Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

TỔ CHỨC BỘ MÁY KIÊM TOÁN ĐỘC LẬP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.36 KB, 55 trang )

TỔ CHỨC BỘ MÁY KIÊM TOÁN ĐỘC LẬP TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
I. Sự tất yếu hình thành loại hình kiểm toán độc lập ở Việt Nam
1. Sự ra đời loại hình kiểm toán độc lập ở Việt Nam
1.1. Sự cần thiết của kiểm toán độc lập đối với nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Một vài nét về hoạt động kiểm tra kế toán ở Việt Nam:
Trong thời kì bắt đầu xây dựng xã hội XHCN ở miền Bắc, năm 1957 lần
đầu tiên nhà nước đã ban hành Chế độ sổ kế toán trên hệ thống các Lệnh nhật
ký, trong đó có gần 27 Lệnh nhật ký dùng cho các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu
nhà nước. Trong mỗi Nhật ký đã kết hợp cả yêu cầu thông tin cho quản lý và
yêu cầu kiểm tra hoạt động tài chính. Đây là mốc đầu tiên thể hiện mục tiêu thể
chế, thực hiện sự thống nhất và tiêu chuẩn hóa công tác kế toán, kiểm tra của
đất nước để phục vu cho yêu cầu quản lý của xí nghiệp và của nhà nước.
Trong những năm đầu tiên này, dù hệ thống pháp chế còn đơn giản nhưng
ý thức trách nhiệm và kỷ cương trong công tác tài chính kế toán rất tốt góp phần
quan trọng đưa công tác tài chính đi vào nền nếp.
Năm 1967, Liên bộ thống kê và Tài chính đã ban hành Chế độ Ghi chép
ban đầu áp dụng cho các xí nghiệp quốc doanh và một loạt chế độ về tài khoản
kế toán, bộ nhật ký chứng từ cùng hệ thống các báo cáo thống kê kế toán. Giá
trị lịch sử của các văn bản pháp lý của kế toán nêu trên chính là ở chỗ: chúng
phục vụ đắc lực cho sự quản lí của nhà nước đối với công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đặc biệt, trong hệ thống nhật ký chứng từ đã chứa đựng nhiều yếu
tố của cân đối tổng quát đến cân đối cụ thể qua đối chiếu các chỉ tiêu trên cùng
một nhật ký và giữa các nhật ký, các bảng kê khác nhau. Nhờ đó, kế toán phục
vụ đắc lực hơn cho bộ máy nhà nước và các doanh nghiệp quản lý nền kinh tế.
Năm 1971, nhà nước ta tiếp tục ban hành chế độ kế toán sửa đổi theo yêu
câu mới: tính chất thống nhất, toàn diện và tiêu chuẩn hóa được nâng lên đáng
kể. Sự can thiệp của nhà nước không chỉ dừng lại ở kiểm soát các doanh
nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước mà còn bước đầu thực hiện công bằng về pháp
luật, tài chính, lợi ích kinh tế giữa các tế bào kinh tế xã hội thuộc các lĩnh vực
kinh doanh, các hình thức sở hữu khác nhau. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập


trung, quá trình phát triển trong lĩnh vực kế toán là những mốc biến đổi quan
trọng, góp phần tăng cường quyền lực chính trị, kinh tế tài chính của bộ máy
quản lý nhà nước.
Từ tháng 5/1988, nhà nước ta ban hành pháp lệnh kế toán thống kê nhằm
đưa công tác kế toán, thống kê vào kỷ cương và tăng cuờng pháp chế cho kế
toán. Các chế độ kế toán trong giai đoạn này đã ban hành gồm: chế độ kế toán
áp dụng thống nhất trong nền kinh tế quốc dân cho mọi lĩnh vực, mọi thành
phần kinh tế khác nhau (tài khoản, sổ kế toán và báo cáo kế toán); các chế độ kế
toán chuyên ngành, chuyên lĩnh vực: kế toán kho bạc, kế toán hành chính sự
nghiệp, kế toán ngoài quốc doanh, kế toán thương mại – dịch vụ và các chế độ
kế toán ngành hẹp khác... Nhìn chung chế độ kế toán đã đạt được những giá trị
có tầm quan trọng đặc biệt:
Một là, thể chế chế độ thông tin – kiểm tra bằng kế toán trong một cơ chế
thị trường, cho một cơ chế quản lý tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp
mới.
Hai là, thể hiện sự phân biệt thông tin quản lý của kế toán với các loại
thông tin khác trong hệ thống thông tin.
Ba là, phục vụ cho sự quản lý thống nhật của nhà nước về các lĩnh vực tài
chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp trong cơ chế mới.
Bốn là, thể hiện sự thống nhất và tiêu chuẩn hoá cao về thông tin kế toán,
phần nào tiếp cận được ngôn ngữ thông tin kế toán quốc tế và những chuẩn mực
kế toán quốc tế.
Năm là, đứng trước những thay đổi có tính cách mạng trong cơ quản lý,
cơ chế kinh tế, sự thừa nhận một cách tất yếu khách quan nền sản xuất hàng
hóa, nền kinh tế thị trường và một kiểu quản lý tài chính thích hợp với nó. Năm
1989, chế độ kế toán mới đã được ban hành thay thế cho chế độ kế toán trước
đây. Về mặt lịch sử, đó là sự phát triển và hoàn thiện cần thiết vừa có tính kế
thừa vừa mang tính cách mạng thực sự. Thực tế từ năm 1988 đến năm 1990, bộ
tài chính kết hợp với một số ngành hữu quan đã lần lượt cải tiến và ban hành
một hệ thống các chế độ và văn bản pháp quy về kế toán mới theo tinh thần kế

thừa các chế độ kế toán trước đây và khắc phục những hạn chế có tính lịch sử
của chúng để phù hợp với tiến trình phát triển của kinh tế đất nước.
Tuy nhiên chế độ kế toán mới ban hành 1989 vẫn còn khoảng cách khá
xa so với thông lệ quốc tế phổ biến của kế toán và có những đặc điểm cụ thể
chưa bắt nhịp đặc trưng của cơ chế thị trường. Do vậy từ năm 1994, Thủ tướng
Chính phủ đã chỉ thị và trực tiếp cải cách kế toán. Qua gần 2 năm nghiên cứu
soạn thảo và thử nghiệm, tháng 12/1995 hệ thống kế toán tài chính doanh
nghiệp chính thức được ban hành. Đặc trưng cơ bản của hệ thống kế toán mới
ban hành tháng 12/1995 là vừa bảo đảm yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước
vừa hội nhập với thông lệ phổ biến của kế toán quốc tế và vừa tính đến điều
kiện cụ thể của Việt Nam. Trong điều kiện đó, kiểm toán cũng cần được tổ chức
lại một cách thích ứng.
Do thực tế khách quan thay đổi nên giai đoạn từ năm 1995 đến nay chính
là thời gian mà hệ thống kế toán tài chính nước ta có những bước phát triển cao
nhất và hoàn thiện nhất. Đặc biệt là từ năm 1995 đến nay hệ thống kế toán toán
tài chính nước ta đã hình thành và phát triển lĩnh vực kiểm toán. Sự phát triển
vượt bậc này được đánh dấu bởi sự ra đời của Luật kế toán Việt Nam do quốc
hội khoá XI kỳ họp thứ 3 thông qua cũng như các chuẩn mực về kế toán tài
chính riêng của Việt Nam đã được ban hành.
Kế toán tài chính tại Việt Nam không còn phát triển một cách đơn lẻ tự
phát nội bộ mà đã có hệ thống và liên kết với thế giới. Đánh dấu bước phát triển
quan trọng này là vào năm 1996 Hội kế toán Việt Nam (VAA) ra đời và trở
thành thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) cũng như là thành viên
của Liên đoàn kế toán các nước ASEAN (AFA). Tính đến ngày 31/12/2004 ở
Việt Nam đã có 78 công ty kiểm toán độc lập và 6 công ty kế toán. Hệ thống kế
toán nước ta gồm 3 lĩnh vực chủ yếu là kinh doanh, Nhà nước ( luật quản lý
ngân sách, kể từ năm 2004 đã bắt đầu nghiên cứu soạn thảo hệ thống các chuẩn
mực kế toán công), kinh doanh tiền tệ, thị trường chứng khoán.
1.1.2. Sự cần thiết của kiểm toán độc lập đối với nền kinh tế thị trường
Nếu nói rằng nền kinh tế thị trường có hiệu quả hơn so với nền kinh tế kế

hoạch hóa tập trung thì kiểm toán độc lập chính là công cụ quản lý kinh tế, tài
chính đắc lực góp phần nâng cao tính hiệu quả đó của nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường các thông tin tài chính có độ tin cậy, chính xác và
trung thực hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ thể trong
các hoạt động kinh tế. Kiểm toán độc lập hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu này
của nền kinh tế.
Luật pháp nhiều nước khảng định rằng, chỉ những báo cáo đã được xem
xét và có chữ ký của kiểm toán viên độc lập mới được coi là hợp pháp, làm cơ
sở cho Nhà nước tính thuế cũng như các bên quan tâm khác đưa ra các quyết
định kinh tế trong mối quan hệ với doanh nghiệp.
Ở nước ta, trong Quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc
dân ban hành kèm theo Nghị định số 07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ đã
chỉ rõ “Sau khi có xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thì các tài liệu,
số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các đơn vị kế toán là căn cứ cho việc
điều hành, quản lý hoạt động ở đơn vị, cho các cơ quan quản lý cấp trên và cơ
quan tài chính nhà nước xét duyệt quyết toán hàng năm của các đơn vị kế toán,
cho cơ quan thuế tính toán số thuế và các khoản phải nộp khác của đơn vị đối
với ngân sách Nhà nước, cho các cổ đông, các nhà đầu tư, các bên tham gia liên
doanh, các khách hàng và các tổ chức, cá nhân xử lý các mối quan hệ về quyền
lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong quá trình hoạt động của đơn vị”.
Như vậy mục đích tổng quát của kiểm toán là cung cấp sự đảm bảo cho
bên thứ ba là những người sử dụng các thông tin tài chính rằng các thông tin họ
được cung cấp có trung thực, hợp lý hay không. Trong nền kinh tế thị trường, có
nhiều đối tượng khác nhau sử dụng kết quả kiểm toán với những mục đích khác
nhau. Đối với Ngân hàng, những đối tượng cho vay vốn, họ cần biết rằng số vốn
họ cho vay có được sử dụng đúng mục đích hay không, tình hình tài chính của
đơn vị có khả năng hoàn trả hay không. Đối với cơ quan thuế, căn cứ vào báo
cáo tài chính đã được kiểm toán để tính và thu thuế, tương tự, đối với các cơ
quan chức năng cũng căn cứ vào báo cáo tài chính được kiểm toán để hoạch
định chính sách cho phù hợp. Đối với doanh nghiệp được kiểm toán mong

muốn, thông qua kiểm toán, có được báo cáo tài chính phù hợp với các nguyên
tắc, chuẩn mực kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), phát hiện và ngăn
ngừa các sai sót và gian lận. Đối với chủ sở hữu doanh nghiệp, các cổ đông họ
cần biết một cách đầy đủ, đúng đắn về kết quả kinh doanh, về lợi nhuận cũng
như khả năng phát triển của Doanh nghiệp, từ đó có hướng đầu tư hiệu quả.
Tóm lại, kiểm toán phải mang lại cho những người sử dụng kết quả kiểm toán
sự tin cậy, mức độ trung thực của các thông tin tài chính mà họ được cung cấp.
1.2. Sự ra đời của kiểm toán độc lập ở Việt Nam
Nếu không đứng trên góc độ tổ chức thống nhất thì hoạt động kiểm toán
độc lập đã được hình thành và phát triển ở nước ta trước ngày giải phóng miền
Nam: các văn phòng kế toán với các giám định viên kế toán và cả văn phòng
kiểm toán quốc tế như SGV, Arthur Andersen,... đã thực sự là những trung tâm
thực hành kế toán cho các doanh nghiệp (nhỏ) ở một vài thành phố, các tỉnh
phía Nam lúc đó. Sau chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chủ trương đa dạng hóa các
loại hình sở hữu và đa phương hóa đầu tư đã đặt ra những câu hỏi cấp thiết về
dịch vụ kiểm toán. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế, ngày
13/5/1991 Bộ Tài chính thành lập hai công ty kiểm toán đầu tiên là Công ty
kiểm toán Việt nam (VACO) và Công ty Dịch vụ Kế toán (viết tắt là ASC), sau
đổi thành Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (viết tắt là
AASC). Sự ra đời của hai công ty nói trên đã tạo tiền đề cho sự ra đời của các
công ty tiếp theo bởi sự hoạt động tích cực và có hiệu quả cũng như yêu cầu, đòi
hỏi cấp thiết của nền kinh tế nước ta trong những năm đổi mới.
Hình thức tổ chức của các công ty kiểm toán ở Việt nam bị chi phối bởi
hình thức sở hữu công ty.
Đối với các công ty kiểm toán là doanh nghiệp nhà nước, tổ chức phụ
thuộc vào cơ chế quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước,
trong đó Giám đốc, người đứng đầu công ty do cơ quan thành lập bổ nhiệm (Bộ
tài chính, UBND Thành phố). Cách thức tổ chức tại các công ty này theo chức
danh và theo cơ cấu hành chính. Trách nhiệm công việc và tổ chức hoạt động
theo chức danh quản lý.

Đối với các công ty 100% vốn nước ngoài, các công ty này đều thuộc các
công ty kiểm toán quốc tế, do vậy về cơ cấu tổ chức giống như các công ty quốc
tế. Tuy nhiên vì công ty được thành lập theo luật đầu tư nước ngoài ở Việt nam,
thuộc hình thức công ty TNHH nên về tổ chức hành chính, ở các công ty này
vẫn có chức danh GĐvà là đại diện pháp lý của công ty về các vấn đề hành
chính trước các cơ quan chức năng cũng như trong các hoạt động kinh tế.
Đối với các công ty TNHH trong nước, các công ty này đến nay qui mô
vẫn còn hạn chế và chưa hình thành hình thức tổ chức rõ nét. Do hình thức sở
hữu tư nhân, nên GĐ công ty là chủ sở hữu, người theo pháp luật phải có chứng
chỉ kiểm toán viên sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với mọi hoạt động
của công ty.
Qui mô của các công ty kiểm toán ở Việt nam có sự khác biệt khá rõ nét.
Nhìn chung các công ty kiểm toán là doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn hơn,
có nhiều chi nhánh và văn phòng ở các thành phố lớn trong cả nước. Trong khi
đó các công ty TNHH có qui mô hạn chế nhất, chỉ có một văn phòng chính nơi
thành lập. Các công ty kiểm toán có vốn đầu tư nước ngoài đều có văn phòng ở
Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Vai trò của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường
Trên thế giới hầu hết các nước đi theo kinh tế thị trường đều có hoạt động
kiểm toán độc lập. Trái lại ở các nước đi theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung đều
không có kiểm toán, thậm chí không truyền bá kiến thức về kiểm toán độc lập.
Thật vậy, ở nước ta có thể nói hoạt động kiểm toán được hình thành và
phát triển từ trước ngày giải phóng miền Nam. Sau thống nhất đất nước, với cơ
chế kế hoạch hoá tập trung, KTĐL không tồn tại nữa. Mãi cho đến khi Đảng và
Nhà nước ta chủ trương đa dạng hoá các loại hình sở hữu và đa phương hoá các
đầu tư đã đặt ra những đòi hỏi cấp thiết thì loại hình KTĐL mới thực sự xuất
hiện. Điều này cho thấy KTĐLcó vai trò to lớn trong nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh cần phải có thông tin chính xác kịp
thời và tin cậy. Để đáp ứng yêu cầu này phải có bên thứ ba độc lập khách quan

có trình độ chuyên môn cao, được pháp luật cho phép cung cấp thông tin tin cậy
cho các bên quan tâm. Bên thứ ba này chính là KTĐL. Ở nhiều quốc gia có nền
kinh tế thị trường phát triển quy định chỉ có các báo cáo tài chính đã được kiểm
toán mới có giá pháp lý và đáng tin cậy. Ý nghĩa và tầm quan trọng của KTĐL
thể hiện trên các mặt sau:
2.1. Thứ nhất, kiểm toán độc lập tạo niềm tin cho những người quan tâm
Dù hoạt dộng trong bất kì lĩnh vực kinh tế nào, thì kết quả hoạt động
hàng năm của doanh nghiệp đều thể hiện trên báo cáo tài chính (gồm bảng cân
đối kế toán, báo cáo kế quả kinh doanh, bảng lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh
báo cáo tài chính).
Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, đa số các chủ doang nghiệp - người có
trách nhiệm lập báo cáo tài chính muốn che giấu các phần yếu kém hoặc
khuyếch trương kết quả kinh doanh của mình trên các Bảng khai tài chính đó.
Trái lại những người quan tâm đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của
doanh nghiệp lại đòi hỏi sự trung thực chính xác cuả bản báo cáo tài chính đó.
Vì thế cần có sự kiển tra xác nhận của người thứ ba, đó chính là Kiểm toán viên
độc lập - những người hoạt động theo nguyên tắc bắt buộc và có đủ năng lực uy
tín với cả chủ doanh ngiệp và người quan tâm đến bản báo cáo tài chính. Những
người quan tâm có thể kể đến là:
- Các cơ quan Nhà nước cần có thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. Nhà nước căn cứ vào báo cáo tài chính đã được kiểm toán để xem xét các
doanh nghiệp sử dụng ngân sách Nhà nước, tài sản quốc gia để hoạt động kinh
doanh có đem lại hiệu quả không, có phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
hay không. Cơ quan thuế sẽ căn cứ vào báo cáo tài chính đã được kiểm toán để
tính và thu thuế trừ khi có nghi vấn mới kiểm tra lại. Về nghĩa vụ thuế đối với
Nhà nước, các doang nghiệp thường muốn nộp ít để chiếm chiếm dụng phần
thiếu phải nộp Nhà nước nên họ sẽ khai tăng các khoản chi phí để làm giảm lợi
nhuận và như thế thuế phải nộp sẽ ít đi. Tuy nhiên nếu được kiểm toán thì sai
phạm này sẽ bị phát hiện và điều chỉnh.
- Các cổ đông góp vốn kinh doanh hoặc mua cổ phiếu của doanh nghiệp tuy

không có trình độ để kiểm tra kỹ lưỡng bản báo cáo tài chính, do đó khi có trên
tay bản báo cáo tài chính đã được kiểm toán và được xác nhận là trung thực hợp
lý thì họ có thể yên tâm ăn chia lợi tức và quyết định tiếp tục đầu tư hoặc không
đầu tư vào doanh nghiệp đó.
- Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay vốn cũng phải
nắm chắc tình hình kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng để quyết định
cho vay, thu hồi vốn hoặc không cho vay. Hoạt động kiểm toán sẽ giúp ngân
hàng hoặc những người cho vay làm việc đó.
- Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp đều muốn hợp tác với những đối
tác có tình hình tài chính khả quan và có khả năng phát triển, Kiểm toán sẽ làm
sáng tỏ và minh bạch hóa số liệu trên báo cáo tài chính của một công ty, các
doanh nghiệp khác sẽ coi đó là cơ sở để quyết định có hợp tác lâu dài hay
không. Trong kinh tế thị trường người lao động có quyền lựa chọn nơi làm việc
ổn định và có mức thu nhập cao. Bản báo cáo tài chính của một doanh nghiệp
làm ăn có lãi được kiểm toán viên xác nhận sẽ hấp dẫn người lao động có trình
độ chuyên môn và năng lực.
- Việt Nam đang thực hiện chính sách mở cửa, đa phương hoá đầu tư không chỉ
trong nước mà còn nước ngoài. Việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài (cả trực
tiếp và gián tiếp) đang được Nhà nước rất quan tâm, cụ thể là đã ban hành Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt nam nhằm khuyến khính các nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư vào Việt Nam. Những nhà đầu tư nước ngoài luôn đòi hỏi một báo cáo tài
chính được kiểm toán xác nhận về tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp
và dự án mà họ dự định đầu tư.
- Các nhà quản trị doang nghiệp và các nhà quản lý khác cũng cần thông tin trung
thực không chỉ riêng trên các bảng khai tài chính để có những quyết định trong
mọi giai đoạn quản lý kể cả tiếp nhận vốn liếng, chỉ đạo và điều hành các hoạt
động kinh doanh và hoạt động quản lý. Những thông tin đó chỉ có được thông
qua kiểm toán.
2.2. Thứ hai, kiểm toán độc lập góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp
hoạt động tài chính kế toán

Mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động tài chính đều bao gồm những mối
qua hệ đa dạng, luôn luôn biến đổi và được cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ
cụ thể. Để hướng các nghiệp vụ này vào mục tiêu giải quyết tốt các quan hệ trên
không chỉ cần có định hướng đúng và thực hiện tốt mà cần thường xuyên soát
xét việc thực hiện để hướng các nghiệp vụ vào quỹ đạo mong muốn. Hơn nữa
chính những định hướng và tổ chức thực hiện tốt trên cơ sở những bài học thực
tiễn và uốn nắn thường xuyên những lệch lạc trong quá trình thực hiện sẽ góp
phần nâng cao trình độ và chất lượng của hoạt động kế toán. Nước ta đang trong
quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế trong đó các quan hệ tài chính và chế độ kế
toán thay đổi nhiều lần. Trong khi đó công tác kiểm tra kiểm soát chưa chuyển
hướng kịp thời, dẫn tới tình trạng vi phạm các nguyên tắc chế độ tài chính kế
toán. Đã có ý kiến cho rằng chưa thể cải cách công tác kiểm tra trong khi chưa
triển khai toàn diện và rộng khắp công tác kế toán. Tuy nhiên kinh nghiệm thực
tế đã chỉ rõ chỉ có triển khai tốt hơn công tác kiểm toán mới có thể nhanh chóng
tài chính kế toán đi vào nề nếp.
2.3. Thứ ba, kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý
Rõ ràng kiểm toán không chỉ có chức năng xác minh mà còn có chức
năng tư vấn. Các chủ doang nghiệp không thể kiểm soát hàng ngàn, hàng vạn
nghiệp vụ tài chính kế toán đã xảy ra trong doanh nghiệp. Vì vậy các chủ doanh
nghiệp thường kiểm soát các nghiệp vụ tài chính kế toán cho người phụ tá. Để
biết được một cách chính xác, trung thực tình hình tài chính kế toán của mình
vào kì hạn nào đó, người chủ doanh nghiệp thường mời các công ty kiểm toán
độc lập chuyên nghiệp có uy tín thực hiện việc xác minh và bày tỏ ý kiến về các
bảng khai tài chính của doang nghiệp mình do người phụ trách kế toán lập ra.
Những nhận xét của công ty kiểm toán sẽ giúp cho các chủ doanh nghiệp
kịp thời phát hiện những sai sót, lãng phí hoặc vi phạm pháp luật do cố ý hay vô
ý để xử lý kịp thới hay ngăn ngừa các tổn thất. Điều đó giúp doanh nghiệp hạn
chế được những rủi ro hay phát hiện ra thế mạnh những tiềm năng tài chính nội
tại có trong doanh nghiệp. Từ tất cả những điều trình bày trên, có thể thấy kiểm
toán có ý nghĩa trên nhiều mặt : ”Đó là quan toà công minh của qúa khứ, người

dẫn dắt cho hiện tại và người cố vấn sáng suốt cho tương lai “.
II. Tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1. Hình thức tổ chức, điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp kiểm
toán: (Nghị định 105/2004/NĐ-CP; Thông tư 64/2004/TT-BTC và Thông tư
60/2005/TT-BTC; Nghị định 30/2009/NĐ-CP)
Kiểm toán độc lập là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế thị
trường với vai trò mang lại độ tin cậy cho các thông tin tài chính thông qua các
báo cáo tài chính đã được kiểm toán, qua đó tạo cơ sở cho các bên tiến hành các
giao dịch kinh tế.
Kiểm toán độc lập ở Việt Nam hình thành và phát triển bằng việc thành
lập công ty kiểm toán đầu tiên vào tháng 5/1991. Sau hơn 18 năm hoạt động với
những thay đổi và yêu cầu mới về kiểm toán độc lập, trong yêu cầu hội nhập và
thực hiện các cam kết của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì khung pháp
lý về kiểm toán độc lập tại Việt Nam cần được hoàn thiện và nâng cấp.
Được hình thành và phát triển từ năm 1991 nhưng đến năm 1994 thì
Chính phủ mới chính thức ban hành Nghị định 07/CP ngày 29/01/1994 về
“kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân”. Sau 10 năm thực hiện Nghị
định 07, đến tháng 3/2004 Chính phủ ban hành Nghị định 105/2004/NĐ-CP
thay thế Nghị định 07. Nghị định này đã được sửa đổi, bổ sung tại các Nghị
định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 và Nghị định 30/2009/NĐ-CP ngày
30/03/2009. Để hướng dẫn việc thực hiện các nghị định Chính phủ ở từng thời
kỳ về Kiểm toán độc lập, Bộ Tài chính đã xây dựng và ban hành các Thông tư
hướng dẫn, các Quyết định liên quan đến thực hiện các Nghị định của Chính
phủ và các quy định về thi, cấp chứng chỉ kiểm toán viên, đăng ký hành nghề
kiểm toán.
1.1. Hình thức tổ chức của doanh nghiệp kiểm toán
Công tác kiểm toán độc lập do các KTV độc lập thực hiện. Theo thông lệ
quốc tế, KTV có thể hành nghề theo công ty hoặc hành nghề cá nhân. Tuy nhiên
ở Việt Nam luật pháp chưa cho phép hành nghề kiểm toán cá nhân. KTV muốn
hành nghề phải đăng ký và được chấp nhận vào làm việc tại một DNKT được

thành lập hợp pháp.
Hiện nay, Nghị định 30/2009/NĐ-CP của Chính phủ chỉ cho phép thành lập
DNKT theo các hình thức: công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên,
công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân. DNKT phải công khai
hình thức này trong quá trình giao dịch và hoạt động.
Tại nghị định đầu tiên của chính phủ về KTĐL Nghị định số 07/1994/NĐ-CP
ngày 29/01/1994 không có hạn chế về hình thức của doanh nghiệp
kiểm toán. Tại điều 4 của nghị định này đã quy định: “Tổ chức
kiểm toán độc lập là một doanh nghiệp (công ty kiểm toán hoặc
văn phòng kiểm toán) được thành lập theo quy định hiện hành về
thành lập các loại doanh nghiệp và các qui định trong Quy chế
này”.
Điều 6 của nghị định này cũng quy định về các tổ chức nước ngoài hoạt động
kế toán tài chính tại Việt Nam như sau: “Các tổ chức kiểm toán
nước Ngoài hoạt động kiểm toán và tư vấn tài chính - kế toán trên
lãnh thổ Việt Nam phải được Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu
tư của Việt Nam cấp giấy phép, sau khi có sự thoả thuận bằng văn
bản của Bộ tài chính. Hoạt động của kiểm toán viên và tổ chức
kiểm toán nước ngoài phải tuân thủ Luật Đầu tư nước ngoài của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quy định trong
Quy chế này và các thông lệ kiểm toán quốc tế được Nhà nước Việt
Nam thừa nhận”.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã nảy sinh một số bất cập đối với hình thức
công ty cổ phần vì công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu ra
công chúng, rất nhiều người có thể mua cổ phiếu nhiều đến mức
đạt được quyền kiểm soát và chi phối hoạt động của doanh nghiệp
kiểm toán nhưng không có chứng chỉ hành nghề sẽ không đảm
bảo chất lượng dịch vụ kiểm toán. Chính vì vậy mà sau hơn 10
năm áp dụng đến năm 2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định
105/2004/NĐ-CP thay thế nghị định 07/1994/NĐ-CP. Tại điều 20

của nghị định 105/2004/NĐ-CP đã hạn chế hình thức doanh
nghiệp kiểm toán: Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân và
Doanh nghiệp theo luật Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Điều này có nghĩa là sẽ không còn công ty kiểm toán chịu trách nhiệm hữu hạn
mà các công ty kiểm toán sẽ phải chịu trách nhiệm vô hạn, việc
hạn chế hình thức công ty kiểm toán này đã đảm bảo về tính độc
lập, trách nhiệm và uy tín của công ty kiểm toán. Tuy nhiên đến
năm 2005, do yêu cầu của quá trình hội nhập và đặc biệt những
cam kết của Việt Nam trong đàm phán gia nhập WTO có những
thay đổi phát sinh liên quan đến hoạt động KTĐL, Chính phủ đã
ban hành Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định 105/2004/NĐ-CP trong đó bổ
sung thêm hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn vào hình thức
các công ty kiểm toán như sau:
1. Khoản 1 và khoản 3 Điều 20 được sử đổi, bổ sung như sau:
"1. Doanh nghiệp kiểm toán được thành lập và hoạt động theo quy định
của pháp luật theo các hình thức: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
danh, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp theo Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Doanh nghiệp kiểm toán phải công khai hình thức này trong quá trình
giao dịch và hoạt động".
"3. Doanh nghiệp nhà nước kiểm toán, công ty cổ phần kiểm toán đã
thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp từ trước
ngày Nghị định số 105/2004/NĐ-CP có hiệu lực được phép chuyển đổi theo một
trong các hình thức, doanh nghiệp quy định tại khoản 1 Điều này trong thời hạn
3 năm kể từ ngày Nghị định số 105/2004/NĐ-CP có hiệu lực".”
Qua thực tiễn thực hiện trong những năm qua, các nội dung quy định trong các
Nghị định, Thông tư và Quyết định liên quan về tổ chức, hoạt
động và quản lý hoạt động KTĐL bộc lộ những bất cập, có những
điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và thiếu đồng bộ so với
các bộ luật khác do đó ngày 30 tháng 3 năm 2009 Chính phủ đã

ban hành Nghị định số 30/2009 NĐ-CP về sửa đổi bổ sung nghị
định số 105/2004 NĐ-CP. Cụ thể là bất cập và chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế về quy định loại hình DNKT. Theo quy định của
Nghị định số 133/2005 NĐ-CP, DNKT được thành lập theo các
hình thức là: công ty TNHH, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư
nhân và doanh nghiệp theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, công ty TNHH có
hai loại hình là: Công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH
hai thành viên trở lên, như vậy loại hình DNKT có thể được thành
lập là công ty TNHH một thành viên hoặc công ty TNHH nhiều
thành viên. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực KTĐL theo thông lệ quốc
tế được duy trì dưới hình thức công ty hợp danh. Việt Nam do
trình độ còn thấp nên đã cho phép thành lập hình thức công ty
TNHH. Mặt khác, theo kinh nghiệm quốc tế không khuyến khích
thành lập công ty TNHH một thành viên vì nếu chỉ có một thành
viên là tổ chức hoặc một cá nhân thành lập với trách nhiệm vô
hạn thì độ rủi ro cao. Hình thức phổ biến của tổ chức kiểm toán
trên thế giới là công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân dưới
dạng văn phòng kiểm toán. Các chủ sở hữu của những doanh
nghiệp này thường phải chịu trách nhiệm vô hạn (bằng toàn bộ tài
sản của mình) đối với các khoản nợ và nghĩa vụ về tài sản khác
của công ty. Điều đó đảm bảo sự an toàn cho xã hội và cho các
khách hàng được kiểm toán. Chính vì vậy trong Nghị định
30/2009 NĐ-CP đã sửa đổi Khoản 1 Điều 20 Nghị định số
105/2004 NĐ-CP như sau:
“1. Doanh nghiệp kiểm toán được thành lập và hoạt động theo quy định của
pháp luật theo 3 hình thức: Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.”
Trên thực tế, trong số các doanh nghiệp kiểm toán hoạt động tại Việt Nam
hiện nay chỉ còn 4 công ty có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo hình thức

công ty TNHH một thành viên. Trước đây, các công ty này hoạt động theo Luật
đầu tư nước ngoài tại Viêt Nam năm 1987 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1990 và 1992. Hiện nay, các công
ty này hoạt động theo Luật đầu tư 2005. Theo giấy chứng nhận đầu tư (hoặc
giấy phép đầu tư) thì các công ty này được thành lập theo loại hình là công ty
TNHH một thành viên và thời hạn hoạt động là 50 năm. Như vậy, để không làm
ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của các công ty, cũng như không mâu thuẫn
với chính sách đầu tư nước ngoài của Nhà nước cần quy định không bắt buộc
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài này phải chuyển đổi sang một trong ba
hình thức: công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty hợp danh và doanh
nghiệp tư nhân, và vẫn được hoạt động là công ty TNHH một thành viên đến hết
thời hạn ghi trên giấy chứng nhận đầu tư (hoặc giấy phép đầu tư) Nghị định 105
và Nghị định 30/2009 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 105 không
nên cho phép doanh nghiệp kiểm toán thành lập và hoạt động theo hình thức
công ty cổ phần kiểm toán Điều 2 của Nghị Định 30/2009 NĐ-CP sửa đổi nghị
định 105/2004 NĐ-CP cũng qui định: “Các doanh nghiệp kiểm toán trách nhiệm
hữu hạn một thành viên có vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập và hoạt động
theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp từ trước ngày Nghị định này có
hiệu lực được phép hoạt động theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên đến hết thời hạn theo Giấy chứng nhận đầu tư (hoặc Giấy phép đầu
tư).
1.2. Điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán
1.2.1. Điều kiện thành lập doanh nghiệp kiểm toán(DNKT)
Tại Nghị định 07/1994/NĐ-CP chỉ nêu ra là cần có ít nhất 5 người trở lên
được cấp chứng chỉ kiểm toán viên chứ không yêu cầu hoạt động và cộng tác
thường xuyên với doanh nghiệp. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng của dịch vụ
kiểm toán khi mà doanh nghiệp có thể thuê bằng, hoặc có những kiểm toán viên
chỉ hoạt động thời vụ hay chỉ hoạt động trong một thời gian. Nghị định
105/2004/NĐ-CP đã quy định điều kiện thành lập doanh nghiệp kiểm toán chặt
chẽ hơn, tức là phải có 3 người có chứng chỉ kiểm toán viên hành nghề; trong

quá trình hoạt động cần phải luôn luôn đảm bảo điều kiện này, thậm chí nếu vi
phạm quá 6 tháng thì phải ngừng cung cấp dịch vụ kiểm toán. Điều 23 Nghị
định 105/2004/NĐ-CP đã quy định:
” Điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán:
1. Doanh nghiệp kiểm toán chỉ được thành lập khi có ít nhất 3 kiểm toán
viên có Chứng chỉ hành nghề kiểm toán, trong đó ít nhất có một trong những
Người quản lý doanh nghiệp kiểm toán phải là kiểm toán viên có Chứng chỉ hành
nghề.
2. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp kiểm toán phải thường xuyên
đảm bảo có ít nhất 3 kiểm toán viên hành nghề. Sau 6 tháng liên tục doanh
nghiệp kiểm toán không đảm bảo điều kiện này thì phải ngừng cung cấp dịch vụ
kiểm toán.”
Tuy nhiên trong quy định này còn thiếu chặt chẽ trong điều kiện hoạt
động của các công ty kiểm toán. Nghị định 105/2005/NĐ-CP của Chính phủ
quy định về điều kiện hoạt động đối với các doanh nghiệp kiểm toán là: “phải
thường xuyên đảm bảo có ít nhất 3 kiểm toán viên hành nghề. Sau 6 tháng liên
tục, doanh nghiệp kiểm toán không đảm bảo điều kiện này thì phải ngừng cung
cấp dịch vụ kiểm toán”. Quy định trên phù hợp với quy định của Luật Doanh
nghiệp 2005, tuy nhiên lại thiếu chặt chẽ ở chỗ là không quy định các KTV
hành nghề phải kí hợp đồng lao động làm toàn bộ thời gian với DNKT. Phần lớn
các DNKT ở Việt Nam hiện nay có quy mô vừa và nhỏ với số lượng KTV hành
nghề thấp, trong đó lại bao gồm cả số KTV hành nghề làm bán thời gian... Điều
đó dẫn đến tình trạng có những KTV đăng ký hành nghề nhưng trên thực tế
không hành nghề, đó là chưa kể tới tình trạng xáo trộn KTV hành nghề giữa các
DNKT và hiện tượng cho thuê cho mượn chứng chỉ kiểm toán. Thực tế này ảnh
hưởng không tốt đến tính ổn định trong hoạt động cả chất lượng dịch vụ kiểm
toán của nhiều DNKT. Chính vì vậy mà Nghị định số 30/2009/NĐ-CP đã Sửa
đổi khoản 3 Điều 23 Nghị định số 105/2004/NĐ-CP như sau:
“3. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp kiểm toán phải đảm bảo có ít
nhất 3 kiểm toán viên hành nghề ký hợp đồng lao động làm toàn bộ thời gian với

doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp kiểm toán không đảm bảo điều kiện này
sau 6 tháng liên tục thì phải ngừng cung cấp dịch vụ kiểm toán.”
Ngoài ra quy trình soát xét hồ sơ và báo cáo kiểm toán phải được thực
hiện qua 3 cấp bậc được thực hiện bởi các KTV hành nghề. Từ đó, việc quy
định “có ít nhất 3 kiểm toán viên hành nghề ký hợp đồng lao động làm toàn bộ
thời gian với doanh nghiệp” nhằm ổn định tổ chức công ty và việc đăng ký hành
nghề của các kiểm toán viên được nâng cao về chất lượng dịch vụ kiểm toán
của các doanh nghiệp kiểm toán.
Trong Nghị định số 30/2009/NĐ-CP cũng sửa đổi khoản 1 Điều 23 Nghị
định số 105/2004/NĐ-CP như sau:
“1. Doanh nghiệp kiểm toán chỉ được thành lập khi có ít nhất ba người có
Chứng chỉ kiểm toán viên, trong đó có Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc nếu là thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
danh thì phải sở hữu ít nhất là 10% vốn điều lệ công ty. Giám đốc hoặc Tổng
Giám đốc doanh nghiệp kiểm toán phải có thời gian công tác thực tế về kiểm
toán đủ 3 năm trở lên sau khi được cấp Chứng chỉ kiểm toán viên và không được
đồng thời tham gia quản lý, điều hành ở doanh nghiệp khác.”
Việc quy định như trên là phù hợp với luật doanh nghiệp. Xét về lĩnh vực
kinh doanh dịch vụ kiểm toán, việc quy định rõ các tiêu chuẩn, điều kiện thành
lập và hoạt động doanh nghiệp kiểm toán và tiêu chuẩn, điều kiện đối với Giám
đốc hoặc Tổng Giám đốc doanh nghiệp kiểm toán có ý nghĩa hết sức quan trọng
nhằm đạt được các mục đích sau:
- Nâng cao tính độc lập của các doanh nghiệp kiểm toán, theo đó các doanh
nghiệp kiểm toán không có vốn sở hữu của Nhà nước hoặc có vốn sở hữu của
Nhà nước nhưng không phải là doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác, đảm bảo sự
góp vốn để thực hiện trách nhiệm nghề nghiệp của các kiểm toán viên khi có rủi
ro kiểm toán. Về lâu dài cần tiến tới mô hình kiểm toán hợp danh như các nước
đi trước trên thế giới.
- Nâng cao chất lượng dịch vụ của kiểm toán và trình độ nghề nghiệp của kiểm
toán viên, theo đó các kiểm toán viên không chỉ có chứng chỉ hành nghề mà cần

phải có kinh nghiệm thực tiễn. Về quy định ”giám đốc hoặc tổng giám đốc doanh
nghiệp kiểm toán phải có thời gian công tác thực tế về kiểm toán đủ 3 năm trở lên
sau khi được cấp chứng chỉ kiểm toán viên và không được đồng thời tham quản lý ở
doanh nghiệp khác” là nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ kiểm toán là ngành kinh
doanh có điều kiện, có giá trị tư vấn pháp lý cao. Do đó cần có thêm 3 năm thực tế
làm kiểm toán để tích luỹ kinh nghiệm và nắm vững quy trình kiểm toán, từ đó
mới có thể đào tạo nhân viên quản lý và kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán
đảm bảo an toàn tránh rủi ro.
Vậy cho đến nay điều kiện để thành lập doanh nghiệp kiểm toán gồm có:
- Có đủ các điều kiện quy định của pháp luật hiện hành về việc thành lập và hoạt
động của các loại doanh nghiệp: Công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên, công
ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân.
- Có ít nhất 3 KTV hành nghề ký hợp đồng lao động làm toàn bộ thời gian với
doanh nghiệp, trong đó Giám đốc hoặc Tổng giám đốc nếu là thành viên công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh thì phải sở hữu ít nhất là 10% vốn điều
lệ công ty. Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc doanh nghiệp kiểm toán phải có thời
gian công tác thực tế về kiểm toán đủ 3 năm trở lên sau khi được cấp Chứng chỉ
kiểm toán viên và không được đồng thời tham gia quản lý, điều hành ở doanh
nghiệp khác.
1.2.2. Điều kiện cung cấp dịch vụ kiểm toán của DNKT
- DNKT đã đăng ký danh sách KTV hành nghề và được Bộ Tài chính (từ
01/01/2007 là Hội KTV hành nghề Việt Nam (VACPA)) xác nhận.
- Trong quá trình hoạt động, DNKT phải thường xuyên đảm bảo có ít nhất 3 KTV
hành nghề làm việc trọn thời gian cho doanh nghiệp. Trường hợp sau 6 tháng
liên tục DNKT không đảm bảo điều kiện này thì phải ngừng cung cấp dịch vụ
kiểm toán.
1.2.3. Trường hợp có KTV mới được cấp chứng chỉ KTV hoặc do tuyển dụng mới thì
DNKT phải thông báo cho Bộ Tài chính và Hội KTV hành nghề Việt Nam
(VACPA) danh sách KTV hành nghề bổ sung trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày
KTV chính thức được nhận vào làm việc hoặc được cấp Chứng chỉ KTV.

1.2.4. Trường hợp DNKT có KTV hành nghề chuyển đi, bỏ nghề hoặc bị truất quyền
hành nghề thì DNKT phải thông báo bằng văn bản cho Bộ Tài chính và Hội KTV
hành nghề Việt Nam (VACPA) kèm theo danh sách KTV hành nghề giảm trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày KTV hành nghề chuyển đi, bỏ nghề hoặc bị truất
quyền hành nghề.
1.2.5. Trong quá trình hoạt động, DNKT phải thường xuyên đảm bảo có ít nhất 3 KTV
hành nghề làm trọn thời gian cho doanh nghiệp. Trường hợp sau 6 tháng liên tục
DNKT không đảm bảo điều kiện này thì phải ngừng cung cấp dịch vụ kiểm toán.
1.2.6. Các trường hợp cá nhân không được là thành viên của DNKT:
- Cá nhân theo quy định của pháp luật không được tham gia hoạt động kinh doanh;
- Cá nhân đang làm việc cho doanh nghiệp khác có cung cấp dịch vụ kiểm toán.
Hồ sơ đăng ký kinh doanh của công ty TNHH kiểm toán, công ty hợp danh
kiểm toán, doanh nghiệp tư nhân kiểm toán: Ngoài các hồ sơ theo quy định của
pháp luật, phải có bản sao công chứng Chứng chỉ KTV đã được cấp 3 năm trước
ngày đăng ký kinh doanh của Giám đốc (hoặc Tổng Giám đốc) và bản sao công
chứng ít nhất hai Chứng chỉ KTV của hai người khác.
1.3. Điều kiện thành lập và hoạt động của từng loại hình công ty kiểm toán (Thông
tư 60/2006/TT-BTC)
1.3.1. Công ty TNHH kiểm toán
(1) Tiêu chuẩn, điều kiện thành lập và hoạt động đối với công ty TNHH
kiểm toán:
- Công ty TNHH kiểm toán thành lập và hoạt động phải tuân theo quy định về
hình thức, điều kiện thành lập và hoạt động của DNKT (như đã nêu tại mục 1.1
và mục 1.2 phần II)
- Thành viên của công ty TNHH kiểm toán có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Số
lượng thành viên không dưới hai và không vượt quá năm mươi;
- Thành viên là cá nhân phải có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định (như
đã nêu tại mục 1.3.1 phần II);
- Thành viên là tổ chức phải cử một người làm đại diện. Người đại diện theo pháp
luật của thành viên là tổ chức phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của

pháp luật và quy định như đã nêu tại điểm (3), mục 1.3.1 phần II. Tổ chức là
doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam có cung cấp dịch vụ kiểm toán và tổ
chức theo quy định của pháp luật không được tham gia hoạt động kinh doanh
thì không được là thành viên của công ty TNHH kiểm toán;
- Khi thành lập và trong quá trình hoạt động, công ty TNHH kiểm toán phải có ít
nhất 3 người có Chứng chỉ KTV, trong đó có Giám đốc (hoặc Tổng Giám đốc).
(2) Tiêu chuẩn, điều kiện đối với thành viên là cá nhân công ty TNHH
kiểm toán:
- Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán theo quy định tại chuẩn
mực đạo đức; trung thực, liêm khiết, có ý thức chấp hành pháp luật;
- Thành viên được cử làm Giám đốc (hoặc Tổng Giám đốc) công ty phải có
Chứng chỉ KTV và phải có thời gian công tác thực tế về kiểm toán từ 3 năm trở
lên kể từ khi được cấp Chứng chỉ KTV; phải góp ít nhất là 10% vốn điều lệ;
không được cùng lúc tham gia quản lý, điều hành hoặc ký hợp đồng lao động
với tổ chức, cơ quan khác;
- Thành viên Ban Giám đốc trực tiếp phụ trách dịch vụ kiểm toán phải có Chứng
chỉ KTV. Trường hợp công ty TNHH kiểm toán có đăng ký kinh doanh các dịch
vụ khác theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề (như dịch vụ
kế toán, dịch vụ định giá tài sản...) thì thành viên Ban Giám đốc trực tiếp phụ
trách các dịch vụ đó phải có chứng chỉ hành nghề phù hợp theo quy định của
pháp luật;
- Có tham gia góp vốn vào công ty;
- Thành viên là cá nhân thuộc đối tượng phải có chứng chỉ hành nghề theo quy
định phải trực tiếp làm việc tại công ty.
(3) Tiêu chuẩn, điều kiện đối với người đại diện theo pháp luật của thành
viên là tổ chức:
- Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán theo quy định tại chuẩn
mực đạo đức; trung thực, liêm khiết, có ý thức chấp hành pháp luật;
- Có giấy uỷ quyền của thành viên là tổ chức trong việc thay mặt thành viên thực
hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật;

- Trường hợp người đại diện được cử làm Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty thì
phải có Chứng chỉ KTV và phải có thời gian công tác thực tế về kiểm toán từ 3
năm trở lên kể từ khi được cấp Chứng chỉ KTV; không được cùng lúc tham gia
quản lý, điều hành hoặc ký hợp đồng lao động với tổ chức, cơ quan khác. Tổ
chức là thành viên phải góp ít nhất 10% vốn điều lệ.
I.3.2. Công ty hợp danh kiểm toán
(1) Tiêu chuẩn, điều kiện thành lập và hoạt động đối với công ty hợp danh
kiểm toán:
- Công ty hợp danh kiểm toán thành lập và hoạt động phải tuân theo quy định về
hình thức, điều kiện thành lập và hoạt động của DNKT (như đã nêu tại mục 1.1
và 1.2, phần II);
- Công ty hợp danh kiểm toán có thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Số
lượng thành viên hợp danh ít nhất là hai người. Thành viên hợp danh phải là cá
nhân. Thành viên góp vốn có thể là tổ chức hoặc cá nhân;
- Thành viên hợp danh phải có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định (như đã
nêu tại điểm (2), mục 1.3.2, phần II);
- Khi thành lập và trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh kiểm toán phải có
ít nhất 3 người có Chứng chỉ KTV, trong đó có một thành viên hợp danh là
Giám đốc (hoặc Tổng Giám đốc) và ít nhất một thành viên hợp danh khác.
(2) Tiêu chuẩn, điều kiện đối với thành viên hợp danh Công ty hợp danh kiểm
toán:
- Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán theo quy định tại chuẩn
mực đạo đức; trung thực, liêm khiết, có ý thức chấp hành pháp luật;
- Thành viên hợp danh được cử làm Giám đốc (hoặc Tổng Giám đốc) công ty
phải có Chứng chỉ KTV và phải có thời gian công tác thực tế về kiểm toán từ 3
năm trở lên kể từ khi được cấp Chứng chỉ KTV, phải góp ít nhất là 10% vốn
điều lệ; không được cùng lúc tham gia quản lý, điều hành hoặc ký hợp đồng lao
động với tổ chức, cơ quan khác;
- Thành viên hợp danh trực tiếp phụ trách dịch vụ kiểm toán phải có Chứng chỉ
KTV. Trường hợp công ty hợp danh kiểm toán có đăng ký kinh doanh các dịch

vụ khác theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề (như dịch vụ
kế toán, dịch vụ định giá tài sản...) thì thành viên hợp danh trực tiếp phụ trách
các dịch vụ đó phải có chứng chỉ hành nghề phù hợp theo quy định của pháp
luật;
- Có tham gia góp vốn vào công ty;
- Thành viên hợp danh, người thuộc đối tượng phải có chứng chỉ hành nghề theo
quy định phải trực tiếp làm việc tại công ty.
I.3.3. Doanh nghiệp tư nhân kiểm toán
(1) Tiêu chuẩn, điều kiện thành lập và hoạt động đối với DN tư nhân kiểm
toán:
- Doanh nghiệp tư nhân kiểm toán thành lập và hoạt động phải tuân theo quy định
về hình thức, điều kiện thành lập và hoạt động của DNKT (như đã nêu tại mục
1.1 và mục 1.2 phần II);
- Khi thành lập và trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp tư nhân kiểm toán
phải có ít nhất 3 người có Chứng chỉ KTV, trong đó có Giám đốc (hoặc Tổng
Giám đốc);
- Chủ doanh nghiệp tư nhân kiểm toán phải làm Giám đốc (hoặc Tổng Giám
đốc). Chủ doanh nghiệp tư nhân kiểm toán phải có Chứng chỉ KTV và phải có
thời gian công tác thực tế về kiểm toán từ 3 năm trở lên kể từ khi được cấp
Chứng chỉ KTV. Chủ doanh nghiệp tư nhân không được cùng lúc tham gia quản
lý, điều hành hoặc ký hợp đồng lao động với tổ chức, cơ quan khác.
(2) Tiêu chuẩn, điều kiện đối với thành viên Ban Giám đốc DN tư nhân
kiểm toán:
- Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán theo quy định tại chuẩn
mực đạo đức; trung thực, liêm khiết, có ý thức chấp hành pháp luật;
- Đối với doanh nghiệp tư nhân kiểm toán có đăng ký kinh doanh các dịch vụ
khác theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề (như dịch vụ kế
toán, dịch vụ định giá tài sản...) thì thành viên Ban Giám đốc trực tiếp phụ trách
các dịch vụ đó phải có chứng chỉ hành nghề phù hợp theo quy định của pháp
luật.

I.3.4. Điều kiện thành lập và hoạt động của Chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán (Nghị
định 105/2004/NĐ-CP; Thông tư 64/2004/TT-BTC)
- Chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp kiểm
toán, hoạt động theo sự uỷ quyền của doanh nghiệp kiểm toán, phù hợp với lĩnh
vực hành nghề ghi trong Giấy đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp kiểm toán.
- Chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán được thành lập và hoạt động theo quy định
của pháp luật về thành lập chi nhánh và phải có ít nhất từ 2 KTV có Chứng chỉ
KTV trở lên, trong đó người đứng đầu chi nhánh phải là người có Chứng chỉ
KTV, mới được phép cung cấp dịch vụ kiểm toán và phát hành báo cáo kiểm
toán.
- Doanh nghiệp kiểm toán phải chịu trách nhiệm về hoạt động của chi nhánh
kiểm toán do mình thành lập ra.
I.4. Hạn chế của các Nghị định Chính phủ về kiểm toán độc lập:
Trên thực tế, các văn bản về kiểm toán độc lập như hiện nay bao gồm
Nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004,Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày
31/10/2005 và Nghị định 30/2009/NĐ-CP ngày 30/03/2009 sửa đổi bổ sung một
số điều của Nghị định 105 cũng đã tạo cơ sở pháp lý căn bản cho hoạt động
kiểm toán độc lập là hoạt động dịch vụ có tính pháp lý cao, góp phần quan trọng
làm lành mạnh hóa môi trường đầu tư ở VN và công khai minh bạch nền tài
chính quốc gia, với tốc độ phát triển cao và trong xu thế hội nhập, Nghị định
của Chính phủ về kiểm toán độc lập đã bộc lộ 1 số hạn chế cần sửa đổi, bổ sung
và nâng lên thành luật cho phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế ở nước ta
trong thời gian tới, cụ thể:
1.4.1. Nghị định về KTĐL chưa đáp ứng được đầy đủ vai trò, vị trí hoạt động
KTĐL trong nền kinh tế quốc dân
Nhiều quy định trong Nghị định về KTĐL không còn phù hợp với thực
tế, đặc biệt là một số quy định mang tính hành chính, bao cấp về trách nhiệm,
cứng nhắc về thủ tục, không phù hợp với thông lệ quốc tế do đó rất khó khăn
khi triển khai trong thực tế như quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý
nhà nước về KTĐL là Bộ Tài chính. Theo đó, Bộ Tài chính phải chịu trách

nhiệm tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán và cập nhật kiến thức hàng năm,
thực hiện đăng ký và quản lý hành nghề hoạt động kiểm toán, kiểm tra chất
lượng hoạt động kiểm toán,…
- Sau khi Luật DN 2005 có hiệu lực đã làm cho toàn bộ các quy định trong các
thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định về KTĐL liên quan đến tiêu chuẩn,
điều kiện thành lập và hoạt động đối với DNKT không còn hiệu lực pháp lý.
Từ đó dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý và có thể làm tăng nguy cơ
rủi ro của hoạt động kiểm toán đến mức không thể lường trước được.
- Thực tế với sự phát triển đa dạng các loại hình DNKT và đa dạng các dịch vụ
kiểm toán và để đảm bảo nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán đòi hỏi hình
thành một số tổ chức nghề nghiệp mới (trong các văn bản hiện hành chưa quy
định) để dần dần chuyển giao các chức năng quản lý Nhà nước cho các tổ chức
nghề nghiệp như đăng ký và quản lý hành nghề kiểm toán, kiểm soát chất lượng
hoạt động, cập nhật kiến thức cho KTV,… Những năm vừa qua, một số quy
định giao cho Bộ Tài chính nhưng chưa triển khai thực hiện như: Hàng năm chỉ
kiểm tra được rất ít các DNKT, chưa tổ chức được cập nhật kiến thức hàng năm
cho KTV người nước ngoài (trong khi theo quy định tất cả các KTV bắt buộc
phải cập nhật kiến thức hàng năm), chưa xây dựng được quy trình kiểm toán
cho DNKT,…
I.4.2. Một số quy định trong Nghị định về KTĐL không còn phù hợp hoặc còn thiếu so với
thông lệ quốc tế và đòi hỏi của thị trường Việt Nam, cụ thể:
- Chưa quy định rõ tiêu chuẩn, điều kiện và trách nhiệm của KTV và DNKT. Trên
thực tế 1 KTV, thậm chí người đứng đầu DNKT có thể vừa làm ở DNKT vừa
làm ở các DN khác; Có trường hợp KTV đã đăng ký hành nghề kiểm toán trên
thực tế không hành nghề, không ký báo cáo kiểm toán; Còn có hiện tượng cho
mượn, cho thuê chứng chỉ KTV. Các hiện tượng trên xảy ra chủ yếu ở một số
DNKT nhỏ. Với số lượng DNKT nhỏ ngày càng tăng, Bộ Tài chính không đủ
điều kiện kiểm tra hết các DNKT và các vấn đề trên chưa quy định rõ ràng nên
không có cơ sở pháp lý để xử lý.
- Chưa quy định điều kiện thành lập và hoạt động của chi nhánh của DNKT nước

ngoài ở Việt Nam; về liên doanh, liên kết giữa các DNKT trong nước hoặc giữa
các tổ chức hành nghề kiểm toán nước ngoài với DNKT ở Việt Nam; Về cung

×