Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

QUAN điểm TRIẾT học mác – LÊNIN về mối QUAN hệ BIỆN CHỨNG GIỮA vật CHẤT và ý THỨC sự vận DỤNG ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN của mối QUAN hệ này TRONG CUỘC SỐNG, học tập của bản THÂN SINH VIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.6 KB, 24 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
CHỦ ĐỀ: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ MỐI
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.
SỰ VẬN DỤNG Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA
MỐI QUAN HỆ NÀY TRONG CUỘC SỐNG, HỌC TẬP CỦA
BẢN THÂN SINH VIÊN VÀ TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
Họ và tên: Nguyễn Hà Anh Lân
MSSV: 47.01.301.056
Mã lớp HP: 2111POLI200123
Giảng viên giảng dạy: ThS Nguyễn Huỳnh Bích Phương

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan tiểu luận này là bài làm của tơi.
Kết quả trình bày trong tiểu luận là trung thực. Các trích dẫn về bảng biểu, kết
quả nghiên cứu của những tác giả khác; tài liệu tham khảo trong tiểu luận đều có
nguồn gốc rõ ràng và theo đúng quy định.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 01 năm 202
SINH VIÊN THỰC HIỆN

Nguyễn Hà Anh Lân



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Khái niệm về vật chất và ý thức....................................................................1
1.1. Vật chất..................................................................................................1
1.2. Ý thức....................................................................................................4
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức...........................................7
3. Ý nghĩa phương pháp luận............................................................................9
4. Liên hệ thực tiễn.........................................................................................11
4.1. Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay...................................12
4.2. Trong cuộc sống, học tập của bản thân sinh viên.................................15
KẾT LUẬN....................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................21


1

MỞ ĐẦU
Triết học cũng như những khoa học khác phải giải quyết rất nhiều vấn đề liên
quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng là nền tảng và là điểm xuất phát
để giải quyết những vấn đề cơ bản còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học.
Theo Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là
vấn đề giữa tư duy với tồn tại”. Từ đây, ta thấy được tầm quan trọng của việc tìm
hiểu khái niệm và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức – hai phạm trù
căn bản nhất, quan trọng nhất của triết học. Bên cạnh đó, thơng qua việc tìm hiểu về
vật chất và ý thức, chúng ta sẽ rút ra được những phương pháp luận, những bài học
sâu sắc khơng chỉ trong lý luận mà cịn mang ý nghĩa thực tiễn quý giá.

1. Khái niệm về vật chất và ý thức
1.1. Vật chất
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500

năm. Ngay từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh
không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trong khi chủ
nghĩ duy tâm quan niệm bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại là một
bản nguyên tinh thần, còn phần vật chất chỉ là sản phẩm của bản nguyên tinh thần
ấy thì chủ nghĩa duy vật quan niệm: bản chất của thế giới, thực thể của thế giới là
vật chất – cái tồn tại vĩnh viễn, tạo nên mọi sự vật, hiện tượng cùng với những thuộc
tính của chúng.
Quan điểm về vật chất của các nhà triết học duy vật trước Mác đã đặt nền
móng cho khuynh hướng lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên
nhưng nó cũng bộc lộ nhiều hạn chế, như: đồng nhất vật chất với vật thể, không
hiểu bản chất của ý thức cũng như mối qaun hệ giữa ý thức và vật chất; khơng tìm


2

được cơ sở để xác định những biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội nên cũng
khơng có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật giải quyết các vấn đề xã hội, v.v..
Những hạn chế đó tất yếu dẫn đến quan điểm duy vật không triệt để: khi giải quyết
những vấn đề về giới tự nhiên, các nhà duy vật đứng trên quan điểm duy vật, nhưng
khi giải quyết những vấn đề xã hội họ đã “trượt” sang quan điểm duy tâm.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, đặc biệt là
những phát hiện của Rơnghen về tia X (1895), Béccơren về hiện tượng phóng xạ
của nguyên tố Uranni (1896), Tômxơn về điện tử (1897), v.v. đã bác bỏ quan điểm
của các nhà duy vật về những chất được coi là “giới hạn tột cùng”, từ đó dẫn tới
cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý học. Những
người theo chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất “phi
vật chất” của thế giới, khẳng định vai trị của lực lượng siêu nhiên đối với q trình
sáng tạo ra thế giới.
Trong bối cảnh lịch sử đó, để chống sự xuyên tạc của các nhà triết học duy
tâm, bảo vệ và phát triển thế giới quan duy vật, V.I. Lênin đã tổng kết những thành

tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, đồng thời kế thừa tư tưởng
của C. Mác và Ph. Ăngghen để đưa ra định nghĩa về vật chất: “Vật chất là một
phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”. Đây là một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất mà
cho đến nay được các nhà khoa học hiện đại coi là một định nghĩa kinh điển.
Định nghĩa về vật chất của V.I Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau đây:
Thử nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết
học (phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật
chất và được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học) với khái
niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành (khái niệm dùng để
chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính).


3

Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất là
thuộc tính tồn tại khách quan, tức tồn tại ngồi ý thức, độc lập, khơng phụ thuộc vào
ý thức của con người, cho dù con người có nhận thức được hay khơng nhận thức
được nó. Vật chất là hiện thực chứ không phải hư vô và hiện thực này mang tính
khách quan. Mọi sự vật, hiện tượng từ vi mô đến vĩ mô, từ những cái đã biết đến
những cái chưa biết, từ những sự vật “đơn giản nhất” đến những hiện tượng vô cùng
“kỳ lạ”, dù tồn tại trong tự nhiên hay trong xã hội cũng đều thuộc phạm trù vật chất,
đều là các dạng cụ thể của vật chất. Phạm trù vật chất khái quát cái chung về mặt
tồn tại của mọi cái riêng với tính cách là các dạng cụ thể của vật chất.
Thứ ba, vật chất, dưới những dạng cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm
giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con
người, hay có thể nói, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người
thì đem lại cho con người cảm giác.
Thứ tư, ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, vật chất là cái

được ý thức phản ánh. Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, theo quy
luật vốn có của nó mà đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện
tượng – hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Hiện tượng vật chất tồn tại
khách quan, không lệ thuộc vào hiện tượng tinh thần. Hiện tượng tinh thần ln
ln có nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất và những gì có được trong các hiện
tượng tinh thần ấy chẳng qua cũng chỉ là chép lại, chụp lại, phản ánh thế giới khách
quan.
Định nghĩa về vật chất của V.I. Lênin có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
Một là, bằng việc tìm ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của vật chất
là tính tồn tại khách quan, V.I. Lênin đã phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa khái
niệm vật chất với tư cách là phạm trù triết học với khái niệm vật chất với tư cách là
phạm trù của các khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong quan


4

niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để
xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan
điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn chế duy tâm trong quan niệm
về xã hội.
Hai là, khi khẳng định vật chất là “thực tại khách quan”, “được đem lại cho
con người trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, V.I. Lênin không những đã khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai
của ý thức theo quan điểm duy vật mà cịn khẳng định khả năng con người có thể
nhận thức được thực tại khách quan thông qua sự “chép lại, chụp lại, phản ánh” của
con người đối với thực tại khách quan.
1.2. Ý thức
 Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn

gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc tự
nhiên của ý thức; trong đó, hai yếu tố cơ bản nhất là bộ óc người và mối quan hệ
giữa con người với thế giới khách quan tạo nên hiện tượng phản ánh năng động,
sáng tạo.
+ Về bộ óc người: ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao
là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của
bộ óc. Bộ óc càng hồn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu
quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc.
+ Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo nên hiện
tượng phản ánh năng động, sáng tạo: quan hệ giữa con người với thế giới khách
quan là quan hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này,


5

thế giới khách quan được phản ánh thông qua hoạt động của các giác quan đã tác
động đến bộ óc người, hình thành nên ý thức.
+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau với chúng. Phản ánh là thuộc
tính của tất cả dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức,
trình độ: phản ánh vật lý, hoá học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh
năng động, sáng tạo. Những hình thức này tương ứng với q trình tiến hố của các
dạng vật chất tự nhiên.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức: có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội
của ý thức; trong đó, cơ bản nhất và trực tiếp nhất là lao động và ngôn ngữ.
+ Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra
sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Lao động cũng là quá
trình vừa làm thay đổi cấu trúc cơ thể người, vừa làm giới tự nhiên bộc lộ những
thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động, v.v. của nó qua những hiện

tượng mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt
động của các giác quan, tác động đến bộ óc người và bằng hoạt động của bộ óc, tri
thức nói riêng, ý thức nói chung về thế giới khách quan hình thành và phát triển.
+ Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội
dung ý thức. Không có ngơn ngữ, ý thức khơng thể tồn tại và thể hiện. Mối quan hệ
giữa các thành viên trong quá trình lao động làm nảy sinh ở họ nhu cầu phải có
phương tiện để giao tiếp, trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và
phát triển ngay trong q trình lao động. Nhờ ngơn ngữ, con người đã khơng chỉ
giao tiếp, trao đổi mà cịn khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh
nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời
và phát triển của ý thức và lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là


6

ngơn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn,
đã làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người, khiến cho tâm
lý động vật dần dần chuyển hoá thành ý thức.
 Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh được thể hiện ở khả năng
hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin,
chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thơng tin
đã có, nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thơng tin được
tiếp nhận, từ đó con người nắm bắt được bản chất và quy luật của hiện thực khách
quan. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh cịn được thể hiện ở q trình
con người tạo ra những ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại, v.v. trong đời sống tinh
thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mơ hình

tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người. Cho dù tồn tại dưới dạng nào
thì ý tưởng cũng phải dựa trên những tiền đề vật chất nhất định.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó thể hiện ở chỗ:
Ý thức là hình ảnh về thế giới khách quan, bị thế giới khách quan quy định cả về
nội dung và về hình thức biểu hiện, nhưng nó khơng cịn y ngun như thế giới
khách quan mà nó đã cải biến thơng qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu, v.v.) của con người. Theo C. Mác, ý
thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi trong đó”. Hay Ph. Ăngghen đã từng chỉ rõ tính chất biện chứng
phức tạp của q trình phản ánh: “Trên thực tế, bất kỳ phản ánh nào của hệ thống
thế giới vào trong tư tưởng cũng đều bị hạn chế về mặt khách quan bởi những điều
kiện lịch sử, và về mặt chủ quan bởi đặc điểm về thể chất và tinh thần của tác giả”.


7

Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại
của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy
luật tự nhiên mà còn (chủ yếu là) của các quy luật xã hội; được quy định bởi nhu
cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã hội. Với
tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Chính bản chất xã hội của ý thức là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt ý thức của con
người và tâm lý của động vật. Đồng thời, là cơ sở để chống lại một quan điểm sai
lầm cho rằng, trong tương lai con người sẽ tạo ra những thế hệ người máy có ý thức
như ý thức của con người.
Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy: ý thức là
hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc con người về hiện thực khách quan trên
cơ sở thực tiễn xã hội – lịch sử. Thực chất, ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của
một dạng vật chất đặc biệt là bộ óc người; nói cách khác, chỉ có con người mới có ý
thức. Lồi người xuất hiện là kết quả của lịch sử vận động, phát triển lâu dài của thế

giới vật chất. Cấu trúc hoàn thiện của bộ óc người là nền tảng vật chất, hoạt động
thực tiễn và đời sống xã hội phong phú là động lực, để ý thức được hình thành và
phát triển. Sáng tạo là thuộc tính đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Sức sáng tạo
của ý thức trong tinh thần và sức sáng tạo của con người trong thực tiễn khác nhau
về bản chất nhưng chỉ là những biểu hiện khác nhau của năng lực sáng tạo, khẳng
định sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối
quan hệ này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức,
quyết định ý thức; song ý thức khơng hồn tồn thụ động mà nó có thể tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Vật chất quyết định ý thức


8

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Con người do giới tự
nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức – một thuộc tính của bộ phận con
người – cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập
với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu
tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Ý thức dưới mọi hình
thức đều là phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Sự phát
triển của hoạt dộng thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất
quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý thức con người
qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Phản ánh và sáng tạo là hai
thuộc tính khơng tách rời trong bản chất của ý thức. Nhưng là sự phản ánh tích cực,

tự giác, sáng tạo thơng qua thực tiễn chứ không chỉ là “soi gương”, “chụp ảnh” hay
“phản ánh tâm lý” như con vật.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. Mọi sự tồn
tại phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất
thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người – một sinh
vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả về thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên ý
thức – một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình
thức phản ánh của nó.
- Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.


9

Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự
phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng
khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng,
khơng lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính
độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. ý thức có thể thay đổi nhanh,
chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so
với sự biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những
điều kiện, hồn cảnh vật chất, thậm chí cịn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho
cuộc sống của con người. Nhờ những tri thức về thế giới và quy luật khách quan,
con người đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện
thắng lợi mục tiêu đã xác định, mà đặc biệt nhất là ý thức tiến bộ và cách mạng.
Thứ ba, ý thức thể hiện vai trị của mình thơng qua việc nó chỉ đạo hoạt
động, hành động của con người, nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con

người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức
có thể dự báo, tiên đốn một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên
những lý luận định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng
sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật
chất được nhân lên gấp bội.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trị của ý thức càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh tồn cầu hố, vai trị của tri thức khoa học,
của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
3. Ý nghĩa phương pháp luận


10

Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động,
sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa
duy vật biện chứng xây dựng nên nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất
đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nguyên tắc đó là: Trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn phải xuất phát từ thế giới khách quan, tơn trọng
khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan. Theo nguyên tắc phương
pháp luận này, mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người chỉ có thể đúng
đắn, thành cơng và có hiệu quả tối ưu khi và chỉ khi thực hiện đồng thời việc xuất
phát từ thế giới khách quan, tôn trọng khách quan với phát huy tính năng động chủ
quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính
khách quan của vật chất, có thái độ tơn trọng đối với hiện thực khách quan, mà căn
bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tơn trọng vai trị
quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, của xã
hội. Điều đó địi hỏi trong nhận thức và hành động, con người phải xuất phát từ thực

tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế
hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra
những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố vật chất ấy thành lực lượng vật chất
để hành động.
Phát huy tính năng động, chủ quan là phát huy vai trị tích cực, năng động,
sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hố
tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này địi hỏi con người phải tơn trọng tri
thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền
bá vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn
quần chúng hành động. Mặt khác, phải tự giác tu dưỡng rèn luyện để hình thành,
củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống
nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.


11

Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan
trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ
quan, duy ý chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng
thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm
xuất phát cho chiến lược, sách lược, v.v.. Mặt khác, cũng cần chống chủ nghĩa kinh
nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ
động, v.v. trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Khi xem xét bất cứ hiện tượng xã
hội nào, cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh thần, cả điều kiện
khách quan lẫn nhân tố chủ quan.
4. Liên hệ thực tiễn
Để bồi dưỡng thế giới quan khoa học, trong nhận thức và thực tiễn trước hết
cần phải tôn trọng nguyên tắc tính khách quan. Theo V. I. Lênin, nguyên tắc “tính
khách quan của sự xem xét” là nguyên tắc hàng đầu trong 16 yếu tố của phép biện
chứng.

Nguyên tắc này đòi hỏi khi xem xét các sự vật hiện tượng cần phải xuất phát
từ chính nó, chứ khơng được áp đặt ý chí, ý muốn chủ quan của mình vào cho sự
vật, hiện tượng, nghĩa là, cần phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải tôn trọng sự
thật, đồng thời chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội, đốt cháy giai đoạn,
chạy theo nguyện vọng chủ quan.
Tính năng động chủ quan, tính tích cực sáng tạo của ý thức khơng phải ở chỗ
nó trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất, mà là ở chỗ nhận thức được thế
giới khách quan, trên cơ sở đó hình thành nên mục đích, phương hướng, giải pháp,
biện pháp và ý chí cần thiết trong hoạt động của mình. Vai trò của ý thức, của nhân
tố chủ quan thể hiện ở tri thức, niềm tin, tình cảm, lý trí, ý chí, tự ý thức, tiềm thức,
lý tưởng gắn liền với vị trí, vai trị, nhiệm vụ của chủ thể trong nhận thức và hành
động.


12

Muốn vậy, cần phải tôn trọng tri thức khoa học, lý luận khoa học, xây dựng và
bồi dưỡng tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí trong những hành động cụ thể của những
chủ thể nhất định. Đồng thời, cần phát huy tinh thần đấu tranh phê bình, tự phê
bình, rèn luyện kĩ năng, hình thành lý tưởng sống vì sự hồn thiện của cá nhân và
cộng đồng.
Phát huy tính năng động chủ quan, đồng thời phải chống lại bệnh bảo thủ, trì
trệ, thái độ thụ động, ỷ lại, trơng chờ, ngồi chờ, khơng biết phát huy tính năng động,
sáng tạo của ý thức.
Tơn trọng tính khách quan, phát huy tính năng đơng chủ quan vừa có ý nghĩa
phương pháp luận cơ bản, vừa là u cầu có tính ngun tắc trong nhận thức và
thực tiễn.
4.1. Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Nguyên tắc tính khách quan địi hỏi phải tơn trọng và hành động theo các quy
luật khách quan. Muốn vậy, trước hết phải nhận thức được và hiểu được các quy

luật khách quan, vận dụng chúng một cách phù hợp với từng điều kiện lịch sử - cụ
thể. Đây cũng chính là bài học quan trọng mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng Cộng sản Việt Nam rút ra và tiếp tục khẳng định trong Văn kiện Đại hội
lần thứ VII của Đảng: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực
tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
Đặc biệt sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Đảng ta đã rút ra một số
kinh nghiệm và trình bày trong Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,
trong đó có kinh nghiệm thứ hai là: “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật , bám sát thực tiễn của đất nước và thế giới; đồng thời nắm bắt, dự báo
những diễn biến mới để kịp thời xác định, điều chỉnh một số chủ trương, nhiệm vụ,
giải pháp cho phù hợp. Phải coi trọng tổng kết thực tiễn nghiên cứu lý luận; chỉ đạo


13

quyết liệt, kiên trì, sáng tạo để tổ chức thực hiện thắng lợi những chủ trương đúng
đắn của Đảng và Nhà nước”.
Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết
điểm, Đảng ta đã rút ra một số bài học, trong đó bài học thứ ba là: “đổi mới phải
tồn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ
thực tiễn, bám sát thực tiễn coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập
trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra”.
Để khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí phải tiến hành đồng bộ
nhiều giải pháp khác nhau, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Đảng ta đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực
tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới mơ hình tổ
chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của cơ quan

nghiên cứu lý luận của Đảng; đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, phát triển đội
ngũ cán bộ lý luận, nhất là những chuyên gia đầu ngành; nâng cao chất lượng tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đáp ứng yêu cầu mới”.
Hiện nay, trước bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến
nhanh, phức tạp, khó lường. Đất nước ta đang đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ
và khó khăn, thách thức với rất nhiều vấn đề mới đặt ra. Kiên định đổi mới, hội
nhập và phát triển trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn
đề có ý nghĩa sống cịn đối với đất nước và chế độ ta. Mối quan hệ giữa đổi mới, hội
nhập và phát triển phản ánh quy luật mang tính biện chứng, là một trong những vấn
đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới ở nước ta, phản ánh mục tiêu, điều kiện,
phương thức để tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


14

Sự tác động lẫn nhau giữa đổi mới, hội nhập và phát triển bắt đầu từ đởi mới,
do tình hình mới, nhiệm vụ mới đặt ra, cả những vấn đề cụ thể, bức xúc, cấp bách
trước mắt lẫn những vấn đề sâu xa, chiến lược lâu dài. Đổi mới là tất yếu của phát
triển. Đổi mới có nội dung tồn diện gắn liền với dân chủ hóa các lĩnh vực của đời
sống, có lực đẩy quan trọng là tư tưởng giải phóng để khai thơng, khai thác và phát
huy mọi tiềm năng, mọi nguồn trữ năng, từ vật chất đến tinh thần của xã hội, hướng
tới phát triển, phát triển bền vững và hiện đại hoá đất nước. Đổi mới là nhân tố nổi
bật tác động tới hội nhập và phát triển. Đổi mới không chỉ là tiền đề mà còn là điều
kiện và động lực của hội nhập, của phát triển.
Chúng ta đã đổi mới tư duy từ hơn ba mươi lăm năm trước nhưng phải nhận
thức sâu sắc rằng thế giới, đất nước ngày một phát triển, tư duy phải ln ln đổi
mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn rằng “nếu cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay
đổi là không đi đến đâu cả”. Thành công của sự nghiệp đổi mới hơn ba mươi lăm
năm qua bắt đầu bằng đổi mới tư duy về tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế,

chính trị, văn hóa, xã hội. Bước vào đổi mới, thái độ của Đảng ta là “nhìn thẳng vào
sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật”. Đó là bản lĩnh, dũng khí của một
Đảng chân chính cách mạng vì nước, vì dân. Đó cũng chính là những viên ngọc
trong kho tàng đầy của báu của Hồ Chí Minh khi Người khẳng định: “Phải biết rằng
tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay
đúng đắn, hôm sau đã không hợp thời nữa, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những
tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ khơng
theo kịp tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo nhanh nhẹn hơn vượt đi trước” .
Cũng như trước đây, vấn đề đặt ra hiện nay khơng phải chỉ có nhiệt tình, quyết
tâm đổi mới là đủ; phải có tầm nhìn, tư duy chiến lược, quyết tâm chính trị của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân và khát vọng phát triển và ý chí vươn tới một tương lai
rạng rỡ. Nhưng đổi mới phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn,
bám sát thực tiễn, từ những bài học tổng kết kinh nghiệm, thực tiễn và nghiên cứu
lý luận, hướng vào giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra, phù hợp với thực


15

tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới. Đây là vấn đề có tính ngun tắc
cần được quán triệt sâu sắc.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ “cần phải nắm vững và xử lý tốt mối
quan hệ giữa kiên định và đổi mới, vận dụng sáng tạo”. Kiên định là vững vàng, giữ
vững ý định, ý chí, khơng ngả nghiêng, lung lay, dao động trong bất kỳ hồn cảnh
nào. Kiên định khơng đồng nghĩa với bảo thủ, cứng nhắc, giáo điều. Trong khi kiên
định những vấn đề có ý nghĩa sống cịn đối với chế độ ta, nền tảng vững chắc của
Đảng ta như chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; đường lối đổi mới; những nguyên tắc trong công tác xây
dựng Đảng, thì phải ln ln đổi mới và sáng tạo theo tinh thần biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách mạng là sáng tạo, là đổi mới. Không sáng tạo, không
đổi mới là lạc hậu, xã hội không thể phát triển. Xã hội, con người luôn luôn đổi

mới. Đổi mới là một cách thức để phát triển, làm cho sự vật ngày càng tốt hơn, tiến
bộ hơn. Phát triển phải gắn liền với đổi mới. Đổi mới phải nắm vững quy luật, xu
hướng phát triển. Theo Tổng Bí thư “đổi mới một cách vơ ngun tắc thì cũng rất
dễ rơi vào chủ nghĩa xét lại, chệch hướng, “đổi màu”. Kiên định mà khơng đổi mới,
sáng tạo thì khơng thể phát triển. Vì vậy, kiên định phải gắn liền với sáng tạo, đổi
mới; sáng tạo, đổi mới phải trên cơ sở kiên định những vấn đề có tính ngun tắc
phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới.
4.2. Trong cuộc sống, học tập của bản thân sinh viên
Sau khi hiểu rõ về vật chất và ý thức cũng như mối liên hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức, tơi với vai trị là một tân sinh viên của Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, đã rút ra cho mình những bài học sâu sắc về bản thân và
thế giới xung quanh. Khi xem xét một sự vật, hiện tượng gì đó, trước hết chúng ta
phải xem xét tổng thể, khách quan, phải tôn trọng khách quan và sự tồn tại khách
quan của sự vật hiện tượng. Không được vội vàng đánh giá hay phán xét một người,
một vật phiến diện, không áp đặt ý muốn hay ý chỉ chủ quan của bản thân lên những


16

sự vật, hiện tượng khác mà bỏ quên sự thật khách quan về sự tồn tại và vận động
của khách thể đó. Rèn luyện thế giới quan khoa học, tơn trọng và khơng ngừng trao
dồi tri thức khoa học, trí thức nhân loại, hun đúc tình cảm và bản lĩnh cách mạng,
nuôi dưỡng niềm tin và tố chất của một thanh niên, sinh viên trong thời đại mới,
thời đại hội nhập và phát triển. Không ỷ lại, trông chờ vào sự ban phát của người
khác, chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh tri thức, không ngừng học tập và rèn luyện kĩ
năng sống. Khi gặp những tình huống khó khăn trong cuộc sống, khơng nản chí, bỏ
cuộc mà cần xem xét kĩ càng, đặt trong những mối liên hệ với những tình huống
khác, để tìm ra được hướng giải quyết cho đúng đắn và hiệu quả nhất.
Trong cuộc sống, là một tân sinh viên, tiếp xúc với một môi trường mới, gặp
được những thầy cô và bạn bè mới. Chúng ta cần vận dụng linh hoạt quan điểm tôn

trọng khách quan, sáng tạo chủ quan. Khi gặp một người bạn mới, chúng ta không
được đánh giá họ qua con người bên ngồi. Một cậu bạn mặt mày bặm trợn, ăn nói
cộc cằn, có thể là do ảnh hưởng từ nơi cậu ấy sinh sống, nhưng chưa chắc gì cậu đã
là một người không tốt mà chúng ta vội tránh xa, từ chối tiếp xúc với cậu ấy. Với
một vẻ bề ngoài hung dữ, cậu ấy vẫn đối xử tốt với bạn bè, vẫn hăng say giúp đỡ
mọi người và chung tay vì việc của tập thể. Có thể cậu ấy có một quá khứ chưa tốt,
nhưng nếu cậu ấy đã thay đổi, trở nên tốt hơn, chúng ta nên cho nhau một cơ hội để
tạo dựng những mối quan hệ tốt đẹp cùng nhau. Hoặc một cô bạn hết sức thân thiện,
ai cũng làm quen, ai cũng nhiệt tình. Nhưng thật ra cơ bạn ấy chỉ đang tìm cách lợi
dụng, nhờ vả người khác vì bản tính ích kỉ, lười biếng của bản thân. Như vậy, chúng
ta cần xem xét khách quan và toàn diện một người trước khi đưa ra bất kì phán đốn
hay quyết định nào. Cần thời gian tìm hiểu hồn cảnh sống của mỗi cá nhân, tìm
hiểu những mối quan hệ khác của họ từ những người bạn khác, hoặc thông qua thái
độ, hành vi ở những tình huống, sự việc khác nhau từ họ, chúng ta mới đưa ra được
những nhận định ban đầu về những người bạn mới quen, cũng như tìm cho mình
những mối quan hệ thật tốt ở môi trường đại học. “Chiếc áo khơng làm nên thầy
tu”, vẻ bề ngồi của mỗi người khơng thể nói lên được con người bên trong của họ,


17

cần tìm hiểu kĩ càng tất cả mọi điều về họ thì chúng ta mới hiểu được phần nào con
người và bản chất của mỗi cá nhân.
Trong thời đại mạng xã hội phát triển, chúng ta thường gặp tình trạng ngộ độc
thơng tin, đặc biệt là tình hình dịch bệnh hiện tại. Do đó khi tiếp xúc với bất kì
thơng tin nào trên các phương tiện truyền thông, chúng ta không nên vội vàng tin
tưởng, cũng như bức xúc hay thái quá với những vấn đề nóng bỏng hiện nay. Chúng
ta cần bình tĩnh, xem xét từng tình huống cụ thể, đặt nó trong mối quan hệ với nhiều
vấn đề khác (chính sách, con người, xã hội…). Ví như những tin giả về dịch bệnh,
chúng ta nên bình tĩnh tìm hiểu xem đó có phải là nguồn tin đáng tin cậy hay không,

hay chỉ là một bài đăng, một tin đồn từ người này sang người khác, tránh chỉ vì lòng
tin chủ quan của cá nhân mà phát tán những thơng tin chưa được kiểm sốt. Cần
vào các trang báo chính thống như Báo Nhân dân, Báo Sức khoẻ đời sống, Báo
Công an Nhân dân, … hay các trang thông tin của nhà nước như: Cổng thơng tin
Chính phủ, Cổng thông tin Bộ Y tế, … Khi đọc về những vấn đề xã hội như các
thông tin về hỗ trợ lương thực, nhu yếu phẩm, hay các đợt trợ cấp của thành phố…
chúng ta cần nắm kĩ thông tin trước khi chia sẻ, hoặc bày tỏ thái độ bất bình của bản
thân nếu chưa được nhận. Có thể do chúng ta không nằm trong diện được hỗ trợ,
khu vực xung quanh là vùng xanh nên các đồ tiếp tế được ưu tiên cho những vùng
nguy cấp hơn. Chúng ta có thể liên hệ với tổ trưởng, các cơ quan địa phương nơi
mình sinh sống để nắm rõ thơng tin, xem mình có phải đối tượng hay do sai sót
trong q trình lập danh sách. Trong bất kì hồn cảnh nào, trước mỗi thông tin
chúng ta đọc được, phải thận trọng và bình tĩnh, khơng phiến diện, chủ quan mà tiếp
tay cho những thông tin xấu độc, ảnh hưởng tới bản thân, gia đình và xã hội.
Trong học tập, trước khi đăng kí học phần cho bản thân vào học kì tiếp theo.
Chúng ta cần xem xét tổng quan, cụ thể u cầu của từng mơn học. Ví dụ như mình
đã học qua học phần tiên quyết hay học phần học trước của mơn đó chưa. Hay u
cầu của mơn đó cần tích luỹ bao nhiêu mơn, bao nhiêu tín chỉ. Cần xác định rõ môn
nào là ưu tiên (những môn chuyên ngành), cần đảm bảo đủ thời gian và tiến trình


18

học để lĩnh hội đầy đủ kiến thức cũng như kĩ năng từ các môn học. Cần xem xét sức
nặng tương quan của từng mơn học như số tín chỉ, số tiết lý thuyết, thực hành, nội
dung kiến thức của từng mơn, để có thể học hiệu quả nhất, tránh tình trạng học quá
nặng tạo tâm lý chán nản, buồn bực, dễ bị ảnh hưởng đến kết quả học tập. Hay tình
trạng học q nhẹ, làm dồn các mơn học vào các năm cuối, tạo gánh nặng cho quá
trình thực tập, làm luận văn khiến chúng ta bị phân tán, dễ kiệt sức. Trong từng môn
học, không chỉ cô lập kiến thức của mỗi học phần mà cần liên hệ, vận dụng chúng

với nhau để tạo một hệ thống thông tin, kiến thức, từ đó dễ ghi nhớ và tạo lập nền
tảng tri thức tốt hơn. Xác định mục tiêu quan trọng của mỗi bài, kiến thức trọng tâm
của từng chương, để tập trung ơn tập, xốy sâu, tìm hiểu kĩ, tạo điều kiện khi kiểm
tra sẽ dễ dàng và đạt được những điểm số tốt hơn. Cần linh hoạt, năng động trong
những phương tiện, cách thức học tập phù hợp với những hồn cảnh khác nhau. Ví
dụ như với tình hình dịch bệnh và sinh viên phải học tập trực tuyến như vậy, chúng
ta cần thay đổi cách thức học tập, tiếp cận với những tài liệu trực tuyến, chủ động tự
giác trong việc học. Xin phương thức liên lạc với giảng viên để khi gặp những vấn
đề về đường truyền, sự cố khi đang học hay kiểm tra. Chủ động liên lạc để hỏi bài,
xin thêm thông tin về những phần bài giảng còn thắc mắc, chưa hiểu qua các mạng
xã hội như Facebook, Zalo... thay vì gặp trực tiếp như bình thường. Xây dựng kế
hoạch học tập, phân chia thời gian với từng môn, để phù hợp với lượng kiến thức
cũng như thời gian ôn tập, kiểm tra.
Để vận dụng điều này vào cuộc sống giảng dạy sau này, với mỗi học sinh của
mình, chúng ta cần tìm hiểu kĩ về gia thế, hồn cảnh cũng như môi trường rèn luyện
của mỗi học sinh để đưa ra phương pháp giáo dục cũng như bồi dưỡng đạo đức cho
từng em học sinh. Một học sinh nghịch ngợm, ngổ ngáo có thể do gia đình q
nng chiều, hoặc do bị ảnh hưởng bởi những người bạn không tốt từ xung quanh.
Chúng ta có thể trao đổi với gia đình của học sinh, giải thích, khun nhủ gia đình
thay đổi hướng giáo dục con cái, hoặc khuyên ngăn em nên hạn chế tiếp xúc với
những thành phần xấu, để từ đó, rèn luyện thành một học sinh chăm ngoan và tốt
hơn. Khi một học sinh không làm bài tập về nhà, chúng ta nên để em nêu ra những


19

lý do trung thực khách quan nhất, nếu là do bản thân em quên, chúng ta nên cho em
cơ hội sửa đổi, chứ không vội vàng trách phạt. Nếu do những nguyên nhân bất khả
kháng như cúp điện, gia đình có chuyện riêng hay do hồn cảnh gia đình, chúng ta
cần tìm hiểu và hỗ trợ các em có thêm phương tiện, dàn trải thời gian làm bài, để

em có cơ hội được lĩnh hội kiến thức cùng các bạn đồng trang lứa. Tránh la mắng,
tạo áp lực khi chưa tìm hiểu rõ hồn cảnh, lý do, như vậy sẽ dễ khiến các em chán
nản, lo sợ từ đó sinh ra tâm lý trốn tránh và chán học. Cần tạo điều kiện, và theo dõi
các em trong những thời điểm khác nhau của quá trình học, để nhận thấy sự tiến bộ
hay thiếu sót, từ đó đề ra được phương án giảng dạy một cách hiệu quả nhất. Luôn
lấy học sinh là trọng tâm của việc dạy và học, là đối tượng ưu tiên nhất, cần được
quan tâm sâu sắc nhất. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần tổ chức những hoạt động
trải nghiệm thực tế khác, giao lưu giữa những tập thể lớp, trường khác nhau, để các
em học sinh khơng chỉ phát triển về tri thức mà cịn có cơ hội trau dồi, học tập lẫn
nhâu, cũng như tăng khả năng giao tiếp, học hỏi kĩ năng sống. Bởi giáo dục khơng
chỉ là dạy chữ, mà cịn là dạy làm người.

KẾT LUẬN
Như vậy, trên cơ sở về khái niệm về vật chất và ý thức, mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức. Nhận thức về tầm quan trọng của ý nghĩa phương
pháp luận từ lý luận đến thực tiễn, chúng ta cần tuân theo những quy tắc cơ bản nhất
là tôn trọng khách quan, mọi hoạt động đều phải xuất phát từ thực tiễn khách quan,
tránh chủ quan, duy ý chí mà mắc những sai lầm khơng đáng có. Khơng chỉ vậy,
chúng ta cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào trong cuộc sống và học tập, giúp cho
chúng ta trở thành một người vừa có tri thức lại vừa có nhận thức đúng đắn về tự
nhiên và xã hội. Xây dựng cho bản thân một tư duy triết học toàn diện và ứng dụng.
Tránh phiến diện, rập khuôn, bảo thủ cũng như quan liêu, xa rời thực tế, hoặc chỉ
chăm chăm vào lý luận mà đánh mất tính ứng dụng của nó. Dựa trên cơ sở lý luận


20

đó, chúng ta cần đưa triết học sâu sát vào đời sống của mỗi con người, mỗi sinh
viên. Để kiến tạo cho chúng ta những cái nhìn khách quan, cũng như nhận thức sâu
sắc về thế giới xung quanh, tự nhiên, xã hội và tư duy. Đem những điều đã được

học, thực hành trong đời sống của mỗi cá nhân, từ học tập cho đến những mối quan
hệ xã hội. Khơng ngừng trau dồi và bồi dưỡng tình cảm cách mạng, ý chí phấn đấu,
tinh thần xung kích để góp cơng, góp sức vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


21

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dành cho bậc đại học hệ khơng chun lý
luận chính trị) (2021), NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin (Dành cho
sinh viên đại học, cao đẳng khối khơng chun ngành Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh) (2018), NXB Chính trị quốc Gia Sự thật, Hà Nội.
PGS. TS Nguyễn Ngọc Khá (2017), Chuyên đề Triết học, Tái bản lần 1, NXB
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, TP. HCM.
Báo điện tử: Đảng Cộng sản Việt Nam (2020). Đổi mới, hội nhập và phát triển
trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Khai thác ngày
20/01/2022.

Nguồn:

/>


×