị trường các doanh nghiệp sẽ quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế
nào, sản xuất cho ai. Cơ chế thị trường đòi hỏi phải phát triển sản xuất hàng hoá, mọi
sản phẩm là hàng hố hoặc có tính hàng hố, mở rộng thị trường về mọi phương diện,
tự do sản xuất kinh doanh tự do thương mại, đa dạng hố các hình thức sở hữu-hình
thức phân phối. Trong đó nó có các đặc trưng: đặc trưng cơ bản nhất là cơ chế hình
thành giá cả một cách tự do, người bán và người mua thông qua thị trường để xác
định giá cả; đặc trưng thứ hai là lựa chọn tối ưu hoá các hoạt động kinh tế để đạt
được lợi nhuận tối đa. Cơ chế thị trường chịu sự tác động rất mạnh của các quy luật
sản xuất và lưu thơng hàng hố. Cơ chế thị trường có cả mặt tích cực, mặt tiêu cực.
Mặt tích cực: nó là cơ chế điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển;
nó có tác dụngkích thích mạnh và nhanh sự quan tâm thường xuyên đến đổi mới kĩ
12


thuật, cơng nghệ quản lí, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; nó có tác dụng lớn
trong tuyển chọn các doanh nghiệp và cá nhân quản lí kinh doanh giỏi. Trên cơ sở đó
cơ chế thị trường kích thích sản xuất và lưu thơng hàng hố phát triển .. Về mặt tiêu
cực : trên thị trường chứa đựng tính tự phát , chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân

đối. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả
xấu: mơi trường huỷ hoại, tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh, phá sản, thất
nghiệp, phân hoá xã hội cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ , các vấn đề về công bằng xã
hội không được bảo đảm, tệ nạn xã hội gia tăng, thậm chí có người làm ăn bất hợp
pháp, trốn lậu thuế, làm hàng giả. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận mà các nhà sản xuất,
kinh doanh khơng làm những nghành nghề ít lợi nhuận. Để hạn chế những khuyết tật
đó nhà nước địi hỏi phải quản lí nền kinh tế thị trường. Sự quản lí của nhà nước
nhằm hạn chế, khắc phục những thất bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội,
nhân đạo mà bản thân thị trường khơng làm được. Vai trị quản lí của nhà nước trong
nền kinh tế thị trường hết sức quan trọng. Sự quản lí của nhà nước bảo đảm cho nền
kinh tế tăng trưởng, ổn định, đạt hiệu quả, đặc biệt là đảm bảo sự công bằng và tiến
bộ xã hội. Khơng ai ngồi nhà nước lại có thể giảm bớt được sự chênh lệch giàu
nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng
kinh tế của đất nước. Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô chống lại khủng hoảng, thất
nghiệp. Xây dựng một hệ thông pháp luật để tạo mơi trường quản lí cho các chủ thể
kinh tế hoạt động. Sự quản lí can thiệp vĩ mơ của nhà nước phải thích hợp với yêu
cầu của quy luật sản xuất và lưu thơng hàng hố. Nhà nước phải sử dụng chủ yếu các
công cụ, biện pháp kinh tế luật pháp, quy hoạch kế hoạch định hướng, chính sách
kinh tế-xã hội và khả năng, sức mạnh kinh tế nhà nước để tác động tới thị trường, điều
tiết hoạt động của các doanh nghiệp.
b. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên
nhiều quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đó là sở hữu nhà nước, tập thể, tư nhân, cá
thể, trên cơ sở đó hình thành lên các thành phần kinh tế , trong đó thành phần kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

13


Đại hội đảng 8 Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “tiếp tục đổi mới và

phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn,
hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực
hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”. Và
trong hội nghị trung ương 4: “chúng ta không thể để quan hệ sản xuất phát triển tự
phát. Nếu để tự phát thì nền sản xuất sẽ hàng ngày hàng giờ đi vào chủ nghĩa tư bản”.
Và hơn nữa chúng ta kì vọng vào sự tìm tịi thử nghiệm để sáng tạo ra những hình
thức tốt nhất trong đó vừa duy trì và tái sản xuất được quan hệ sản xuất mới-xã hội
chủ nghĩa, vừa tạo ra những phạm vi rộng lớn cho sự tăng trưởng nhanh, có hiệu quả
lực lượng sản xuất. Chính nó là cốt lõi của luận đề: “kinh tế nhà nước đóng vai trị
chủ đạo cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng”. Song cũng có những
vấn đề có tính ngun tắc khơng thể tách rời. Phải củng cố phát triển thành phần kinh
tế nhà nước để nó thực sự ngày càng mạnh và thực sự có hiệu quả hơn. Cải tổ khu
vực kinh tế nhà nước quyết khơng thu hẹp vai trị của thành phần kinh tế này. Phải
tăng cường sự kiểm tra kiểm soát của nhân dân đối với thành phần kinh tế nhà nước
để hạn chế tối đa xu hướng quan liêu hố, tham ơ, tham nhũng của cán bộ đại diện
cho sở hữu nhà nước .
Mặt khác dưới chế độ ta để định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế, đảm bảo
cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi thì tất yếu thành phần kinh tế nhà nước dựa trên chế
độ cơng hữu giữ vai trị chủ đạo. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ,kinh
tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo có thực lực to lớn, chiếm phần lớn tài sản quốc gia và
đóng góp tỷ trọng không nhỏ trong GDP hàng năm, nắm giữa các lĩnh vực then chốt
trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước tạo nền tảng, sức mạnh để định hướng xã hội chủ
nghĩa tồn bộ nền kinh tế. Vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước còn thể hiện ở chỗ
tạo đòn bẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, tạo nền tảng vật chất-kĩ thuật cho
xây dựng xã hội mới-xã hội chủ nghĩa. Mặt khác trong nền kinh tế nhiều thành phần
nhà nước không chỉ đại diện cho lọi ích của nhân dân lao động mà còn đại diện cho
lợi ích của quốc gia. Về mặt kinh tế , lợi ích của một quốc gia biểu hiện trước hết ở
khả năng giải phóng sức sản xuất hiện có, ở việc sử dụng tốt nhất các nguồn lực và ở
14



việc đem kết quả của viẹc sử dụng tốt nhất các nguồn lực phục vụ cho cơng dân nước
mình. Do lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay đòi hỏi phải phát triển đa dạng các
hình thức tổ chức sản xuất- kinh doanh phù hợp với trình độ phát triển khác nhau của
lực lượng sản xuất.Kinh tế nhà nước dựa trên sở hữu của nhà nước là hình thức sở
hữu ở trình độ xã hội hố cao phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Và thực tế đổi mới những năm qua chứng tỏ rằng chỉ bằng cách đó chúng ta mới thoả
mãn nhu cầu ngừơi dân một cách tốt nhất. Cho nên nhà nước ta không những phải tạo
điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước phát triển mà hơn lúc nào hết phải tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Do vậy khơng thể nói đến
sự chi phối của thành phần kinh tế nhà nước bởi thực chất chúng ta khơng muốn nói
đến một sự áp đặt kinh tế bằng bạo lực, bằng lấn át các thành phần kinh tế khác.
Quan điểm có tính ngun tắc của chúng ta là tạo ra một môi trường hoạt động bình
đẳng cho mọi thành phần kinh tế nhằm khai thác hết nột lực và hiệu quả của chúng
tạo điều kiện xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội. Như vậy nhờ có kinh tế nhà
nước mà kinh tế thị trường đảm bảo phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa ,nó cũng chi phối dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Là sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết cơ chế thị trường.
Nêu gương về việc ứng dụng khoa học công nghệ, năng suất, chất lượng, hiệu quả.Vì
vậy chúng ta phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này phát triển.
- Có nhiều hình thức phân phối
Kết hợp phân phối theo lao động, theo đóng ghóp vào cổ phần, trên nguyên tắc
ưu tiên phân phối theo lao động và hiệu quả, đồng thời đảm bảo sự cơng bằng và hạn
chế bất bình đẳng xã hội. Điều này khác với phân phối theo lao động mang tính bình
quân trong chủ nghĩa xã hội cũ.Trong nền kinh tế thị trường với công nghệ cao và
kinh tế tri thức, lao động “tư bản’’, “con người” được coi là yếu tố quan trọng hàng
đầu và có khả năng sáng tạo rất lớn,việc đề cao con người cũng như nguyên tắc phân
phối theo lao động là phù hợp với xu thế và tính chất nhân văn của phát triển kinh tế
hiện đại. Mặt khác, bảo đảm sự phân phối công bằng và hạn chế bất bình đẳng xã hội

thái quá cũng là điều kiện để bồi dưỡng, phát triển chính nguồn lao động sáng tạo
trên. Sự bất bình đẳng và mất ổn định xã hội đang là mâu thuẫn bất khả kháng mà chủ
15


nghĩa tư bản vấp phải trong những giới hạn của quan hệ tư sản. Còn chủ nghĩa xã hội
dựa trên chế độ cơng hữu và chính quyền của dân, do dân, vì dân. Thơng qua các cơng
cụ phân phối lại và chính sách xã hội tích cực có thể giải quyết được mâu thuẫn này.
Tuy nhiên các yếu tố sản xuất khác như vốn và công nghệ cũng giữ vai trị khơng kém
quan trọng trong q trình sản xuất. Việc đánh giá thơng qua thị trường về mức đóng
góp và thù lao phù hợp cho các yếu tố này là cần thiết để có thể huy động và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực xã hội vào phát triển kinh tế của chủ nghĩa xã hội.
- Tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội
Đảng cộng sản Việt nhấn mạnh : “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Nếu tăng
trưởng kinh tế là điều kiện để cải thuện cuộc sống cho nhân dân thì cơng bằng chính
là tiêu chuẩn đo lường tính nhân đạo và trình độ văn minh, tiến bộ của xã hội dựa trên
nền kinh tế đó. Ở đây, cơng bằng khơng phải là bình qn chia đều mà được hiểu
theo nghĩa mỗi người được hưởng một phần tương xứng với nhứng đóng góp của họ
cũng như quyền bình đẳng như nhau trong tiếp cận những nguồn lực của xã hội mà
các thế hệ trước đã tạo ra. Có nhiều ý kiến cho rằng đối với các nước chậm phát triển
như nước ta thì khoan hãy nghĩ đến công bằng mà trước mắt hãy ưu tiên cho tăng
trưởng đã. Họ lập luận rằng muốn cùng nhau hưởng cái bánh to thì hãy làm mọi cách
tạo ra cái bánh to đã. Khi có cái bánh to rồi thì tìm cách chia cũng chưa muộn. Nhưng
thời đại hiện nay mặc dù hy vọng thoả mãn nhu cầu con người một cách ổn thoả mà
không ưu tiên cho tăng trưởng đã tỏ ra hồn tồn ảo tưởng, như thế khơng cần hy sinh
cơng bằng cho hiệu quả. Bởi vì xét cho cũng sản xuất nói chung, tăng trưởng nói
riênglà nhằm mục đích tối cao phục vụ cuộc sống con người, là để cải thiện cuộc sống
con người theo hướng tốt đẹp hơn. Mọi sự tăng trưởng không đi cùng mục tiêu phục
vụ con người, sớm hay muộn cũng bị loại bỏ. Hơn nữa bản thân sự phân phối công

bằng cũng tạo ra nội lực cho sự tăng trưởng. Nội lực đó chính là sự ổn định chính trị
xã hội, là trạng thái tinh thần khuyến khích lao động nhiệt tình, hăng hái sáng tạo, là
giảm bớt sự lãng phí do tích luỹ của cải quá lớn vào một bộ phận dân số nào đó và
tiêu phí sức lực q đáng để mưu sinh của một bộ phận dân số khác.

16


Công bằng xã hội là khát vọng bao đời nay của dân tộc ta, cũng là mục tiêu
phải đạt tới của công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa .Công
bằng không chỉ là việc điều hồ lợi ích, điều tiết, phân phối lại thu nhập của các giai
tầng xã hội cho hợp lý. Mà quan trọng hơn là phải bảo đảm cho mọi tầng lớp xã hội
được hưởng như nhau các quyền lợi xã hội như: việc làm, giáo dục, chăm sóc sức
khoẻ, đào tạo nghề nghiệp, được giúp đỡ lúc khó khăn hoạn nạn. Công bằng xã hội
bảo đảm mọi thành viên trong xã hội không ngừng nâng cao mức sống và tự khẳng
định mình. Sự thành cơng của nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao, mà còn ở mức
sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư được nâng lên: y tế, giáo dục đều phát triển,
khoảng cách giàu nghèo được thu hẹp, môi trường sinh thái được bảo vệ ...Vấn đề cốt
lõi của công bằng xã hội là nhà nước bảo đảm cho mọi thành viên trong xã hội đều có
cơ hội ngang nhau trong việc tham gia vào quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm
theo nguyên tắc công bằng và hiệu quả. Đồng thời có chính sách thoả đáng đối với
những đối tượng chính sách. Chủ nghĩa xã hội sẽ tiến tới xố bỏ mọi áp bức bóc lột,
bất cơng và mưu cầu hạnh phúc cho mọi người ,mọi gia đình và tồn xã hội, đó là
cơng bằng xã hội lớn nhất, triệt để nhất mà chúng ta phấn đấu. Công bằng xã hội cịn
là mọi người bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật và trong các chính
sách kinh tế xã hội, công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ giữa các nhóm dân cư
trong hiện tại và trong quá khứ.
Để thực hiện công bằng xã hội Đảng ta chủ trương phát triển nền sản xuất hành
hoá nhiều thành phần, thừa nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại. Thực

hiện phân phối qua các quỹ phúc lợi xã hội nhằm giảm bớt chênh lệch về điều kiện tái
sản xuất sức lao động trên một số nhu cầu cơ bản thiết yếu của các thành viên xã hội.
Bảo đảm chỉ có người nghèp tương đói so với người giàu, đời sống của bộ phận nhân
dân nghèo phải từng bước được cải thiện dần lên. Nhà nước có các chính sách khuyến
khích đầu tư, đa dạng hố các loại hình sản xuất kinh doanh để cho người lao động có
cơ hội tìm kiếm việc làm, kể cả việc làm thuê. Trong khi phát triển các thầnh phần
kinh tế người lao động còn phải đi làm thuê cho các ơng chủ tư bản trong nước và
nước ngồi thì nhà nước cần có những qui định luật pháp, tăng cường kiểm tra việc
17


thực hiện luật pháp để quan hệ thuê mướn lao động khơng mang hình thức quan hệ
chủ tớ ,quan hệ thống trị và bị trị.
Như vậy tăng trưởng kinh tế luôn đi cùng với công bằng xã hội, thể hiện ở
chỗ chúng đều có mục tiêu chung là nhằm phát triển con người phát huy nhân tố con
người. Công bằng xã hội là định hướng cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Còn tăng trưởng
kinh tế là phương tiện để thực hiện chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thúc đẩy phát triển và
tiến bộ xã hội. Vì vậy chúng ta phải thực hiện tốt cả phát triển kinh tế và cơng bằng
xã hội.
- Phát tiển văn hố giáo dục nhằm tạo nguồn nhân lực và nâng cao dân trí,xây
dựng một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc .
Từ thực tế và kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy cần đầu tư cho
giáo dục. Vì giáo dục sẽ tạo ra những người có trình độ, có sự hiểu biết, có ích cho xã
hội. Một đất nước muốn phát triển thì đất nước đó phải có những người có tri thức,
trình độ nhận thức cao, có khả năng tiếp thu những thành tưụ văn minh của nhân loại.
Một nước có trình độ giáo dục cao sẽ có nhiều cơ hội phát triển, sẽ có nhiều phát
minh mới phục vụ cho sự phát triển của đất nước đó. Vì vậy chúng ta phải quan tâm
đến giáo dục, đầu tư cho giáo dục ở mức cao hơn. Giáo dục cần phát triển cân đối
giữa các cấp học và các trình độ, tạo cơ hội thụ hưởng giáo dục bình đẳng cho mọi
người để con em nhà nghèo có điều kiện đến trường. Từ đó họ có thể tham gia vào

quá trình phát triển và được hưởng những thành quả phát triển của đất nứơc. Bên cạnh
giáo dục, trong qúa trình phát triển chúng ta phải kết hợp sự chọn lọc tinh hoa của văn
minh nhân loại với sự giữ gìn những yếu tố tinh t của văn hố dân tộc, xây dựng
những nhân tố văn hoá xã hội chủ nghĩa.
- Phát triển kinh tế “mở”
Nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng hoà nhập vào thị trường khu vực
và thế giới. Cách mạng khoa học công nghệ càng phát triển càng làm cho lực lượng
sản xuất phát triển đạt trình độ xã hội hố cao, dẫn đến q trình khu vực hố, quốc tế
hố nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy phát triển kinh tế thị trường không chỉ
dựa trên cơ sở điều kiện trong nước mà cịn tính đến quan hệ kinh tế quốc tế, đến xu
hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế. Nền kinh tế thị trường của mỗi quốc gia muốn
18


phát triển thuận lợi không thể không gắn với thị trường thế giới. Cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại đã làm cho số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá tiêu dùng
cho sản xuất và tiêu dùng cá nhân ngày càng phong phú, đa dạng. Mà bất cứ một nước
nào dù là nước phát triển nhất cũng không thể sản xuất tất cả các loại hàng hố. Vì
vậy mỗi nướcphải tuỳ theo lợi thế của mình, lựa chọn những mặt hàng sản xuất có
hiệu quả và cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Sản xuất hàng hoá ở nước ta chỉ
có thể phát triển mạnh mẽ nếu thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngồi và
những tiến bộ công nghệ kỹ thuật hiện đại của thế giới để khai thác những tiềm năng
còn rất lớn trong nền kinh tế. Muốn vậy con đường đúng đắn là phát triển kinh tế
“mở”: hướng mạnh về xuất khẩu ,đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệh quả.

19


CHƯƠNG III: THÀNH TỰU CỦA VIỆT NAM SAU NHỮNG NĂM ĐỔI
MỚI.

1. Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập:
+ Năm 1993, chúng ta khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ
quốc tế như IMF, WB, ADB. IMF, WB đã hỗ trợ chúng ta thơng qua chương trình tín
dụng trung hạn: Chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAC) của WB và chương trình điều
chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) của IMF. Nội dung đàm phán với các tổ chức này gắn
bó mật thiết với các điều kiện của tổ chức Thương Mại Quốc Tế (WTO). Trong quan
hệ với các tổ chức này, chúng ta chỉ chấp nhận sự hỗ trợ tài chính nếu yêu cầu của hộ
khơng trái với đường lối chính sách của chúng ta; có năm họ đưa ra điều kiện vi phạm
chủ quyền lợi ích quốc gia nên ta khơng chấp nhận.
+ Ngày 25/7/1995, nước ta đã chính thức gia nhập ASEAN, đồng thời tham gia
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Từ ngày 01 tháng 01 năm 1996, chúng ta
bắt đầu thực hiện các cam kết và các nghĩa vụ trong Chương trình ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung (CEPT) cuẩ AFTA.
Theo quy định của CEPT, tới năm 2006 chúng ta có nghĩa vụ phải giảm thuế
nhập khẩu xuống cịn 0 – 5% (trừ một số hàng nơng sản nhạy cảm sẽ thực hiện tới
năm 2010). Tới năm 2010 sáu nước thành viên cũ của ASEAN sẽ thực hiện tồn bộ
các mặt hàng có thuế suất bằng 0%, với Việt Nam là 2015.
+ Tháng 3 năm 1996, nước ta đã tham gia Diễn Đàn Hợp Tác Á -Âu (ASEM)
với tư cách là thành viên sáng lập. Nội dung thảo luận chủ yếu tập trung vào thuận lợi
hoá thương mại và đầu tư và hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp Á - Âu. Cam kết tự
do hoá thương mại, đầu tư chưa được đặt ra.
+ Ngày 15 tháng 6 năm 1996, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập
Diễn Đàn Hợp Tác Kinh Tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) lúc bấy giờ
gồm 18 nước và lãnh thổ (ngày nay là 21) và tháng 11 năm 1998 đã được cơng nhận
là thàng viên chính thức của tổ chức này. APEC quyết định hội nhập đầy đủ vào năm
2010 đối với các thành viên phát triển, và 2020 đối với các nước đang phát triển
(trong đó có Việt Nam).
+ Tháng 12 năm 1994, chúng ta đã gửi đơn xin gia nhập tổ chức
20



Thương Mại Thế Giới (WTO). Cho tới nay chúng ta đã thực hiện được 4 phiên
đàm phán. Để gia nhập được vào WTO chúng ta cần đàm phán đa phương với WTO
và song phương với khoảng 30 nước, Việt Nam đang rất nỗ lực để hoàn thành.
2.Những thành tựu và hạn chế:
a Những thành tựu:
+ Chúng ta đã làm thất bại âm mưu bao vây, cấm vận, cô lập về kinh tế của các
nước đối địch. Chúng ta đã tạo được môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi cho việc
phát triển và bảo vệ Tổ Quốc, nâng cao vị thế của nước ta trên chính trường quốc tế.
+ Khơng những chúng ta khắc phục được tình trạng khủng hoảng kinh tế do
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ, mà còn mở rộng thêm thị trường xuất
nhập khẩu. Trong quá trình hội nhập, chúng ta khơng ngừng mở rộng thị trường xuất
nhập khẩu mà cịn thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển. Chúng ta đã thu được
một số thành quả: nếu năm 1990 kim ngạch xuất khẩu là 2,404 tỷ USD và kim ngạch
nhập khẩu là 2,752 tỷ USD, thì tới năm 2001 kim ngạch xuất khẩu là 15,1 tỷ USD
( nếu tính cả dịch vụ thì là 17,6 tỷ USD ). Như vậy, trung bình mỗi năm tăng 20%, có
năm tăng 30%.
+ Nền kinh tế trong nước đạt mức tăng trưởng khá:
+ Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm là 7,4%. Trong đó nơng
nghiệp tăng trương khá, giá trị sản phảm tồn nghành tăng 5,6%, thuỷ sản tăng 9,1%,
nơng nghiệp tăng 5,4%, lâm nghiệp tăng 2,1%. Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu
lương thực trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Nghành dầu khí
là một nghành tăng trưởng mạnh nhất, sản lượng dầu thô của năm 2002 tăng gấp 6
lần năm 1990. Sản lượng điện tăng gấp 3 lần. Giá trị công nghiệp xuất khẩu tăng hàng
năm là 20%. Các nghành du lịch tăng trưởng khơng ngưng, khách nước ngồi đến với
nước ta tăng hàng năm 26%. Đặc biệt, trong năm 2002, số lượng khách đến với nước
ta tăng đột biến. Các nghành dịch vụ khác cũng có mức tăng trưởng khá.
+ Chúng ta đã ban hành luật “Đầu tư trực tiếp nước ngồi” vào năm 1987. Từ
đó, chúng ta đã thu hút được 42 tỷ USD tiền vốn với hơn 3000 dự án. Trong số đó,
chúng ta đã thực hiện được 21 tỷ USD. Vốn đầu tư nước ngồi đóng góp một phần

quan trọng vào nền kinh tế trong nước.
21


+ Tranh thủ được nguồn viên trợ phát triển chính thức và ngày càng giảm thiểu
nợ nước ngoài.
+ Tiếp thu khoa học kỹ thuật, khoa học quan lý, góp phần và việc đào tạo một
lực lượng cán bộ năng động, sáng tạo.
+ Từng bước đưa hoạt động kinh tế và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh
tranh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
b Những hạn chế:
+ Chủ trương hội nhập toàn cầu hoá đã được khẳng định trong nhiều văn kiện
của Đảng. Tuy nhiên, nhận thức về từng bước đi, lộ trình hội nhập cịn đơn giản;
nhiều cán bộ, đơn vị chưa nhận thức được những cơ hội và thách thức của quá trình
hội nhập, chữ chủ động tìm hiểu vượt qua các thách thức nắm bắt cơ hội vươn lên.
Một số đơn vị cịn có chính sách lạc hậu khơng bắt kịp q trình phát triển gây trở
ngại cho tồn cục.
+ Chủ trương hội nhập mới chỉ được triển khai ở các đơn vị cấp TW, các thành
phố lớn chưa có sự phối hợp đồng bộ của nhiều đơn vị. Chính vì vậy nó mất đi sức
mạnh của khối đại đồn kết.
+ Chúng ta chưa có một kế hoạch lâu dài cho q trình hội nhập và chưa có lộ
trình hợp lý cho việc hội nhập.
+ Nhiều doanh nghiệp lạc hậu, thiếu sự năng động, thiếu hiểu biết về luật pháp
quốc tế, khả năng cạnh tranh kém, lại quá ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà Nước còn
nặng.
+ Nước ta tuy đã biến đổi nhiều nhưng môi trường kinh doanh vẫn chưa thật sự
thơng thống. Hệ thống pháp luật tuy đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn chưa đồng
bộ, rườn rà. Kết cấu hạ tầng kém, hệ thống hành chính vẫn có nhiều biểu hiện quan
liêu, tham nhũng. Trình độ năng lực nghiệp vụ còn yếu kém, chưa được đào tạo đến
nơi đến chốn.

+ Đội ngũ làm kinh tế đối ngoại còn thiếu và yếu. Các cơ quan chức năng còn
chưa chuẩn bị cho các doanh nghiệp hội nhập kinh tế.
3. Những giải pháp cho Việt Nam:

22


a Hội nhập kinh tế là một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trên thế
giới.
Việt Nam là một thành viên trong một mái nhà khơng thể đứng ngồi cuộc.
Chính vì vậy, trong rất nhiều kỳ họp Đảng ta đã đưa ra mục tiêu và một số quan điểm
chỉ đạo sau:
+ Về mục đích của hội nhập kinh tế: Chủ động hội nhập kinh tế nhằm mở rộng
thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý nhằm
đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
+ Một số ý kiến chỉ đạo của Đảng và Nhà Nước:
(1) Quán triệt chủ chương đã được xác định ở đại hội Đảng lân thứ IX: “Chủ
động hội nhập kinh tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao khả năng hợp
tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích
dân tộc; an ninh quốc gia; giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
(2) Hội nhập kinh tế là sự nghiệp của toàn dân; trong khi hội nhập cần phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của tồn xã hội, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
(3) Hội nhập kinh tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa
có nhiều cơ hội, vừa có nhiều thách thức, vì vậy cần tỉnh táo, linh hoạt trong việc xử
lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, trường hợp thời điểm cụ thể; vừa phải
tránh tư tưởng thụ động trì trệ, vừa phải tránh tư tưởng nơn nóng giản đơn.
(4) Nhận thức đầy đủ tình hình đặc điểm của nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế
hoạch và lộ trình hội nhập phù hợp với trình độ phát triển của nước ta, vừa đáp ứng

đầy đủ các quy định của các tổ chức quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ ưu đãi
dành cho các nước đang phát triển và các nước đang chuyển từ nền kinh tế bao cấp
sang nền kinh tế thị trường. Nhà Nước phải đưa ra một chính sách kinh tế vĩ mơ và
điều khiển nó sao cho có hiệu quả.
(5) Kết hợp chặt chẽ giữa hội nhập nền kinh tế với việc đảm bảo an ninh quốc
phịng, thơng qua hội nhập để tăng thêm sức mạnh tổng hợp quốc gia, nhằm giữ vững
độc lập chủ quyền, cảnh giác các thế lực thù địch thông qua hội nhập kinh tế để thực
23


hiện “Diễn Biến Hồ Bình” với nước ta. Nhà nước ta dựa trên những ý kiến trên đã
đặt ra cho chúng ta những nhiệm vụ cần thiết.
+ Tuyên truyền rộng rãi, giải thích đối với mọi tầng lớp về vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế. Làm sao cho nhân dân ta thấy rằng đó là một bước đi tất yếu và có
niềm tin để tham gia vào q trình hội nhập.
+ Nhgiên cứu và xây dựng một lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta.
Đồng thời trong khi hội nhập cần chú ý tới các ngành mà ta cịn yếu kém như viễn
thơng, dịch vụ...
+ Chủ động và khẩn trương chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế, nâng cao trình
độ khoa học kĩ thuật, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Chúng
ta phải không ngừng nâng cao chất lượng, đồng thời phải tìm cách hạ giá thành sản
phẩm.
+ Tích cực hồn thành một cơ cấu quản lý đồng bộ theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước cần thúc đẩy làm nhanh chóng hình thành nên các thị trường hàng
hố, bất động sản, thị trường chứng khốn...
+ Có kế hoạch về đào tạo nhân lực tinh thông về nghiệp vụ, vững vàng về
chính trị.
+ Kết hợp hoạt động đối ngoại về chính trị và kinh tế chính trị.
+ Chủ chương hội nhập kinh tế với đảm bảo an ninh quốc phịng.
+ Tích cực đàm phán để tham gia vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO.

+ Kiện toàn Uỷ ban kinh tế quốc tế đủ năng lực và thẩm quyền.
b. Khai thông thị trường, chủ động hội nhập quốc tế.
Sau gần 15 năm thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa theo tinh thần Đại Hội
VI của Đảng, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, tạo thế
và lực lượng khá vững chắc cho đất nước bước vào thế kỉ XXI. Đến nay quy mô nền
kinh tế đã tăng gấp hai lần so với năm 1990. Chúng ta đã thiết lập quan hệ với hơn
170 nước, tranh thủ được đầu tư trực tiếp của gần 100 nước với 2290 dự án, vốn đăng
kí trên 35,5 tỉ USD và vốn thực hiện đạt trên 15,1 tỉ USD. Đáng chú ý là chúng ta đã
khai thông được quan hệ với các tổ chức tài chính – tiền tệ lớn trên thế giới như

24


WB,IMF...; mở rộng thị trường xuất nhập khẩu sang EU, Bắc Mỹ.Tuy nhiên, chúng ta
cũng có khơng ít hạn chế như:
+ Sự ách tắc trong lưu thơng hàng hố, tổng cung lớn hơn tổng cầu, nhiều hàng
hoá bị ứ đọng dẫn đến sản xuất bị thu hẹp, người lao động thất nghiệp. Nhiều doanh
nghiệp cịn trong tình trạng kinh doanh theo tứng thương vụ, tìm kiếm lợi nhuận tức
thời, chưa chú trọng cho kế hoạch lâu dài.
+ Tiềm năng của thị trường nước ta còn lớn nhưng chưa được khai phá hết: thị
trường chứng khốn đã được mở nhưng cịn non trẻ, thị trường bất động sản chưa
được khai thông cịn nhiều cản trở, thị trường lao động đang hình thành, thị trường
dịch vụ đang có dấu hiệu chững lại...; trên từng địa bàn, địa phương cịn bị chính
quyền địa phương gây khó khăn; thị trường nơng thơn, vùng sâu vùng xa cịn kém
phát triển.
Chính vì vậy, một nhiệm vụ đặt ra trước mắt là phải khai thông được thị trường
trong nước để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Để giải quyết những vấn đề
còn tồn đọng, chúng ta có một số biện pháp sau:
Thứ nhất, đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ: xoá bỏ sự chia cắt thị trường
nội địa thông qua bãi bỏ thuế bn chuyến, các khoản phí, lệ phí bất hợp lý do các bộ,

ngành, địa phương tự đặt ra gây cản trỏ giao lưu hàng hố.
Đi đơi với chính sách hỗ trợ tiêu thụ một số mặt hàng còn tồn đọng lớn (như
than, xi măng..). Có chính sách khuyến khích mua trả góp những mặt hàng tiêu dùng
sản xuất trong nước, hướng dẫn cơ chế tài chính với các doanh nghiệp bán hàng trả
góp; miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần lãi thu được từ bán
hàng trả góp...Điều này nhằm làm tăng thêm tính sơi động của thị trường. Về dịch vụ,
cần khuyến khích và có chính sách hỗ trợ.
Thứ hai, đối với thị trường khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa:
Nhà nước nên áp dụng giá sàn để thu mua một số sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu;
hỗ trợ hoạt động thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa thông qua việc tiếp tục trợ
giá cho các mặt hàng thiết yếu; hỗ trợ lãi xuất cho các cơ sở thu mua sản phẩm nông
nghiệp...Nhà nước nên chú trọng nâng cao thu nhập cho nông dân; giảm thuế nông
nghiệp cho nông dân và có chính sách bao tiêu sản phẩm...
25


×