Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tieu luan so sánh quan điểm của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển và tân cổ điển về phân phối thu nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.22 KB, 29 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử các học thuyết kinh tế là mơn khoa học xã hội nghiên cứu q
trình phát sinh, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hệ thống, quan điểm
kinh tế của các trường phái trong các hình thức kinh tế - xã hội gắn với các
giai đoạn lịch sử cụ thể. Nhiệm vụ của nó là phản ánh sự ra đời và phát triển
của các học thuyết kinh tế một cách khoa học và trung thực, đánh giá đúng
công lao và hạn chế của các đại biểu, các trường phái kinh tế. Từ những tư
tưởng kinh tế sơ khai thời kỳ cổ đại khởi đầu cho sự ra đời học thuyết kinh tế
cho đến các học thuyết kinh tế đương đại, trong đó mỗi một trường phái kinh
tế có những đóng góp nhất định trong sự phát triển kinh tế, xã hội của xã hội
loài người như kinh tế chính trị học cổ điển hay kinh tế chính trị tân cổ điển
làm tiến đề cho sự kế thừa, hoàn thiện các học thuyết kinh tế khác và cho đến
ngày nay vẫn cung cấp những giá trị nhất định trong việc nhận thức, hính
thành tư duy cho các nhà kinh tế học, các nhà quản lý kinh tế những kiến thức
cần thiết trong việc nghiên cứu và xây dựng đường lối chiến lược và điều
hành sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của lịch sử.
Có thể nói rằng, học thuyết kinh tế học cổ điển lần đầu tiên xây dựng
một hệ thống các phạm trù giá trị, giá cả…trong đó có lý luận thu nhập, trên
cơ sở đó kinh tế học tân cổ điển đã kế thừa, hoàn thiện, phát triển lý luận về
thu nhập.
Trong phạm vi tiểu luận môn Lịch sử học thuyết kinh tế, em xin đề
cập đến nội dung "So sánh quan điểm của trường phái kinh tế chính trị Tư
sản cổ điển và Tân cổ điển về phân phối thu nhập". Do thời gian đầu tư
nghiên cứu và với lượng kiến thức còn hạn hẹp nên bài tiểu luận còn nhiều
hạn chế, thiếu xót. Kính mong các thầy cơ đóng góp những ý kiến quý báu để
bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


1


NỘI DUNG
I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN THU NHẬP CỦA HỌC
THUYẾT KINH TẾ HỌC CỔ ĐIỂN VÀ TÂN CỔ ĐIỂN

1.1. Khái quát về lý luận thu nhập của học thuyết
kinh tế học cổ điển
Khái quát chung về học thuyết kinh tế học cổ điển
Kinh tế học cổ điển là một trong những xu hướng tư tưởng kinh tế tiến
bộ, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế.
Nhiều quan điểm chủ đạo của trường phái này vẫn còn lưu giữ ý nghĩa đến
tận ngày nay. Học thuyết kinh tế tư sản cổ điển là xu hướng của tư tưởng kinh
tế tư sản phát sinh trong thời ký hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, nghiên cứu về nguồn gốc của sự giàu có và cách thức làm tăng của cải
trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Xu hướng tư tưởng của trường
phái cổ điển bắt đầu xuất hiện từ giữa thế kỷ XVII và phát triển mạnh mẽ vào
thế kỷ XVIII đến nửa cuối thế kỷ XIX.
Các nhà kinh tế học cổ điển lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu
từ lĩnh vực lưu thông sang sản xuất, điểm xuất phát trong nội dung nghiên
cứu của họ là phạm trù lao động, nhờ đó các nhà kinh tế của trường phái cổ
điển đã biến kinh tế chính trị thành một mơn khoa học thực sự, từ đó xây
dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật của nền kinh tế thị trường: quy
luật giá trị, phân phối thu nhập, quy luật giá trị cung cầu, lưu thơng tiền tề. Có
thể nói rằng đây cũng là lần đầu tiên trường phái kinh tế chính trị cổ điển áp
dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học và tiến bộ. Bằng hệ thống
phạm trù, quy luật kinh tế đã được xây dựng, kinh tế chính trị cổ điển đã đặt
nền móng cho khoa học kinh tế sau này. Tuy nhiên những quan điểm lý luận
của kinh tế học tư sản cổ điển nhìn chung chưa thật sự nhất quán, còn trộn lẫn

giữa các xu hướng tư tưởng, một mặt là khoa học, muốn đi sâu vào bản chất
của sự vật hiện tượng, mặt khác lại mang tính siêu hình, phi lịch sử.

2

2


Kinh tế chính trị tư sản cổ điển phát triển qua ba giai đoạn và phải
khẳng định các nhà kinh tế học tiêu biểu đó là William Petty, Adam Smith và
David Ricardo. Các ơng có những lý luận khai thác những nội dung tương
đồng nhau nhưng cách đánh giá và nhận thức khác nhau như trong lý luận về
phân phối thu nhập, sau đây chúng ta sẽ khái quát lại lý luận về thu nhập của
các nhà kinh tế học cổ điển trên.
1.1.1. Lý thuyết về thu nhập của William Petty
William Petty (1623 - 1687) là một trong những người sáng lập ra học
thuyết kinh tế cổ điển Anh. Ông là một người tài giỏi ở rất nhiều những lĩnh
vực khác nhau. Ông áp dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học,
được gọi là phương pháp khoa học tự nhiên, những tác phẩm tiêu biểu của
ông là Điều ước về thuế và thu nhập (1662), Số học chính trị (1676), Bàn về
tiền tệ (1682). Tư tưởng xuyên suốt trong các tác phẩm là không ủng hộ học
thuyết trọng thương, muốn hướng tới tự do kinh tế. Do hoạt động lý luận gắn
với hoạt động thực tiễn nên thế giới quan và phương pháp luận của Petty vượt
xa những người trọng thương cùng thời. Ơng đi sâu tìm hiểu bản chất các hiện
tượng, quá trình kinh tế và thừa nhận các quy luật kinh tế khách quan. Nghiên
cứu của ông không nhằm tạo ra giải pháp đối với vấn đề thực tế mà muốn đưa
ra hệ thống quan điểm chung đối với chính sách. Có thể khẳng định rằng cơng
lao lớn nhất của ông là đưa ra nguyên lý giá trị lao động, tuy nhiên lý luận và
thu nhập cũng đóng vai trị quan trọng trong học thuyết kinh tế của ơng nói
riêng và học thuyết kinh tế nói chung. Học thuyết kinh tế của ông là một mốc

đánh dấu sự phát triển mới trong lịch sử học thuyết kinh tế. Các Mác đánh giá
Petty là "cha đẻ của Kinh tế chính trị, nhà kinh tế học kiệt xuất và đặc sắc"
Lý thuyết về thu nhập của Petty đề cập tới vấn đề: tiền công, địa tô, lợi tức.
Lý thuyết tiền công của W.Petty được xây dựng trên cơ sở lý thuyết
giá trị - lao động. Ông coi lao động là hàng hóa, tiền cơng là giá cả tự nhiên
của lao động. Ông đặt nhiệm vụ xác định mức tiền công. Giới hạn cao nhất
của mức tiền công là mức tư liệu sinh hoạt tối thiểu để nuôi sống người công
3

3


nhân. W. Petty khẳng định: "luật pháp chỉ phải đảm bảo cho người làm việc
phương tiện để sống, bởi vì nếu cho phép họ nhận được gấp đơi, thì họ sẽ làm
việc ít hơn hai lần sức mà họ có thể và đáng làm, và điều đó đối với xã hội có
nghĩa là làm mất đi một lượng lao động". Nếu tiền cơng cao, cơng nhân thích
uống rượu, hay bỏ việc, lương thấp cơng nhân phải tích cực lao động, gắn với
nhà tư bản hơn. W. Petty là người đặt nền móng cho thuyết "quy luật sắt về
tiền lương". Lý thuyết mức lương tối thiểu phản ánh trình độ phát triển ban
đầu của chủ nghĩa tư bản chưa phát triển. Để buộc cơng nhân làm việc, ơng đề
nghị phải có đạo luật cấm tăng tiền công, giai cấp tư sản duy trì mức lương
thấp. Tuy nhiên từ lý luận này ta thấy, công nhân chỉ nhận được từ sản phẩm
của lao động của mình những tư liệu sinh hoạt tối thiểu do họ tạo ra, phần còn
lại bị nhà tư bản chiếm đoạt, đó chính là mầm mống phân tích giá trị thặng dư
sau này.
Ơng xem xét tiền cơng trong mối quan hệ với lợi nhuận, giá cả các tư
liệu sinh hoạt và với cung - cầu về lao động trên thị trường. Tiền cơng cao thì
lợi nhuận giảm và ngược lại, giá cả lúa mì tăng lên thì sự bần cùng của công
nhân cũng tăng lên, số lượng lao động tăng tiền công sẽ giảm. Như vậy,
W.Petty đã nêu cơ sở khoa học của tiền công là giá trị các tư liệu sinh hoạt

cho công nhân.
Về địa tô của W. Petty được xây dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị Đối
với thu nhập của chủ đất ông liên hệ với khái niệm "địa tô", đồng nghĩa với
lợi nhuận của người sản xuất nông nghiệp, là số chênh lệch giữa thu nhập bán
hàng và chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất bao gồm tiền cơng và tiền giống.
Thực chất địa tơ là giá trị dơi ra ngồi tiền lương, tức là sản phẩm của lao
động thặng dư. Công nhân chỉ được nhận tiền cơng tối thiểu, số cịn lại là lợi
nhuận của địa chủ, Petty đã dự đoán đúng bản chất của giá trị thặng dư. Trong
đó có tính đến mức địa tơ khác nhau của các mảnh đất có khoảng cách khác

4

4


nhau đối với trung tâm dân cư, hoặc độ màu mỡ khác nhau của chúng đó là
địa tơ chênh lệch, ông chưa nghiên cứu địa tô tuyệt đối.
Về lợi tức, Ông coi là tô của tiền, mức lợi tức phụ thuộc vào mức địa
tơ trên đất mà người ta có thể dùng tiền vay để mua. Lợi tức là số tiền thưởng,
trả cho sự nhịn ăn tiêu, lợi tức cũng như tiền thuê ruộng. Lợi tức có được là
do hai cách: mua ruộng đất để cho thuê và thu địa tơ đó là cách sử dụng tiền
tệ tốt nhất, hoặc là cho vay để thu lợi tức với điều kiện phải nhận được số thu
nhập bằng thu nhập từ địa tô.
Như thế W. Petty đã đề cập đến giá của đất đai. Tuy nhiên ông chỉ
dừng lại ở bề mặt của hiện tượng. Cách tiếp cận của W. Petty đối với giá đất
có những ưu việt nhất định, thể hiện mối quan hệ qua lại giữa lãi suất và địa
tô trong năm.
Các quan điểm lý luận của W. Petty còn chưa thống nhất, chưa hoàn
thiện, cách nghiên cứu vấn đề còn phiến diện nhiều hạn chế, đang chuyển dần
từ chủ nghĩa trọng thương sang kinh tế cổ điển, nhưng đây là những đóng góp

quan trọng trong việc xây dựng những nguyên lý kinh tế cổ điển sau này
1.1.2. Lý thuyết về thu nhập của Adam Smith
Adam Smith (1723 - 1790) đã mở ra giai đoạn phát triển mới của sự
phát triển các học thuyết kinh tế thời kỳ kinh tế tư sản cổ điển.
Ông là bậc tiền bối lớn nhất của Mác. Tác phẩm nổi tiếng nhất của
ông là "Nghiên cứu về bản chất và nguồn gốc sự giàu có của các dân tộc".
Adam Smith không phải là người đầu tiên nghiên cứu lý luận kinh tế, nhiều tư
tưởng nổi tiếng cũng khơng phải do một mình ơng tìm ra. Nhưng ơng là người
đầu tiên hồn chỉnh, hệ thống hóa lý luận, đồng thời đặt nền móng vững chắc
cho sự phát triển của kinh tế học. Tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia là khởi
điểm đầu của nghiên cứu chính trị kinh tế học hiện đại.
5

5


Tư tưởng kinh tế của Adam Smith chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa
trọng thương và chủ nghĩa trọng nông. Nhưng ông vượt lên và phê phán họ.
Về thế giới quan và phương pháp luận của A.Smith cơ bản là thế giới
quan duy vật nhưng cịn mang tính tự phát và máy móc, trong phương pháp
cịn song song tồn tại cả hai phương pháp khoa học và tầm thường. Điều này
ảnh hưởng sâu sắc đến các học thuyết kinh tế tư sản sau này.
Học thuyết của A.Smith là một trong những học thuyết có tiếng vang
lớn, nó trình bày một cách có hệ thống các phạm trù kinh tế, xuất phát từ các
quan hệ kinh tế khách quan. Học thuyết kinh tế của ơng có cương lĩnh rõ ràng
về chính sách kinh tế, có lợi cho giai cấp tư sản trong nhiều năm.
Lý luận về thu nhập:
Đây là điểm trung tâm và là cơ sở xuất phát giải quyết các vấn đề lý
luận trong học thuyết kinh tế của Adam Smith. A.Smith đã chỉ ra nhiều hiểu
biết sâu sắc và đã có những đóng góp quan trọng trong xây dựng những cơ sở

lý thuyết về tiền công, lợi nhuận và địa tơ trong kinh tế chính trị cổ điển.
Cơng lao lớn của Smith là đã thực hiện một bước tiến so với trường phái
trọng nông khi phân chia các giai cấp trong xã hội tư sản nhằm phân tích các
thu nhập của các giai cấp. Ông phân chia thành ba giai cấp cơ bản gắn với
quyền sở hữu tư liệu sản xuất và thu nhập:
1. Giai cấp công nhân: Thu nhập là tiền lương.
2. Giai cấp các nhà tư bản (bao gồm tư bản công nghiệp, nông nghiệp
và thương nghiệp): Thu nhập là lợi nhuận.
3. Giai cấp chủ đất: Thu nhập là địa tơ.
Ơng cũng là người đầu tiên phân biệt sự khác nhau giữa các tầng lớp
trong xã hội và khẳng định những giai cấp cơ bản gắn với sản xuất vật chất
6

6


nhận được cái gọi là thu nhập ban đầu và các tầng lớp còn lại nhận thu nhập
do phân phối lại gọi là thu nhập thứ hai. Lý luận phân phối của A. Smith chủ
yếu đề cập đến thu nhập lần đầu của các giai cấp cơ bản.
Tiền công là thu nhập của công nhân làm thuê, là một phần giá trị mà
lao động của công nhân tạo ra. Cơ sở để xác định mức tiền công là số lượng
giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi người cơng nhân và gia đình họ.
Theo ơng, trong sản xuất hàng hóa giản đơn cũng có tiền lương, nó
bằng tồn bộ sản phẩm của lao động. Còn trong chủ nghĩa tư bản, tiền lương
cần phải đủ để đảm bảo cho công nhân mua phương tiện sống, tồn tại và phải
cao hơn mức đó. Ơng cho rằng: tiền lương khơng thể thấp hơn chi phí tối
thiểu cho cuộc sống của người công nhân. Nếu quá thấp họ sẽ không làm việc
và bỏ ra nước người. Tiền lương cao sẽ kích thích tiến bộ bởi vì nó làm tăng
năng suất lao động. Điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa, thói
quen tiêu dùng; quan hệ cung - cầu trên thị trường lao động; tương quan lực

lượng giữa nhà tư bản và công nhân trong cuộc đấu tranh của công nhân đòi
tăng lương là các nhân tố tác động đến tiền lương.
Tuy nhiên, A.dam Smith không hiểu được bản chất của tiền lương, coi
tiền lương là phạm trù vĩnh viễn. Ông chỉ thấy được sự khác nhau về số lượng
giữa tiền lương trong sản xuất hàng hóa giản đơn và trong chủ nghĩa tư bản.
Ông quan niệm tiền lương là giá cả của lao động, bởi vì ơng khơng hiểu phạm
trù sức lao động. Đây là một hạn chế lớn của ông.
Về lợi nhuận: Lý luận lợi nhuận của ông đầy mâu thuẫn: Theo ông,
người công nhân tạo ra giá trị vật chất chia làm hai phần: tiền lương của anh
ta và lợi nhuận của nhà tư bản. Có nghĩa, ông thấy được bản chất của sự bóc
lột. Mặt khác, ông phủ nhận bản chất bóc lột của lợi nhuận khi quan niệm lợi
nhuận được sinh ra bởi toàn bộ tư bản ứng trước. Ơng cịn cho lợi nhuận là
khoản bồi hoàn cho việc mạo hiểm của nhà tư bản. Ông khẳng định: mục đích
của sản xuất tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận và nó phù hợp với lợi ích xã hội.

7

7


Adam Smith có cơng khi tìm ra xu hướng bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận
trong các ngành khác nhau trên cơ sở của tự do cạnh tranh và mối quan hệ giữa
tỷ suất lợi nhuận và khối lượng tư bản đầu tư. Tư bản đấu tư càng nhiều thì tỷ
suất lợi nhuận càng giảm. Như vậy, chủ nghĩa tư bản càng phát triển, tư bản
càng được đầu tư thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm. Đây là xu hướng có tính
quy luật trong chủ nghĩa tư bản, nhưng cách lý giải nguyên nhân của A. Smith
chưa thỏa đáng. Theo K. Marx, do cấu tạo hữu cơ của tư bản có xu huống
tăng lên nên tỷ suất lợi nhuận mới có xu huống giảm xuống.
Về địa tơ: Lý luận địa tơ của A. Smith cũng có nhiều mâu thuẫn như
lý luận về lợi nhuận và còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Trọng nông. Địa tô

là một phần của sản phẩm lao động, giống như lợi nhuận. Theo ông, địa tô là
khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm của lao động và lợi nhuận là khoản
khấu trừ thứ hai. Như vậy, ơng đã thấy được bản chất bóc lột của địa tơ.
Nhưng khi giả thích vì sao có địa tơ thì ơng cho rằng trong nơng nghiệp có địa
tơ vì nơng nghiệp có năng suất cao hơn trong các ngành khác. Thu nhập trong
công nghiệp được chia thành tiền lương và lợi nhuận cịn trong nơng nghiệp
thì bao gồm tiền lương, lợi nhuận và địa tô. A.Smith cho rằng sản phẩm nông
nghiệp được bán ra không theo giá cả thị trường mà theo giá cả lũng đoạn do
cầu lớn hơn cung. Đồng thời, ông lại cho rằng địa tô là kết quả tác động của
tự nhiên, là khoản trả cho sự phục vụ đất. Với quan niệm này, bản chất của địa
tơ là khơng bóc lột. Điều này cho thấy ơng muốn nói về địa tơ chênh lệch I mặc
dù chưa phân tích một cách chi tiết về nó. Adam Smith đã sai lầm khi phủ
định địa tô tuyệt đối, tức địa tô mà người kinh doanh trên bất cứ loại ruộng
đất nào cũng phải trả cho chủ đất. Theo ông, kinh doanh trên ruộng đất mà
phải nộp địa tô là trái với quy luật giá trị. Do Smith chưa thấy được sự khác
nhau giữa giá trị và giá cả sản xuất nên dẫn đến sai lầm này. Lý luận phân
phối của Adam Smith có nhiều tiến bộ, tuy còn những mâu thuẫn nhất định do
đặc điểm phương pháp luận của mình.
1.1.3. Lý luận thu nhập của David Ricardo
8

8


David Ricardo (1772 - 1832) là người bảo vệ lợi ích của bộ phận tư
sản công nghiệp, chống chế độ phong kiến và tin tưởng vào tính ưu việt của
chủ nghĩa tư bản, cho rằng chủ nghĩa tư bản là hợp lý và tồn tại vĩnh viễn. Thế
giới quan của D.Ricardo là thế giới quan duy vật tự phát và máy móc, trong
phương pháp cũng song song tồn tại cả phương pháp khoa học và phương
pháp tầm thường. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tác phẩm "Những

nguyên lý của kinh tế chính trị học". Đặc biệt tài sản vô giá của ông là kiến
thức kinh tế thực tế, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ.
Lý luận về tiền lương, lợi nhuận, địa tơ
Về tiền lương: Ơng coi tiền lương là giá cả tự nhiên của hàng hóa lao
động, là giá cả các tư liệu sinh hoạt ni sống người cơng nhân và gia đình
anh ta. Ơng cho rằng mức tiền lương vào yếu tố lịch sử văn hóa. Theo ơng
tiền lương cao sẽ làm cho nhân khẩu tăng nhanh, dẫn đến thừa lao động, lại
làm cho tiền lương hạ xuống, đời sống công nhân xấu đi, là kết quả của việc
tăng dân số. Công lao to lớn của Ricardo là phân tích tiền lương thực tế và
đặc biệt là đã xác định được tiền lương như là một phạm trù kinh tế. Ông xét
tiền lương trong mối quan hệ giai cấp, mối quan hệ về lợi ích.
Về lợi nhuận: Ricardo xác nhận giá trị mới do công nhân sáng tạo ra
bao gồm tiền lương và lợi nhuận. Ông đã phát hiện ra quy luật vận động của
tư bản là: Nếu năng suất lao động tăng thì tiền lương sẽ giảm tương đối còn
lợi nhuận của tư bản sẽ tăng tuyệt đối. Tuy nhiên ông chưa biết đến phạm trù
giá trị thặng dư. Ơng đã có nhận xét tiến gần đến lợi nhuận bình quân (những
tư bản có đại dương bằng nhau thì đem lại lợi nhuận như nhau) nhưng khơng
chứng minh được. Ơng cho rằng nếu hạ thấp tiền cơng thì lợi nhuận tăng lên
cịn giá trị hàng hóa khơng đổi. Ơng đã thấy xu hướng giảm xuống của tỷ suất
lợi nhuận tuy nhiên chưa giải thích được cặn kẽ.

9

9


Về địa tơ: Ơng là người đầu tiên dựa trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động
để giải thích địa tơ. Ơng cho rằng do ruộng đất có giới hạn, độ mùa mỡ của đất
đai giảm sút, năng suất đầu tư bất tương xứng, dân số lại tăng nhanh, dẫn đến
nạn khan hiếm nông sản, cho nên xã hội phải canh tác tất cả ruộng đất xấu và

giá trị nơng phẩm là do hao phí trên ruộng đất xấu quyết định. Nếu kinh
doanh trên ruộng đất xấu và trung bình sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch, phần
này phải nộp cho địa chủ dưới hình thức địa tơ. Ơng cũng đã phân biệt được địa
tô và tiền tệ: Địa tô là việc trả công cho những khả năng thuần túy tự nhiên,
cịn tiền tơ bao gồm cả địa tơ và lợi nhuận do tư bản đầu tư vào ruộng đất.
Ngoài các nhà kinh tế học tiêu biểu của trường phái kinh tế học cổ
điển trong giai đoạn đầu- giai đoạn hình thành và giai đoạn hai - giai đoạn
phát triển, đến giai đoạn ba - giai đoạn suy thoái phải kể đến một nhà kinh tế
đó là J.B.Say (1767-1832) là nhà kinh tế Pháp trong thời kỳ cuối hay cịn gọi
là thời kỳ suy thối của trường phái kinh tế học cổ điển vào những năm 30
của thế kỷ XIX. Theo Mác đây là giai đoạn suy đồi, giai đoạn tầm thường hóa
kinh tế chính trị cổ điển. Họ biện hộ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, họ
quan tâm đến lợi ích của giai cấp tư sản.
J.B.Say đã đưa ra lý thuyết "ba nhân tố" gắn liền với "Ba nguồn thu
nhập". Theo ông tham gia vào sản xuất gồm có ba yếu tố: lao động, tư bản,
ruộng đất. Cả ba yếu tố đều có cơng phục vụ: lao động tạo ra tiền công, tư bản
tạo ra lợi nhuận, ruộng đất tạo ra địa tô, như vậy công nhận được nhận tiền
công, nhà tư bản được hưởng lợi nhuận, địa chủ nhận được địa tô. Mỗi người
được hưởng phần thu nhập, khơng tồn tại quan hệ bóc lột. Ông đã lợi dụng và
phát triển yếu tố tầm thường của A.Smith về giá trị cấu thành bởi ba nguồn
thu nhập.
Về lợi nhuận, J.B.Say ủng hộ quan niệm lợi nhuận là do hiệu suất đầu
tư do tư bản mang lại, đầu tư thêm tư bản vào sản xuất, thì sẽ làm tăng thêm
sản xuất, tăng thêm giá trị, tăng lợi nhuận. Và chỉ có lợi tức của kẻ sở hữu tư

10

10



bản mới là con đẻ của bản thân tư bản. Ơng nhấn mạnh vai trị của máy móc,
nhờ có sự phát triển của máy móc làm cho năng suất lao động tăng, giá rẻ,
cơng nhân là người có lợi nhất cịn ơng chủ tư bản thu về lợi nhuận tăng lên.
Đây cũng chỉ là sự muốn chứng minh cho sự hịa hợp lợi ích giữa nhà tư bản
và lao động.
Qua lý luận về thu nhập của J.B.Say, ông đã coi lợi nhuận và địa tơ là
thu nhập chính đáng của người chủ có cơng đóng góp về tư bản và đất đai,
đưa lợi nhuận ra khỏi kết quả lao động, phủ định sự bóc lột. Những tư tưởng
kinh tế đó mang tính chất tầm thường, gạt những mâu thuẫn bản chất của chủ
nghĩa tư bản ra bên ngoài nhằm muốn che dấu bản chất bóc lột của tư bản,
biện hộ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, coi nó là một hình thái tự nhiên
vĩnh cửu.
1.2. Khái qt lý luận về thu nhập của trường phái
kinh tế Tân cổ điển
Trường phái kinh tế Tân cổ điển là tên gọi theo cách phân kỳ của các
nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế Anh và Mỹ về một giai đoạn phát triển của tư
tưởng kinh tế Tây Âu và Hoa Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Những thay
đổi về kinh tế, xã hội đã làm cho các lý thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển,
tư sản tầm thường dần mất đi tính thuyết phục, khơng thể chống lại chủ nghĩa
Mác, không biện hộ cho chủ nghĩa tư bản. Các nhà tư tưởng giai cấp tư sản
phải xây dựng và phát hiện những lý thuyết kinh tế mới dựa trên cách tiếp cận
mới đối với các vấn đề hiện tại, đó là trường phái kinh tế Tân cổ điển.
Tân cổ điển là trường phái lý thuyết kinh tế hình thành trên cơ sở kế
thừa chọn lọc và kết hợp các lý thuyết kinh tế chính trị Tư sản cổ điển với lý
thuyết về các đại lượng giới hạn (cận biên). Trường phái kinh tế tân cổ điển
cong được gọi là trường phái kinh tế chủ quan vì đưa các yếu tố tâm lý chủ
quan vào nghiên cứu các vấn đề kinh tế, đã chuyển đối tượng nghiên cứu của
khoa học kinh tế từ lĩnh vực sản xuất của cải vật chất sang lĩnh vực tối ưu hóa
hành vi của con người kinh tế. Có thể kể đến những trường phái kinh tế với
những đại biểu tiêu biểu như: trường phái thành Viene ở Áo, trường phái

11

11


Cambridge ở Anh, trường phái giới hạn của Mỹ, trường phái thành Lausanne
ở Thụy Sĩ. Các nhà tư tưởng của các trường phái này tiếp thu, kế thừa các chủ
đề vốn được đề xuất bởi các tác giả kinh tế cổ điển,
Vậy hãy xét Lý luận thu nhập của các trường phái tiêu biểu trong học
thuyết kinh tế Cổ điển mới có gì giống và khác với Lý luận thu nhập của tư
sản cổ điển.
1.2.1. Lý luận thu nhập của trường phái Vienna - Áo - Đại biểu
Bohm Bawerk
Trường phái giới hạn ở Áo được hình thành và phát triển bởi các nhà
kinh tế học nước Áo giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trường phái
này còn gọi là trường phái Vienna. Những nhà tư tưởng kinh tế tiêu biểu đó là
Carl Menger, Friedrich Wiese và Eugen Bohm Baweck. Họ nghiên cứu và
phát triển về lý thuyết giới hạn với các phạm trù trung tâm là ích lợi giới hạn
và giá trị giới hạn
Vì vậy về lý luận thu nhập các ơng đề cập đến rất ít, chỉ đến Bohm
Bawerk (1851-1914) ông đưa ra lý thuyết tư bản và lợi tức với bộ sách Tư
bản và Lợi tức. Nội dung lý thuyết chủ đạo trong các tác phẩm đề cập về vai
trò của các yếu tố chủ quan trong việc hình thành giá trị trao đổi về tư bản và
lợi tức.
Theo ông tư bản là phương tiện cho phép tổ chức sản xuất thành nhiều
khâu gắn với nhau, phương pháp tổ chức càng nhiều khâu thì hiệu quả sản
xuất càng cao. Cơ cấu sản xuất tư bản chủ nghĩa phụ thuộc một phần vào tỷ
suất lợi tức. tỷ suất lợi tức là giá cả của tương lai, là sự biểu hiện của giảm giá
tư bản theo thời gian. Theo ơng các cá nhân ưu thích của cải hiện tại hơn là
của cải tương lai. Người cho vay của cải hiện có chịu đựng một sự hy sinh, vì

họ chỉ thu lợi của của cải đó trong tương lai. Việc trả cơng cho sự hy sinh đó
là lợi tức. Nó cân bằng với sự trao đổi đã được thực hiện.
Bohm Bakerk đặt nền tảng cho lý thuyết lợi tức của mình dựa trên sự
thiên vị thời gian tích cực, ơng đề xuất cơ bản rằng hàng hóa hiện tại đáng giá
hơn hàng hóa kỳ hạn. Và có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi tức như:
12

12


Lý do tâm lý: Sự không thể chi phối được trong tương lai, và sự giảm
sút giá trị tư bản theo thời gian ảnh hưởng tới mức lợi tức;
Lý do kinh tế: Căn cứ vào sự khác nhau trong quan hệ giữa của cải và
nhu cầu của mỗi cá nhân;
Lý do kỹ thuật: Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa thường có năng
suất vật chất (số lượng sản phẩm) lớn hơn với lao động ngang trước và năng
suất (bằng giá trị của chúng) có xu hướng giảm xuống trong tương lai.
Do vậy, có mối liên hệ nghịch giữa lợi tức và cơ cấu sản xuất và độ
dài của thời kỳ sản xuất. Nếu lợi tức giảm, thì cơ cấu sản xuất và độ dài của
thời kỳ sản xuất sẽ tăng lên và ngược lại.
Lý luận lợi nhuận của Bomh Bawerk khơng đi sâu vào nghiên cứu
từng loại hình thu nhập mà tập trung vào lợi tức. Ơng cũng khơng tập trung
vào việc tìm hiểu nguồn gốc của các hình thức thu nhập, vấn đề ơng đề cập
đến đó là các yếu tố tác động đến lợi tức và cách thức, phương pháp tác động
làm tăng lợi tức.
1.2.2. Lý luận về phân phối thu nhập của trường phái kinh tế
Cambridge (Anh) - Đại biểu Alfred Marshall (1842 - 1942)
Trường phái lý thuyết Tân cô điển Anh được khởi xướng và phát triển
khi bầu khơng khí lý thuyết nghiên cứu về tư tưởng cổ điển đi vào suy tàn.
Người sáng lập ra trường phái đó là Alfred Marshall (1842 - 1942), ông là

giáo sư trường Đại học tổng hợp Cambridge. Tác phẩm nổi tiếng "những
nguyên lý của kinh tế chính trị học". Lý thuyết của ông là sự tổng hợp các lý
thuyết đã có đầu thế kỷ XIX như lý thuyết chi phí sản xuất, cung cầu, năng
suất bất tương xứng với lý thuyết mới thế kỷ XIX như ích lợi giới hạn, năng
suất giới hạn… với phương pháp mang tính tổng hợp. Ông đưa ra lý thuyết
giá trị, phân phối và trao đổi như sau:
Lợi tức cổ phần của quốc gia vừa là sản phẩm ròng của các yếu tố sản
xuất, vừa là nguồn duy nhất của những khoản thanh tốn các yếu tố đó. Lợi
tức quốc gia phân phối thành thu nhập của người lao động, lợi nhuận tư bản

13

13


và tiền tô ruộng đất và những chênh lệch khác về sản xuất. Nó được phân
phối một cách tỷ lệ cho nhu cầu giới hạn mà dân cư có những dịch vụ khác
nhau của các nhân tố sản xuất.
Tiền công của người lao động là những phí tổn cần thiết để ni
dưỡng, giúp đỡ người lao động và duy trì năng lực của họ. Tiền cơng có xu
hướng đi đến sự cân bằng với sản phẩm ròng của lao động. Năng suất giới
hạn của lao động cao, sản phẩm ròng của lao động sẽ cao, mức cân bằng tiền
công phụ thuộc trực tiếp vào năng suất trung bình của ngành sản xuất mà anh
ta làm việc, kể cả năng suất của người thợ.
Sự cạnh tranh dẫn tới chỗ tiền công kiếm được trong một thời gian
nhất định đối với các cơng việc tương tự là khơng bằng nhau, nhưng nó tỷ lệ
với sản xuất của công nhân. Sự cuốn hút lao động của một ngành công nghiệp
phụ thuộc vào nhiều ngun nhân:
Sự khơng đều đặn của việc làm;
Sự khó khăn và nỗ lực lao động của người lao động;

Tiền công bằng tiền thu được.
Lợi tức là cái giá cả phải trả cho việc sử dụng tư bản. Nó đạt được ở mức
cung và cầu của tư bản. Nếu tiết kiệm nhiều sẽ tăng tư bản và sẽ giảm lợi tức.
Lợi nhuận là tiền thù lao thuần túy cho năng khiếu quản lý kinh
doanh, sử dụng tư bản và năng lực tổ chức hoạt động cơng nghiệp. Phân tích
lợi nhuận ơng nhấn mạnh ba điểm:
Thứ nhất, những bất bình đẳng của tỷ suất lợi nhuận bình quân hàng
năm trong các ngành công nghiệp khác nhau là do tỷ lệ khác nhau về số lượng
tư bản, số lượng tiền cơng, chi phí về vật liệu và giá cả ruộng đất.
Thứ hai, lợi nhuận trên mỗi đợt vay vốn quay trở lại phụ thuộc vào độ
dài thời gian và tổng số lao động cần thiết cho sự hoàn vốn.
Thứ ba, nếu lợi nhuận là một yếu tố của giá cung bình thường, thì thu
nhập sinh ra từ tư bản đã đầu tư phụ thuộc vào cầu tương đối với các sản
phẩm của nó.
14

14


Đối với ruộng đất, Mashall cho rằng đây là yếu tố sản xuất đặc thù có
cung khơng biến đổi. Theo ông, giá cả cân bằng ruộng đất (địa tô) chỉ chịu
ảnh hưởng của cầu, do năng suất giới hạn của ruộng đất quyết định.
Với lý thuyết về phân phối, Marshall đã đưa ra nguồn gốc, các yếu tố
tác động đến thu nhập của từng đối tượng. Tư tưởng về phân phối thu nhập
của ông đầy đủ và mở rộng hơn so với quan điểm của trường phái Vienna.
1.2.3. Một số quan điểm về lý luận thu nhập của trường phái kinh tế
tân cổ điển Thụy Sĩ - Đại biểu Leon Walras
Vào cuối thế kỳ XIX đầu thế kỷ XX, trường phái cổ điển mới xuất
hiện ở Thụy Sĩ, đại biểu xuất sắc là Leon Walras (1838 - 1910), là một nhà
kinh tế học người Pháp, ông tham gia rất nhiều lĩnh vực, sau đó chuyển sang

nghiên cứu kinh tế và có nhiều tác phẩm tiêu biểu.
Leon Walras đề cập tới nhiều lý thuyết, trong đó nổi bật là lý thuyết
giá trị, lý thuyết giá cả và lý thuyết cân bằng tổng quát. Về những quan điểm
về thu nhập chỉ được thông qua lý thuyết về cân bằng tổng quát, được các nhà
kinh tế học tư sản đánh giá cao.
Theo ông, trong cơ cấu kinh tế thị trường có ba loại thị trường: thị
trường sản phẩm, thị trường tư bản, thị trường lao động. Thị trường sản phẩm
là nơi mua bán hàng hóa, tương quan trao đổi giữa các loại hàng hóa là giá cả
của chúng. Thị trường tư bản là nơi hỏi và vay tư bản, lãi suất tư bản cho vay
là giá tư bản. Thị trường lao động là nơi thuê mướn công nhân, tiền lương hay
tiền công là giá lao động.
Ba thị trường này độc lập với nhau, song nhờ hoạt động của doanh
nhân nên có quan hệ với nhau. Doanh nhân là người sản xuất ra hàng hóa để
bán. Muốn sản xuất, doanh nhân phải vay vốn trên thị trường tư bản, thuê
công nhân trên thị trường lao động, trên thị trường này doanh nhân là sức cầu.
Sản xuất được hàng hóa doanh nhân mang bán nó trên thị trường sản phẩm, ở
đây doanh nhân là sức cung. Đế vay tư bản, doanh nhân phải trả lãi suất, để
thuê công nhân doanh nhân phải trả tiền lương, lãi suất và tiền lương được gọi
là chi phí sản xuất.
15

15


Nếu giá bán hàng hóa trên thị trường sản phẩm của doanh nhân cao
hơn chi phí sản xuất, thì anh ta sẽ có lãi, doanh nhân có xu hướng mở rộng
sản xuất, vay thêm tư bản, thuê thêm công nhân, giá cả tư bản và lao động
tăng lên, chi phí tăng lên. Do mở rộng sản xuất, hàng hóa tăng, giá cả hàng
hóa giảm, thu nhập của doanh nhân giảm xuống.
Khi thu nhập của hàng hóa sản xuất tăng thêm giảm xuống ngang với

chi phí sản xuất thì doanh nhân sẽ khơng có lợi trong việc sản xuất thêm nên
khơng thuê thêm công nhân và vay thêm tư bản. Nhờ vậy, giá cả hàng hóa tư
bản và lao động, tức lãi suất và tiền lương ổn định, từ đó làm cho tiêu dùng ổn
định. Ba thị trường đều đạt được trạng thái cân bằng. Điều kiện để có sự cân
bằng giữa thu nhập bán hàng và chi phí sản xuất.
Như vậy những quan điểm về thu nhập được thông qua lý thuyết cân
bằng của các thị trường. Thu nhập của các tầng lớp trong xã hội phụ thuộc
vào các quy luật thi trường tác động vào.
1.2.4. Lý luận thu nhập của trường phái tân cổ điển ở Mỹ - Đại biểu
John Bates Clark (1847 - 1983)
Kinh tế học Tân cổ điển Mỹ được phản ánh tập trung trong các nội
dung ở thuyết kinh tế của giáo sư John Bates Clark (1847 - 1983), trường Đại
học tổng hợp Colombia.
Lý thuyết về phân phối thu nhập của Clark.
Trên cơ sở lý thuyết Năng suất giới hạn, Clark đưa ra lý thuyết phân
phối thu nhập theo nguyên tắc: phân phối thu nhập xã hội được điều tiết bởi
quy luật tự nhiên đền bù xứng đáng cho từng nhóm xã hội một cách cơng
bằng (theo nguyên lý công bằng). Thu nhập xã hội phân thành ba quỹ lớn:
Thu nhập của lao động, thu nhập của tư bản và lợi nhuận kinh doanh cho nhà
kinh doanh với tư cách là người sử dụng lao động và tư bản. Chức năng của
nhà kinh doanh là tổ chức và đảm bảo sự tác động lẫn nhau giữa các yếu tố
sản xuất.
Tiền công phụ thuộc vào năng suất giới hạn của lao động: Lao động
mang lại tiền công, tư bản mang lại lợi tức. Với lượng tư bản không đổi, lao
16

16


động tăng lên, tổng thu nhập tăng nhưng không phải theo hướng tỷ lệ thuật.

Tiền công ngang bằng sản phẩm của người lao động giới hạn, việc thuê nhân
công sẽ được thực hiện cho tới khi sản phẩm giới hạn của lao động ngang
bằng với tiền công. Phần dôi ra ngoài sản phẩm giới hạn là phần thưởng cho
nhà kinh doanh. Toàn bộ sản phẩm sẽ thuộc về nhà lao động khi đồng thời họ
là nhà tư bản. Tiền công giữa các ngành nghề khác nhau được san bằng nhờ
tác động của cạnh tranh. Thu nhập của tư bản cũng được xác định như thu
nhập của lao động dưới tác động của sự giảm năng suất của tư bản sử dụng.
Sự phân phối thu nhập tự nhiên hoàn toàn phù hợp với phạm vi vi mô, nhưng
được sử dụng để kết luận vấn đề có tính xã hội.
Điểm đặc biệt của Clark khơng xuất phát từ chi phí hay đầu tư các yếu
tố sản xuất mà là từ kết quả thu được từ từng yếu tố sản xuất, giải thích bằng
năng suất giới hạn của từng yếu tố với tư cách là những đại lượng có xu
hướng giảm dần theo mức độ tăng thêm của đơn vị bổ sung. Từ đây xuất hiện
khả năng thay thế lẫn nhau giữa các yếu tố sản xuất. Lý thuyết phân phối thu
nhập của Clark là cơ sở cho việc ứng dụng trong quản trị doanh nghiệp đối
với việc xác định phương án tối ưu trong quyết định số lượng lao động và
công nghệ trong các điều kiện khác nhau. Năng suất được quyết định bởi đại
lượng sản phẩm giới hạn của yếu tố đó (quan hệ giữa khối lượng sản phẩm
tăng thêm và chi phí yếu tố tăng thêm). Như vậy Clark đã đưa ra lý luận phân
phối trên cơ sở năng suất giới hạn.
Các nhà kinh tế trường phái cổ điển mới đã đạt được một số thành tựu
nổi bật với những lý thuyết kinh tế nói chung và lý luận về thu nhập nói riêng.
Những phân tích về kinh tế thị trường hiện đại cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX
đã được vận dụng trong hoạt động thực tiễn. Đã có sự phân tích cụ thể sự vận
động của nền kinh tế trên cơ sở các quy luật của thị trường, nghiên cứu sâu
hơn các quan hệ sản xuất trao đổi. Đã góp phần vào sự điều chỉnh của chủ
nghĩa tư bản, đưa ra những biện pháp điều chỉnh chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa
tư bản. Tác động đến việc xây dựng các chính sách kinh tế của các nước tư
bản trong thời kỳ này. Với ý định cách tân, bổ khuyết cho các tư tưởng kinh tế
17


17


tư sản cổ điển song còn nhiều hạn chế và nhiều lý luận không vượt qua được
kinh tế tư sản cổ điển.
1.3. Đánh giá sự giống và khác nhau về lý luận thu nhập của hai
trường phái Kinh tế học cổ điển và Tân cổ điển
Trường phái kinh tế học Tân cổ điển được hình thành trên cơ sở kế thừa
chọn lọc và kết hợp các lý thuyết kinh tế chinh tế chính trị tư sản cổ điển.
Chính vì vậy giữa hai trường phái này có rất nhiều điểm khác nhau nói chung
cũng như về quan điểm lý luận thu nhập nói riêng. Nội dung lý luận của các
trường phái khác nhau cũng là do điều kiện hoàn cảnh lịch sử ra đời khác nhau,
phương pháp, đối tượng nghiên cứu khác nhau, vì vậy để so sánh các quan
điểm lý luận của các trường phái chúng ta phải đi nhìn nhận vấn đề từ đó.
Về hồn cảnh ra đời:
Trường phái kinh tế học cổ điển bắt đầu xuất hiện từ giữa thế kỷ XII
và phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XVIII đến nửa cuối thế kỷ XIX (phạm vi
ảnh hưởng Châu Âu), trong bối cảnh chủ nghĩa trọng thương tan rã, chủ nghĩa
tư bản được hình thành và ngày càng lớn mạnh , có sự hình thành và phát triển
của nền sản xuất mới với công trường thủ công dùng nhiều thợ tập trung về
làm việc chung trong một nhà máy. Cuộc cách mạng tư sản Anh tạo ra một
tình hình kinh tế, xã hội, chính trị mới, đưa tới việc xuất hiện một tầng lớp
quy tộc mới, liên minh với giai cấp tư sản để chống lại triều đình phong kiến
Anh lúc bấy giờ, giai cấp tư sản Anh cuối thế kỷ XVII đã trưởng thành, rồi lan
rộng ra các nước khác ở Châu Âu. Giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh, họ
nhận thấy muốn làm giàu phải sử dụng lao động làm th, đó mới chính là
nguồn gốc của sự giàu có. Các chính sách kinh tế của nhà nước trong thời kì
này cũng ít hà khắc hơn. Về mặt tư tưởng: các ngành khoa học tự nhiên (toán,
thiên văn), khoa học xã hội (triết, lịch sử, văn hóa) phát triển ngày một tăng,

tạo cho khoa kinh tế một phương pháp luận chắc chắn.
Còn trường phái kinh tế Tân cổ điển ra đời cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX (phạm vi ảnh hưởng cả Châu Âu, Mỹ) trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản tự
18

18


do cạnh tranh chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, những khó khăn về
kinh tế và những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản tăng lên gay gắt
(khủng hoảng kinh tế chu kì bắt đầu từ 1825) nhiều hiện tượng kinh tế và mâu
thuẫn kinh tế mới xuất hiện địi hỏi phải có sự phân tích kinh tế mới. Sự xuất
hiện chủ nghĩa Mác chỉ ra xu hướng vận động tất yếu của xã hội loài người vì
thế nó trở thành đối tượng phê phán mạnh mẽ của các nhà kinh tế học tư sản.
Kinh tế tư sản cổ điển tỏ ra bất lực trong việc bảo vệ chủ nghĩa tư
bản và khắc phục những khó khăn về kinh tế, địi hỏi phải có hình thức mới
thay thế.
Như vậy, có thể nhận thấy trường phái kinh tế Tân cổ điển xuất hiện
sau trường phái cổ điển, trong bối cảnh có rất nhiều tác động về kinh tế, chính
trị, xã hội khác nhau, một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến tư tưởng
kinh tế là trường phái kinh tế cổ điển xuất hiện trong hoàn cảnh chủ nghĩa tư
bản bắt đầu được hình thành và phát triển rực rỡ được gọi là thời kỳ hoàng
kim, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, sau đó đến thời gian
xuất hiện Tân cổ điển chủ nghĩa tư bản đang trong giai đoạn suy thoái, khủng
hoảng kinh tế nặng nề của chủ nghĩa tư bản độc quyền. chính những điều này
tác động rất lớn đến sự hình thành, phát triển các nội dung nghiên cứu, ảnh
hưởng đến tư tưởng kinh tế của các ông ở cả hai trường phái.
Đặc điểm nổi bật của hai trường phái:
Về đối tượng nghiên cứu:
Lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà kinh tế của trường phái cổ điển

chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang sản xuất, nghiên cứu
các vấn đề kinh tế của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn đầu hay
nghiên cứu những vấn đề của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa trong
giai đoạn tự do cạnh tranh. Điểm xuất phát trong nội dung nghiên cứu của họ
là phạm trù lao động. Nhờ đó, các nhà kinh tế của trường phái cổ điển đã biến
kinh tế chính trị thành một khoa học thật sự.

19

19


Trường phái kinh tế Tân cổ điển xuất phát từ giả thuyết con người kinh
tế ln có mục tiêu tối đa hóa lợi ích của riêng mình, từ đó chuyển hướng nghiên
cứu của khoa học kinh tế từ lĩnh vực sản xuất của cải vật chất sang lĩnh vực
lưu thông, trao đổi, đặc biệt tiêu dùng, từ đó tối ưu hóa hành vi của con người.
Nếu như các nhà kinh tế học cổ điển lần đầu tiên xây dựng các hệ
thống phạm trù, quy luật của nền kinh tế thị trường: giá trị, giá cả cung, cầu,
lưu thông cạnh tranh, tiền cơng, lợi nhuận, thuế, địa tơ…trong đó, phạm trù
giá trị được xem là mấu chốt của phân tích kinh tế, là gốc rễ để phát sinh các
phạm trù kinh tế khác, và phạm trù giá trị là trung tâm của nghiên cứu kinh tế
thì đối với kinh tế học Tân cổ điển không quan tâ tới các quy luật vận động
của nền kinh tế chính trị cổ điển mà chuyển sang nghiên cứu vấn đề sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm để đáp ứng nhu cầu xã hội trong điều
kiện nhất định. Từ nghiên cứu hành vi các chủ thể kinh tế biệt lập ở tầm vi
mô, các nhà kinh tế Tân cổ điển rút ra những tính quy luật hoạt động chung
của nền kinh tế mang tính vĩ mơ nhưng biến kinh tế chính trị thành khoa học
kinh tế thuần túy: kinh tế học, bỏ qua những nghiên cứu về bản chất kinh tế
xã hội của quan hệ kinh tế.
Về phương pháp nghiên cứu:

Trường phái kinh tế học cổ điển lần đầu tiên áp dụng phương pháp
trừu tượng hóa khoa học nghiên cứu các hiện tượng, quá trình kinh tế tìm ra
nguyên nhân, kết quả, vạch ra bản chất của các quy luật vận động của quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ngoài ra còn một số phương pháp: logic, suy diễn,
quy nạp… đây là những phương pháp nghiên cứu khoa học tiến bộ. Bằng hệ
thống phạm trù, quy luật kinh tế đã được xây dựng, kinh tế chính trị cổ điển
đặt nền móng cho khoa học kinh tế sau này.
Các lý thuyết kinh tế Tân cổ điển áp dụng phương pháp nghiên cứu
các đại lượng giới hạn vào nghiên cứu các vấn kinh tế nhằm làm rõ sự biến
đổi có tính phụ thuộc của từng yếu tố kinh tế nhất định khi yếu tố khác có liên
quan khác biến đổi, đưa ra các yếu tố chủ quan tâm lý vào nghiên cứu kinh tế,

20

20


nhấn mạnh và tuyệt đối hóa vai trị của chúng. Ngồi ra cịn tích cực áp dụng
các cơng cụ tốn học như đồ thị, cơng thức, mơ hình…
Về tư tưởng nghiên cứu:
Hai trường phái kinh tế này đều thể hiện một tư tưởng trong nghiên
cứu là ủng hộ tư tưởng kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, phủ nhận khả năng
khủng hoảng của kinh tế thị trường, tin tưởng vào sức mạnh của cơ chế thị
trường, chống lại sự can thiệp nhà nước về kinh tế. Đây là những tư tưởng tự
do kinh tế điển hình của kinh tế chính trị tư sản cổ điển được tiếp tục kế thừa
bởi các nhà kinh tế trường phái Tân cổ điển.
Về mặt ứng dụng thực tiễn và hạn chế:
Kinh tế chính trị học cổ điển với những thành tựu quan trọng là đã tạo
ra hệ thống lý luận cơ sở về nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa trong giai
đoạn đầu với quan điểm cơ bản coi trọng tự do cạnh tranh, khởi đầu một

phương pháp mới là phương pháp duy vật, phát triển thành phương pháp trừu
tượng hóa và phát triển thành kinh tế lượng. Nhiều có những luận điểm đạt
đỉnh cao, có sức sống lâu bền trong các quan điểm, chính sách kinh tế như lý
luận giá trị, phân phối thu nhập, tiền tệ, những phát kiến về lợ thế so sánh
trong thương mại quốc tế… Tuy nhiên học thuyết còn nhiều hạn chế, còn trộn
lẫn các yếu tố khoa học và tầm thường. Những quan điểm lý luận chưa thật
nhất quán, một mặt là khoa học muốn đi sâu vào bản chất các hiện tượng, quá
trình kinh tế, mặt khác lại tầm thường chỉ dùng ở việc liệt kê. Mơ tả hời hợt
bên ngồi. Học thuyết cịn mang tính chất siêu hình, phi lịch sử.
Về mặt ứng dụng và giá trị thực tiễn, kinh tế học cổ điển có cơng
trong việc phát triển ngành khoa học kinh tế mới là kinh tế vi mơ, phân tích
điều kiện tối ưu tạo cơ sở cho sự phát triển khoa học quản trị kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường, phân tích tác động các nhân tố tâm lý, lợi ích nhu cầu,
cung cầu, tập trung nghiên cứu và phát triển lý thuyết giá cả, đặt nền móng
cho nghiên cứu cơ chế kinh tế, đưa phương pháp toán học và phân tích đồ thị
vào nghiên cứu kinh tế. Tuy nhiên, kinh tế học Tân cổ điển còn tồn tại rất
nhiều hạn chế. Đó là bỏ qua nghiên cứu bản chất kinh tế xã hội của các quan
21

21


hệ kinh tế, phủ nhận tích chất giai cấp trong quan hệ kinh tế của chủ nghĩa tư
bản, tuyệt đối hóa vai của các nhân tố chủ quan tâm lý, tuyệt đối hóa vai trị
của thị trường, phủ nhận vai trò của nhà nước…
Về lý luận phân phối thu nhập:
Xuất phát từ sự so sánh những khác biệt từ bối cảnh lịch sử ra đời, đối
tượng, phương pháp, tư tưởng nghiên cứu, những thành tựu đạt được và
những hạn chế… để có thể đánh giá đầy đủ, sâu sắc hơn về sự khác nhau giữa
các nội dung của hai học thuyết kinh tế chính trị Cổ điển và Tân cổ điển. Về

lý luận phân phối thu nhập, trường phái Tân cổ điển đã kế thừa chọn lọc của
trường phái Tư sản cổ điển, tuy nhiên về cơ bản lý luận thu nhập của hai
trường phái có rất nhiều điểm khác nhau.
Trường phái kinh tế học cổ điển tập trung đi tìm nguồn gốc của các hình
thức thu nhập, đưa ra các định nghĩa các phạm trù: tiền công, lợi nhuận, địa tô.
W.Petty chưa đưa ra định nghĩa về phạm trù tiền công mà nêu lên mức
tiền công - không thể vượt quá những tư liệu sinh hoạt cần thiết. Đến A.smith
ông đã khẳng định được nguồn gốc của tiền công là thu nhập của công nhân
làm thuê, là một phần giá trị mà lao động của công nhân tạo ra. Cơ sở để xác
định mức tiền công là số lượng giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi cơng
nhân và gia đình họ. Đây là những quan điểm đúng đắn. Ricardo lại cho rằng
lao động là hàng hóa, tiền công là giá cả của lao động, đây cũng là điểm hạn
chế trong tư tưởng về tiền công của ông (lao động không phải là hàng hóa,
sức lao động mới là hàng hóa), tuy nhiên ơng cũng đánh giá mức tiền công
cao hay thấp phải căn cứ vào số lượng tư liệu sinh hoạt tối thiểu. Từ đó xuất
hiện hai xu hướng, W.Petty, Ricardo phản đối việc tăng tiền lương cao, đưa ra
"quy luật sắt về tiền lương", A.Dam Smith khuyến khích tăng tiền lương. Cả
Smith và Ricardo đều nghiên cứu kỹ những yếu tố tác động đến tiền công
trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh như lượng cầu về lao động, giá
cả tiền công, thu nhập quốc dân. Như vậy về vấn đề tiền công kinh tế học cổ
điển đã đưa ra rất nhiều luận điểm về nguồn gốc của tiền cơng, đây chính là
sự khởi đầu của việc nghiên cứu hình thành những hệ thống quan điểm kinh
22

22


tế đúng đắn, tuy nhiên vẫn mang tính chất sơ khai, chưa thống nhất, các quan
điểm còn mang sự ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan.
Còn đối với trường phái kinh tế Tân cổ điển việc nghiên cứu về tiền

cơng khơng xuất phát từ việc đi tìm nguồn gốc, lí giải về khái niệm phạm trù,
đây cũng khơng phải là nội dung quan trọng nhất, tỉ mỉ nhất trong học thuyết
của trường phái này, không phải đại biểu nào cũng đề cập đến lý luận về thu
nhập nói chung và tiền cơng nói riêng. Những quan điểm về lý luận thu nhập
được chọn lọc kế thừa từ học thuyết kinh tế Cổ điển trên cơ sở đó hình thành,
phát triển ví dụ như về vấn đề tiền cơng Alfred Marshall cho rằng tiền công
của người lao động là những phí tổn cần thiết để ni dưỡng, giúp đỡ người
lao động và duy trì năng lực của họ. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học trong giai
đoạn này chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến
tiền cơng là gì. Trường phái kinh tế Tân cổ điển với lý thuyết về đại lượng
giới hạn: năng suất giới hạn, ích lợi giới hạn…từ đó tác động đến tiền công
như việc làm, năng suất lao động, tái sản xuất mở rộng…Như vậy kinh tế học
Tân cổ điển đã nghiên cứu gắn với kinh tế vĩ mô, và các quy luật của kinh tế
thị trường trong nền kinh tế, quan trọng nhất là cung - cầu.
Ngồi hình thức tiền cơng của cơng nhân, cịn rất nhiều hình thức thu
nhập đó là: lợi nhuận, lợi tức, địa tơ… đây chính là những hình thức thu nhập
của tư bản, địa chủ. Trong thời kỳ đầu của học thuyết kinh tế cổ điển, W.Petty
không đưa ra phạm trù lợi nhuận của tư bản công nghiệp, chỉ đưa ra quan
điểm địa tô và lợi tức, ở rất nhiều khía cạnh ơng đã đồng nhất lợi nhuận và địa
tô, địa tô và lợi tức đều có nguồn gốc từ ruộng đất. Đến Smith vấn đề lợi
nhuận đã được phát hiện và được coi là thành tựu cao nhất của kinh tế chính
trị cổ điển đã nêu được bản chất của lợi nhuận "là phần khấu trừ thứ hai từ sản
phẩm của người lao động". Còn lợi tức là một phần của lợi nhuận. Smith cũng
có rất nhiều những luận điểm đúng đắn và khoa học về địa tô, sau này làm
tiền đề cho các học thuyết khác. Ông cũng đã chỉ ra được mối quan hệ giữa ba
giai cấp địa chủ, tư bản kinh doanh ruộng đất, công nhân nông nghiệp. Và ông
đã đưa ra cách tiếp cận địa tô chênh lệch. Đến Ricardo ông chủ yếu đưa ra các
23

23



yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, tuy nhiên lý luận lợi nhuận của ơng cịn
nhiều giải thích khơng chính xác, phiến diện. Cịn về vấn đề địa tơ ơng có
nhiều đóng góp khơng phải từ việc tìm hiểu nguồn gốc mà đã giải thích được
địa tơ chênh lệch I, nhưng không thừa nhận địa tô tuyệt đối, và địa tô chênh
lệch II. Như vậy về vấn đề lợi nhuận, lợi tức, địa tô các nhà kinh tế cổ điển
vẫn tập trung đi tìm và giải thích nguồn gốc định nghĩa các phạm trù. Đó
được coi là cơ sở, tiền đề cho sự phát triển các khai niệm sau này, tuy nhiên
việc nghiên cứu vẫn chỉ dừng lại ở những khía cạnh đơn lẻ, chưa thành hệ thống
mang tính chất khoa học, cách đánh giá còn thiếu hụt, chưa rõ ràng, cụ thể.
Trường phái kinh tế Tân cổ điển không đi sâu vào việc nghiên cứu,
tìm hiểu nguồn gốc của lợi nhuận, lợi tức, địa tô mà tập trung hơn hết vào
việc tìm ra các lý do, các tác nhân ảnh hưởng đến nó. Như Bohm Bawerk đưa
ra các lý do ảnh hưởng đến lợi tức: Lý do tâm lý. Lý do kinh tế, lý do kỹ
thuật. Đối với các nhà kinh tế ở các trường phái khác gắn những hình thức thu
nhập này trong mối quan hệ với nền kinh tế vĩ mô, những tác động lớn trong sản
xuất - tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, và quy luật cung - cầu của thị trường, các loại
thị trường như Leon Walras đưa ra: thị trường sản phẩm, thị trường tư bản, thị
trường lao động. Và những quan điểm đó đều gắn với yếu tố tâm lý chủ quan.
Trường phái kinh tế tân cổ điển còn được gọi là trường phái kinh tế chủ quan vì
đưa các yếu tố tâm lý chủ quan vào nghiên cứu các vấn đề kinh tế, và từ đó
rút ra những quy luật, lĩnh vực tối ưu hóa hành vi của con người kinh tế.
Như vậy có thể thấy rằng, lý luận về phân phối thu nhập của trường
phái kinh tế cổ điển và tân cổ điển có rất nhiều điểm khác biệt. Trường phái Tân
cổ điển thì kế thừa chọn lọc học thuyết đi trước, tuy nhiên có những điểm chung
cơ bản nhất: các ông đều đưa ra các hình thức thu nhập với đối tượng là:
Tiền công là của công nhân lao động làm thuê;
Lợi nhuận, lợi tức là của nhà tư bản sở hữu tư bản và tư liệu sản xuất
thu về;

Địa tô thuộc về địa chủ cho thuê ruộng đất.

24

24


Với tư tưởng bảo vệ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, các ông đều
lấp liếm và phủ nhận quan hệ bóc lột giữa địa chủ với cơng nhân. Bảo vệ
quyền lợi của giai cấp tư sản, coi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là vĩnh
viễn. Không khuyến khích tăng lương cho người lao động, phủ nhận các
phong trào đấu tranh đòi tăng lương như: Adam Smith cho rằng tiền lương chỉ
có thể tăng trong nền kinh tế tăng trưởng nhanh, Ricardo cho rằng lương thấp
là điều tự nhiên, lương cao là thảm họa hay Clark cho rằng cơng nhân phải
chấp nhận tiền lương thấp để có việc làm, muốn tiền lương cao thị có thể
chính mình bị sa thải. (lý luận năng suất biên giảm dần). Cùng đề cao vai trị
tự do của thị trường vì vậy những yếu tố tác động đến thu nhập cũng đều do
yếu tố tự phát của các quy luật thị trường điều tiết.
Trên đây là một số so sánh đánh giá sự giống và khác nhau về lý luận
phân phối thu nhập của hai trường phái kinh tế cổ điển và tân cổ điển.
II. Vận dụng lý luận về phân phối thu nhập của trường phái kinh
tế cổ điển và Tân cổ điển vào vấn đề thu nhập ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng và kim chỉ nam cho
mọi hành động, đối với vấn đề về phân phối thu nhập ở Việt Nam là một vấn
đề quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Lý luận về thu nhập trong
học thuyết kinh tế của Mác cũng được kế thừa có chọn lọc và phát huy những
lý luận của học thuyết kinh tế cổ điển. Và những quan điểm đúng đắn về lý
luận thu nhập của các học thuyết kinh tế cho đến ngày nay vẫn còn nguyên
giá trị đã được vận dụng vào Việt Nam một cách sáng tạo, phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh, sự nghiệp phát triển đất nước của Việt Nam.

Việt Nam hiện nay, với sự nghiệp 30 năm đổi mới (1986 - 2016) đã
đạt được rất nhiều thành tựu về phát triển đất nước. Năng suất lao động ngày
càng nâng lên, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng và ổn định 2015: GDP 5,4%.
GDP/người: 2109USD/người, Việt Nam từ một nước có thu nhập nghèo trở
thành nước có thu nhập trung bình thấp chính vì thế thu nhập của mọi tầng
lớp nhân dân được nâng lên. Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn đầu đặt
những viên gạch nền móng cho thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Và đặc
25

25


×