Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Luan van cao cap ly luan chinh tri vai trò của các nước lớn trong quan hệ quốc tế ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.02 KB, 41 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án
Dù ở bất kỳ giai đoạn nào, quan hệ quốc tế cũng bao hàm những rối ren
và phức tạp. Để lý giải sự vận động của thế giới thì việc nghiên cứu và tìm hiểu
nó là hết sức cần thiết nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà tình hình thế giới
có những biến chuyển lớn, sâu sắc và phức tạp. Chiến tranh lạnh kết thúc, thế
giới đành bước vào một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế. Quan hệ giữa các
nước lớn luôn là mối quan tâm của thế giới, điều này cũng dễ hiểu bởi quan hệ
giữa các nước lớn ln có ảnh hưởng quan trọng trong đời sống quan hệ quốc tế.
Thế giới đang hình thành những mối quan hệ quốc tế mới trong phạm vi tồn
cầu, có nhiều nhân tố tích cực trong hịa bình, ổn định và hợp tác. Tuy nhiên, ở
nhiều khu vực đã và đang xuất hiện những nhân tố bất trắc mới gây ra bất ổn
định không lường trước được.
Quan hệ giữa các nước lớn tốt lên hay xấu đi đều có ảnh hưởng rất sâu
sắc đối với thế giới. Trong bối cảnh kinh tế phục hồi chậm chạp sau khủng
hoảng 2008-2009, các nước lớn Mỹ, Trung, Nhật, Nga tiếp tục tập trung điều
chỉnh cơ cấu kinh tế và mơ hình tăng trưởng theo hướng chú trọng nội nhu, tạo
việc làm, hướng tới phát triển bền vững. Các nước lớn cũng ưu tiên xử lý các
vấn đề chính trị trong nước do năm 2013 là năm đầu tiên của các chính quyền
mới lên hoặc tái đắc cử, cần phải thu xếp ổn thỏa các vấn đề nội bộ. Do đó, các
nước lớn có nhu cầu duy trì mơi trường bên ngồi thuận lợi, tạo dựng khn khổ
quan hệ lâu dài, từ đó tạo nên xu thế chung là hịa hỗn và hợp tác giữa các nước
lớn trên nhiều vấn đề có lợi ích chung, mặc dù vẫn tiếp tục duy trì sự cạnh tranh
về chiến lược.
Trong năm 2014, sự vận động của các cặp quan hệ nước lớn phản ánh
nhiều sắc thái quan hệ khác nhau, từ ổn định nhất như cặp quan hệ Mỹ-Nhật đến
bất ổn định nhất như cặp quan hệ Trung-Nhật. Đặc điểm đáng chú ý là sự vận
động của quan hệ các nước lớn không vượt khỏi xu thế chung là tập trung phục
hồi kinh tế, duy trì ổn định chính trị, đồng thời tích cực xúc tiến các quan hệ đối


ngoại để phục vụ hữu hiệu lợi ích quốc gia trước tình hình có nhiều diễn biến


2

mới. Các nước đều hướng tới xây dựng một khuôn khổ quan hệ lâu dài, ổn định,
khả dĩ điều tiết cạnh tranh và quản lý có hiệu quả các bất đồng. Điều này cũng
làm nên sự hòa hợp nhất định giữa các cặp quan hệ nước lớn trong một bức
tranh đa dạng, đa sắc thái.
Ngày nay mối quan hệ quốc tế giữa các quốc gia ngày càng cởi mở hơn, và
các nước lớn ngày càng có mối quan hệ phức tạp hơn về kinh tế, chính trị, ngoại
giao. Do đó đề tài "Vai trò của các nước lớn trong quan hệ quốc tế ngày nay"
sẽ làm rõ vai trò của các nước lớn mà cụ thể là Mỹ, Nhật, Nga, Trung Quốc
trong giai đoạn hiện nay.
2. Cơ sở xây dựng đề án
2.1. Cơ sở khoa học
Dựa trên các khái niệm, các lý thuyết về quan hệ quốc tế, Học thuyết
Mác - Lênin, mơ hình cấu trúc quyền lực trong quan hệ quốc tế để đánh giá vai
trò của các nước lớn trong quan hệ quốc tế ngày nay.
2.2. Cơ sở pháp lý
Đề án dựa trên pháp luật quốc tế như luật quốc tế, các hiệp ước, các nghị
định thương mại giữa các quốc gia.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề án
3.1. Mục tiêu của đề án
3.1.1. Mục tiêu chung
Đánh giá vai trò của các nước lớn trong mối quan hệ quốc tế từ đó đề ra
những định hướng và giải pháp nhằm ổn định mối quan hệ quốc tế.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu tình hình quan hệ quốc tế trong giai đoạn sau chiến tranh
lạnh đến nay.

- Đánh giá mối quan hệ giữa các nước lớn như Mỹ, Nhật, Nga, Trung
Quốc trong giai đoạn hiện nay.
- Chỉ ra vai trò của các nước lớn trong mối quan hệ quốc tế.
- Đề ra định hướng cho mối quan hệ quốc tế giữa các quốc gia trong thời
gian sắp tới.


3

3.2. Nhiệm vụ của đề án
Trên cơ sở những nội dung và mục tiêu đã đề ra, đề án sẽ tổng hợp và
đánh giá mối quan hệ giữa các quốc gia trong giai đoạn từ sau chiến tranh lạnh,
từ đó đề ra các định hướng và giải pháp cho mối quan hệ quốc tế giữa các quốc
gia trong thời gian sắp tới. Bên cạnh đó đề án cịn là một tài liệu tham khảo cho
các nghiên cứu có liên quan.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề án
- Phạm vi về không gian: nghiên cứu tập trung chủ yếu trên các nước lớn
như Mỹ, Nhật, Nga, Trung Quốc.
- Phạm vi về thời gian: nghiên cứu được tiến hành đánh giá từ sau chiến
tranh lạnh (1991) đến nay.


4

NỘI DUNG ĐỀ ÁN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái luận về quan hệ quốc tế
Hiện nay đã có nhiều định nghĩa về quan hệ quốc tế (international relation),

nhưng tựu trung thì có các định nghĩa sau:
- Quan hệ quốc tế là mối quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền. Mọi
quốc gia đều có quyền quyết định tối cao và tự do. Các quốc gia không ở dưới
một uy quyền nào và đối nghịch với nhau, sử dụng quyền lực để thực hiện các
mục tiêu và thỏa mãn các quyền lực của quốc gia mình. Quan hệ quốc tế có thể
bao gồm nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
- Quan hệ quốc tế là tổng thể những mối quan hệ về kinh tế, chính trị, tư
tưởng, luật pháp, ngoại giao, quân sự…giữa những quốc gia và hệ thống quốc
gia với nhau, giữa các giai cấp chính, các lực lượng tổ chức xã hội, kinh tế và
chính trị chủ yếu hoạt động trên trường quốc tế [7, tr. 26].
- Quan hệ quốc tế là hiện tượng xã hội, song là loại quan hệ xã hội có
đặc điểm riêng nảy sinh trong q trình hoạt động của con người liên quan đến
môi trường quốc tế. Quan hệ quốc tế này vượt khỏi biên giới quốc gia, có những
thay đổi và trở nên vơ cùng phức tạp, bởi trong mơi trường quốc tế có các cơ chế
hoạt động và luật chơi hoàn toàn khác với cơ chế trong nội bộ quốc gia [4].
- Quan hệ quốc tế là tất cả các loại hình trao đổi hoạt động, là đối tượng
quan hệ giữa các quốc gia và giữa các trao đổi của cá nhân.
Mở rộng: Học thuyết Mác - Lênin cho rằng, quan hệ xã hội, trong đó có
quan hệ quốc tế, là do quan hệ vật chất (đó là hình thức kinh tế - xã hội, hiện
tượng xã hội) quyết định ra. Quan hệ quốc tế được tiếp tục trong phạm vi quốc
tế, các mối quan hệ xã hội được tiếp tục trong phạm vị dân tộc, và chính sách
đối ngoại của quốc gia là từ chính sách đối nội mà ra. Hiển nhiên, chính sách đối
ngoại độc lập có tác động trở lại đến chính sách đối ngoại quốc gia (mục tiêu,
chính sách) nhưng theo một mức độ nào đó mà thơi. Động lực chính khiến cho
quan hệ quốc tế xuất hiện đó là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp khác nhau, các


5

quốc gia và các chế độ xã hội khác nhau để giải quyết mâu thuẫn đối kháng giữa

họ với nhau. Tương quan lực lượng các giai cấp, các quốc gia, các tổ chức chính
trị - xã hội khác nhau sẽ quyết định đến quan hệ quốc tế. GS người Nga
Sygankov thì cho rằng, quan hệ quốc tế là loại quan hệ xã hội đặc biệt vượt ra
ngoài quan hệ xã hội bên trong quốc gia. Để làm rõ vấn đề này, ơng đề ra hai
tiêu chí: các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chiến lược đối nội - đối ngoại; vai trò của
người tham gia của nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, đảng phái... Quan hệ
quốc tế thực ra rất đa dạng, nhiều chiều và có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Chúng bao gồm các hoạt động thực tiễn của con người từ chính trị đến kinh tế,
quân sự, thể thao..., do đó quan hệ quốc tế là loại quan hệ đặc biệt.
1.1.2. Đặc điểm và bản chất của quan hệ quốc tế
 Bản chất
Khái niệm quan hệ quốc tế được xem là một phạm trù khoa học, lần đầu
tiên được nhà triết học Anh Jeremy Bentham (1748 - 1832) đề ra vào thế kỷ
XVIII. Quan hệ quốc tế mà ơng nói tới là quan hệ giữa các chính phủ, các quốc
gia. Sau ơng, các nhà khoa học xem xét khái niệm này và tranh luận quyết liệt về
vấn đề họ cho là nhức nhối, đáng quan tâm nhất: Liệu có thể tách quan hệ quốc tế
một cách rành mạch với quan hệ xã hội được không ? R. Aaron, một nhà nghiên
quốc tế người Pháp, khẳng định rằng không thể tách biệt hai quan hệ này được, và
cho biết "bất cứ hiện tượng nào phát triển trong môi trường quốc tế đều là đặc
thù mà không là bản chất". Thời hiện đại, các nhà bác học Liên Xơ, Mỹ ra sức
tìm hiểu kỹ vấn đề này. H. Spykman (Mỹ) đề ra khái niệm "quan hệ giữa các quốc
gia" (quan hệ giữa các nhóm người, tộc người, đại diện các quốc gia). M. Merle
(Pháp) cho rằng quan hệ quốc tế giữa các nước được giải quyết bằng liên lạc,
thơng tin đại chúng. Như vậy có nhiều cách để giải quyết quan hệ, song có 5
phương án sau (gọi là 5 bản chất của quan hệ quốc tế):
- Quan hệ quốc tế là tổng thể quan hệ giữa các diễn viên/người đại diện
tham gia diễn đàn quốc tế, tổng thể về chính sách đối ngoại, quan hệ chính trị,
kinh tế... giữa các nước trên thế giới.
- Quan hệ quốc tế là quyền lực được thể hiện bằng lợi ích quốc gia trong
mơi trường quốc tế, và nó do Trường phái chủ nghĩa hiện thực chính trị đề xuất.



6

Quan hệ quốc tế là quan hệ đối đầu giữa các quốc gia, nhờ sức mạnh, quyền lực
mà thể hiện được lợi ích của mình. Các nước nhờ thế, lực của mình nên nó nắm
vai trị chủ động trong quan hệ quốc tế. Quan hệ quốc tế được thể hiện ở hai cấp
độ: nước mạnh - nước yếu; giữa các đơn vị cơ sở quyền lực.
- Quan hệ quốc tế là quan hệ giữa các cá nhân có quyền lực thông qua các
quyết định về đối ngoại, các cấu trúc mà họ quản lý. Các học giả như Snyder,
Bruck và Sapin cho rằng, nếu muốn hiểu quan hệ quốc tế, trước hết phải nghiên
cứu những người có "hành vi quốc gia", tức là những người đó sẽ biên soạn chính
sách đối ngoại, hay đúng hơn là các quyết định được thơng qua và đưa vào mơi
trường quốc tế và, chính điều đó đã làm thay đổi tình thế trong quan hệ quốc tế.
 Đặc điểm
- Quan hệ quốc tế không có độc quyền. Quyền lực của chính quyền được
luật quốc tế thừa nhận cho phép ràng buộc bất kỳ 1 quốc gia hay 1 tổ chức quốc
tế nào, nghĩa là khơng có một siêu nhà nước nào có thể đứng ra quản lý các quốc
gia như nhà nước trong nội bộ quốc gia. Ta lấy Liên Hợp Quốc làm ví dụ. Trong
tổ chức này (mặc định không gọi là siêu quốc gia), các nước được bình đẳng với
nhau về chủ quyền, bầu cử Hội đồng Bảo an. Ngoài ra, các cường quốc lớn (Mỹ,
Anh, Pháp, Liên Xô...) một thời gian đã chi phối quan hệ, thậm chí quyết định
số phận các nước nhỏ yếu. Ngoài ra, yếu tố tự phát về chính trị ở quốc gia cũng
chi phối nhiều đến quan hệ quốc tế. Nó diễn ra một cách tự nhiên, liên tục và rất
khó dự đốn chính xác chiều hướng xảy ra của nó (vấn đề biển Đơng, chiến
tranh Ả rập - Israel). Quan hệ quốc tế cũng là hệ thống, bao gồm nhiều nhân tố
tác động vào đó, và những cái đó kết hợp vào sẽ hình thành lợi ích quốc gia, sâu
hơn nữa sẽ trở thành những liên minh chính trị mà các quốc gia hướng tới.
- Quan hệ quốc tế là hiện tượng xã hội phức tạp. Tính phức tạp đó gắn
liền với các nhân vật trọng yếu trong quan hệ quốc tế, dẫn đến hình thành quá

nhiều sự hoạt động tương tác phức tạp. Trên thế giới tồn tại nhiều loại diễn viên,
nhân vật đa dạng về số lượng, chủng loại: 192/200 nước tham gia Liên Hợp
Quốc, hàng nghìn tổ chức phi chính phủ, tổ chức chính phủ, khu vực... rất phức
tạp, thậm chí cịn đan xen, chồng chéo về chức năng, hoạt động lẫn nhau, rất
phức tạp. Hơn nữa, quan hệ quốc tế vẫn có thật - giả đan xen rất phức tạp.


7

- Quan hệ quốc tế có tính hệ thống. Tính hệ thống của nó được quy định
bởi quan hệ giữa các diễn viên với nhau và ln trong tình trạng tương tác với
mơi trường quốc tế thì mới xảy ra được. Los Hovak cho rằng cũng giống như
quan hệ xã hội khác, nó khơng hoạt động cố định mà ln bị các nhân vật quan
trọng tương tác lẫn nhau mà thành. Một khía cạnh là tính hệ thống đặc thù, hệ
thống của các hệ thống, quan hệ tồn tại trong biên giới là quan hệ giữa các hệ
thống, hệ thống qua lại giữa các hệ thống vĩ mô, vi mô trên tồn cầu.
- Quan hệ quốc tế có tính tồn cầu. Tất cả các quốc gia, các tổ chức và
các nhóm xã hội đều tham gia vào quan hệ quốc tế. Hiện nay, quan hệ quốc tế
bao gồm cả thế giới, gồm nhiều nước tham gia vào Liên Hợp Quốc, các tổ chức
quốc tế, các q trình tồn cầu hóa, phát triển mạng thơng tin tồn cầu... thành
ngơi nhà chung nhất.
- Quan hệ quốc tế được thể hiện qua mối quan hệ tương tác lẫn nhau
giữa quan hệ đối nội và quan hệ quốc tế. Từ xưa đến nay, nhiều nhà khoa học
cho rằng quan hệ đối nội và đối ngoại ln có quan hệ logic và mật thiết với
nhau. Nhiều người cho rằng, đối ngoại quyết định đối nội, môi trường quốc tế sẽ
quyết định môi trường nội tại. Chủ nghĩa Mác lại phản bác ngược lại, cho rằng
đối nội sẽ quyết định đối ngoại. Đối nội là cái đầu tiên, cái quyết định cho đối
ngoại, sức mạnh quốc gia sẽ quyết định chính sách đối ngoại, xác định khả năng
và lợi ích của quốc gia.
- Quan hệ quốc tế xảy ra tất yếu sẽ phụ thuộc nhiều vào các quan hệ hình

thành trong lĩnh vực kinh tế. Chủ nghĩa Mác hiện đại cho rằng, sự phụ thuộc của
kinh tế từ lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị là tất yếu, và xem quan hệ quốc tế
là biểu hiện liên quan đến dân tộc khác, quốc gia khác mà thôi. Tuy nhiên, nhiều
nhà hiện thực chủ nghĩa đã phản bác lại quan niệm trên. Họ chủ trương rằng lợi
ích kinh tế là một bộ phận của lợi ích dân tộc mà quốc gia phải tính đến trong
trường quốc tế. Bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng, chính trị và kinh tế tác
động qua lại lẫn nhau, kinh tế mạnh sẽ tạo tiềm lực, các phương tiện vật chất
cho quốc gia, ngược lại chính trị thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Quan hệ quốc tế có tính đa ngun văn hóa. Thực vậy, thế giới chúng ta
là thế giới đa dạng về văn hóa. Trong cuốn "Xung đột giữa các nền văn minh",


8

S. Huntington ra danh sách 9 nền văn minh chủ yếu là văn minh phương Tây,
văn minh Mỹ latinh, văn minh đạo Thiên Chúa, văn minh châu Phi, văn minh
đạo Hồi, văn minh đạo Hindu, văn minh Phật giáo, văn minh Trung Quốc và văn
minh Nhật Bản. Ông khi nghiên cứu các nền văn minh đã khẳng định sẽ có sự
xung đột giữa chúng về tư tưởng, văn hóa mà nặng nhất về chính trị, song sự
xung đột như thế nào, ảnh hưởng ra sao thì chưa biết rõ.
- Quan hệ quốc tế sẽ đưa ra các thông tin tương đối chính xác, phục vụ
đắc lực cho các nhà hoạch định chính sách đối ngoại. Nếu có thơng tin đúng thì
họ sẽ hoạch định chính xác, cịn sai thì dẫn đến những hậu quả nặng nề.
1.1.3. Hệ thống quan hệ quốc tế
Hệ thống quan hệ quốc tế là tập hợp các chủ thể quan hệ quốc tế và mối
quan hệ qua lại giữa chúng khi tham gia vào đời sống quốc tế theo một cấu trúc
nhất định. Như vậy, nội hàm của hệ thống quan hệ quốc tế bao gồm: chủ thể và
cấu trúc quyền lực thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể. Theo đó, chủ thể của
hệ thống quan hệ quốc tế phải là những nhân tố tham gia trực tiếp vào các mối
quan hệ quốc tế, có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế và tác

động tới sự phát triển của đời sống quan hệ quốc tế. Do tính phức tạp của quan
hệ quốc tế nên các hệ thống khác nhau thì có những chủ thể khác nhau. Nhưng
nhìn chung quốc gia - dân tộc là chủ thể cơ bản, đầy đủ và quan trọng nhất trong
mọi hệ thống. Còn cấu trúc của hệ thống quan hệ quốc tế là sự phối hợp đồng bộ
(sự sắp xếp theo một thứ tự nhất định tạo thành trật tự thế giới) giữa các thành tố
(các chủ thể) của hệ thống dựa trên sự phân bổ quyền lực. Xét về bản chất, cấu
trúc của hệ thống phụ thuộc vào việc duy trì cân bằng quyền lực giữa các chủ
thể chính -những trung tâm quyền lực (gọi là những chủ thể chi phối trật tự) có
vai trò như một cực trong cấu trúc hệ thống. ‘‘Cực" ở đây không nên hiểu theo
nghĩa "cực" đối kháng, đối đầu theo hướng loại trừ nhau mà hiểu một cách đơn
giản đó là vị trí cấu thành nên trật tự cấu trúc của một hệ thống do một trung tâm
quyền lực chiếm hữu. Đơn giản hơn, "cực" nghĩa là "trung tâm quyền lực".
Để tìm hiểu về cấu trúc hệ thống quan hệ quốc tế, có thể tìm hiểu ở hai
vấn đề: số lượng cực và mơ hình cấu trúc trong hệ thống (cách thức sắp xếp trật
tự theo mơ hình nhất định).


9

Các nhà phân tích quan hệ quốc tế cho rằng, yếu tố quyết định cho sự tồn
tại và hoạt động của quan hệ quốc tế đó là số lượng Cực trong quan hệ quốc tế.
Tiếp cận một cách truyền thống, một cực của hệ thống phải là một quốc gia đơn
độc hoặc một đế chế. Tuy nhiên, trong các hệ thống hiện đại một cực của hệ
thống còn được hiểu là một nhóm các quốc gia hình thành một liên minh hay
một khối. Đó có thể là một tổ chức liên chính phủ (IGO) tồn cầu như UN hoặc
IGO khu vực như EU với điều kiện là các tổ chức này phải có đủ quyền lực và
sự phụ thuộc ở mức độ nhất định từ các quốc gia thành viên của chúng.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế đã từng tồn tại các loại hình trật tự thế giới
với số lượng cực khác nhau sau:
- Trật tự thế giới đơn cực (có một cực) là một trật tự mà ở đó có một siêu

cường duy nhất có sức mạnh vượt trội và tự mình có thể quyết định tất cả các
vấn đề quốc tế mà các quốc gia còn lại dù có hợp lại cũng khơng thể ngăn cản
được siêu cường đó, ví dụ như: thời kỳ đế chế La Mã ở Á - Âu, đó là đế chế
Mơng Cổ thế kỷ thứ 13 ở Á - Âu, là Trung Quốc ở Đông Á… Nguyên tắc trong
trật tự một cực là cực duy nhất chi phối toàn bộ đời sống quốc tế.
- Trật tự thế giới hai cực: là trật tự có hai siêu cường dẫn đầu hai liên
minh tranh giành ảnh hưởng đối với các nước trung lập. Trong lịch sử loài
người, trật tự trong hệ thống Yanta là ví dụ sống động cho loại trật tự này. Hai
cực là Liên Xô và Mỹ với nguyên tắc trong trật tự đó là: cạnh tranh và đối đầu
giữa hai cực.
- Trật tự thế giới đa cực: là trật tự có ít nhất từ ba cường quốc trở lên, có
sức mạnh tương đương nhau. Nguyên tắc là đấu tranh và hợp tác để giải quyết
các vấn đề chung dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho đến nay, trật tự thế giới
đa cực đã tồn tại ở những thời điểm khác nhau trong đời sống quốc tế. Có thể
lấy ví dụ trật tự gần đây nhất là Versailles - Washington được thiết lập sau Thế
chiến thứ nhất và tồn tại ngắn ngủi giữa hai cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong
lịch sử lồi người tính đến năm 2011 (1919 - 1939).
Về mơ hình cấu trúc quyền lực trong quan hệ quốc tế: Trong tài liệu của
John T. Rourke và Mark A. Boyer trong cuốn "World Politics - international politics
on the world stage, Brief", mơ hình cấu trúc quyền lực biểu hiện như sau:


10

Mơ hình cấu trúc quyền lực một cực: các luật chơi là (1) Cường quốc
(nhân tố) trung tâm thiết lập và thực thi các quy định và thống trị quân đội cùng
các công cụ kinh tế. (2) Cường quốc trung tâm giải quyết các tranh chấp giữa
các nhân tố phụ, (3) Cường quốc trung tâm chống lại mọi cố gắng của các nhân
tố phụ để đạt được sự độc lập hoặc quyền tự trị lớn hơn và có thể cố gắng làm
giảm hoặc tiêu diệt quyền tự trị của các nhân tố phụ.

Mơ hình cấu trúc quyền lực hai cực: Sự thù địch gay gắt giữa hai cực là
vấn đề trung tâm của hệ thống hai cực. Vì thế luật chơi là (1) cố gắng xóa bỏ
khối khác bằng cách làm xói mịn nó hoặc tấn cơng tùy từng tính huống cụ thể;
(2) tăng cường sức mạnh trong tương quan với khối còn lại bằng cách cố gắng
kết nạp những thành viên mới vào khối của mình hay cố gắng ngăn chặn các
nước khác gia nhập khối thù địch.
Mơ hình cấu trúc quyền lực đa cực: Luật chơi là: (1) Chống lại bất cứ
một chủ thể nào hoặc liên minh nào có thể có nguy cơ trở thành lãnh đạo. Điều
này cũng là nguyên tắc trung tâm của chính trị cân bằng quyền lực. (2) tốt nhất
là tăng cường sức mạnh và tối đa việc duy trì sức mạnh có thể bằng cách thương
lượng, nhưng cũng có thể bằng cách chiến tranh. (3) nếu xảy ra chiến tranh thì
điều kiện là khơng được ổn định hóa hệ thống bằng cách phá hủy các nhân tố
chủ yếu khác.
Những mơ hình này là những mơ hình thể hiện cơ bản nhất những cấu
trúc của các loại hệ thống quan hệ quốc tế. Tuy nhiên trong lịch sử quan hệ quốc
tế hiện đại, do tính phức tạp và biến đổi khó lường - vốn là đặc tính cố hữu trong
quan hệ quốc tế nên mơ hình cấu trúc của các hệ thống quan hệ quốc tế có sự
linh hoạt về quy mơ và mức độ. Chẳng hạn như cùng là mơ hình đa cực nhưng
mơ hình đa cực trong hệ thống Vienne (sau 1615) khác với mơ hình đa cực trong
hệ thống Versaille - Washington (từ 1919 - 1939) về tính cân bằng trong sức
mạnh của các cực (các trung tâm quyền lực) và tính cơng bằng trong luật chơi và
mức độ tham gia xử lý công việc quốc tế của các chủ thể…
1.1.4. Các hệ thống trong quan hệ quốc tế
Hệ thống quan hệ quốc tế được biết đến đầu tiên theo đúng nghĩa trong
lịch sử hiện đại là Hệ thống Westphalia ra đời gắn liền với Hòa ước Westphalia


11

(1648) và cuộc chiến tranh 30 năm. Cuộc chiến tranh 30 năm là một cuộc chiến

được bắt đầu từ trung tâm Châu Âu. Cuộc chiến này đã khuấy động châu Âu
trong suốt nửa đầu thế kỷ 17 thể hiện sự mâu thuẫn giữa tôn giáo và phong kiến
về việc chia cắt lãnh thổ, ngôn ngữ và sắc tộc. Một mặt, các triều đại gia đình
Thiên chúa giáo đặc biệt là Hapsburgs (triều đại này thiết lập luật ở hầu những
những vùng đất ngày nay là Áo, Séc và Hungary) thiết lập liên minh giữa bản
thân nó với Tây Ban Nha và với Đức Giáo hoàng ở Rome. Mặt khác, những ơng
hồng theo đạo Tin lành ở Đức lại hình thành liên minh với Anh, Hà Lan và
triều đình Pháp theo đạo Tin lành. Xung đột trở thành chiến tranh với sự tàn bạo
và nguy hiểm khủng khiếp lớn hơn rất nhiều những cuộc chiến trong thời kỳ
phong kiến ở châu Âu trước đó và mức độ hủy diệt cũng sự tàn sát được đánh
giá là chỉ kém hai cuộc chiến tranh thế giới của thế kỷ 20 sau đó mà thơi. Hịa
ước Westphalia, đã làm cho châu Âu có nhiều đặc điểm mới (cho ra đời một loạt
các quốc gia mới - chủ thể quan trọng của quan hệ quốc tế bằng cách tách hoặc
sát nhập các quốc gia) và hình thành nên một hệ thống mới trong quan hệ quốc
tế. Đó là một hệ thống cân bằng quyền lực giữa các quốc gia. Tồn tại hơn hai thế
kỷ, các triều đại phong kiến hay liên minh tôn giáo hoặc dân tộc của các quốc
gia cũ và mới của hệ thống được hình thành và làm xói mịn quyền lực của tơn
giáo và phát triển vai trị của quốc gia dân tộc làm cho quốc gia có được quyền
lực lớn hơn.
Tuy nhiên, hệ thống Westphalia là hệ thống chứa đựng nhiều cuộc chiến
tranh, có thể nói từ 1648 tới kỷ nguyên Napoleon, cuộc chiến tranh ở phần lớn
khu vực Tây Âu là cuộc chiến được đặt lên trên cùng trong xã hội. Đó là cuộc
cạnh tranh liên quan tới các triều đại phong kiến để đặt cược cái được gọi là đáp
ứng những nhu cầu của triều đại (lãnh thổ và cơ hội giành tài sản). Có thể khơng
q cường điệu khi cho rằng chiến tranh châu Âu trong suốt thời kỳ này được ví
như một trị thể thao của các vị vua. Sau nhiều cuộc chiến tranh Châu Âu lại
chứng kiến sự lớn mạnh của một chủ thể vốn là một cực trong hệ thống đó là
Pháp. Pháp lớn mạnh với sự xuất hiện và lớn mạnh của Napoleon Bonaparte
cùng tham vọng thống trị châu Âu và thế giới. Châu Âu một lần nữa chìm trong
chiến tranh. Hệ thống bị phá vỡ. Cho đến khi Napoleon Bonaparte bị thua trong



12

trận chiến Waterloo năm 1815. Hệ thống mới được hình thành. Hệ thống Viên
gắn liền với Hội nghị tại Viên sau cuộc chiến tranh chống Napoleon. Đó là một
hệ thống đa cực hòa hợp quyền lực ở châu Âu giữa các cường quốc châu Âu là
Anh, Nga, Đức, Pháp. Trong suốt khoảng một thế kỷ, châu Âu đã ln thích thú
với mục tiêu thống trị toàn cầu. Các quốc gia lãnh đạo châu Âu mở rộng sự kiểm
sốt của mình đối với hầu hết các khu vực trên thế giới, đạt được sự thống trị về
kinh tế và công nghệ và phát triển lực lượng quân sự mạnh nhất.
Trong thập niên của cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, cùng với sự trung
tâm hóa sức mạnh quốc gia và sự tăng trưởng mạnh mẽ sức mạnh quân sự và
thương mại lại càng được phát triển bởi cách mạng công nghiệp, Châu Âu
dường như ở đỉnh cao của thịnh vượng và ảnh hưởng. Nhưng nền tảng cơ bản
của sự thay đổi sâu sắc đã đang được hình thành. Điều này tập trung ở Đức.
Những vùng đất nói tiếng Đức đã được chia thành rất nhiều các lãnh địa khác
nhau. Tuy nhiên, vào năm 1871, Otto von Bismarck, Toàn quyền của Phổ - vùng
lãnh thổ có quyền lực lớn nhất và có sức mạnh quân sự lớn nhất trong các khu
vực của Đức đã hợp nhất các khu vực nói tiếng Đức (ngoại trừ Áo) của châu Âu
lại. Ông ta đã đạt được điều này thông qua sự vận động chính trị khéo léo và
một loạt các cuộc chiến tranh hạn chế chống lại Đan Mạch, Áo và Pháp.
Bismarck vì thế đã tạo ra được một quốc gia đông dân nhất, có nền kinh tế phát
triển và có sức mạnh quân sự lớn nhất ở khu vực Tây và Trung Âu. Từ thời điểm
nước Đức thống nhất cho đến khi nổ ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ I năm
1914, sức mạnh của Đức nhanh chóng lan rộng đến các nước láng giềng. Ví dụ,
dân số của nó tăng từ 40 triệu lên tới 65 triệu người làm cho vị trí của nó đứng
cách xa với các cường quốc khác như Áo - Hung, Anh và Pháp. Ảnh hưởng của
quyền lực Đức đang lên đã chứng minh sâu sắc sự không ổn định của hệ thống
quan hệ quốc tế hiện thời. Vì một điều mà đế chế Đức tìm kiếm lúc này là một

vị trí mạnh hơn trên thế giới ít nhất là cân bằng với đối thủ của nó là Anh và
Pháp. Sau sự ra đi vào năm 1890 của vị lãnh đạo đầy kỹ năng ngoại giao và
khôn ngoan Bismarck, Hoàng đế Wihelm, người cai trị Đức từ gia đình
Hehenzollen ln kiên quyết địi u sách đối với những gì ơng ta coi là khu vực
hợp pháp của Đức trong cấu trúc quyền lực thế giới. Dưới sự cai trị của Hoàng


13

đế Wihelm II, những chính sách của Đức đã khởi động một cuộc chạy đua vũ
trang chủ yếu trong những năm sau năm 1900. Trong q trình đó, thành tựu và
tài sản có được từ cơng cuộc cơng nghiệp hóa của châu Âu đã bị ném ngày càng
nhiều vào việc thiết kế tàu và thần công. Một sự phân cực sâu sắc về quyền lực ở
châu Âu đã bắt đầu hình thành. Sau hàng thế kỷ, châu Âu đã chứng kiến sự cân
bằng nhảy vọt giữa các quốc gia có sức mạnh cạnh tranh (có thể so sánh được)
một cách mạnh mẽ. Và các liên minh thường xuyên phát triển nhằm đối trọng
với bất kỳ quyền lực nào có thể đe dọa nhằm đạt vị trị lãnh đạo lục địa. Từ năm
1905 đến năm 1914, châu Âu đã chứng kiến không chỉ một cuộc chạy đua vũ trang
rộng lớn tại lục địa của mình mà cịn tham gia vào hàng loạt những khủng hoảng
chính trị trên thế giới liên quan đến cuộc chạy đua quyền lực ở Nam Phi đặc biệt là
Morocco và ở Balkans. Xung đột ở Balkans đã châm ngịi cho sự biến động lớn của
thế giới đó là Chiến tranh thế giới I cùng với nó là sự sụp đổ khơng ít hơn 4 đế chế
(Đức, Áo, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ) và sự hủy hoại trật tự châu Âu. Có khoảng 10 triệu
người lính đã bỏ mạng và bản đổ chính trị đã bị xé ra từng mảng. Chiến tranh
thúc đẩy sự sụp đổ của hàng loạt chế độ cũ. Điều này đồng nghĩa với chủ thể
quan hệ quốc tế có sự thay đổi về chế độ chính trị. Hệ thống quan hệ quốc tế
mới được thành lập dựa trên Hội nghị Versaille, đó là một trật tự đa cực mang
tính tồn cầu có sự góp mặt của một nước chưa bao giờ tham gia vào cơng việc
quốc tế đó là Mỹ và sự ra đời của tổ chức chính trị - an ninh lớn là Hội Quốc Liên.
Tuy nhiên, sự tham gia khơng nhiệt tình của Mỹ và sự yếu kém của Hội

Quốc Liên trong việc giữ gìn hịa bình an ninh quốc tế cùng với việc ở Đức chế
độ Weimar bị sụp đổ thay vào đó là Hitler và Đảng Quốc xã lên nắm quyền lực
tháng 1/1933, cộng với việc Anh, Pháp dung túng cho sự tái vũ trang ở Đức,
cuối cùng, sau việc đảm bảo an tồn bằng một hiệp ước khơng xâm lược lẫn
nhau với Liên Xô, Hitler đã bắt đầu chiến tranh vào năm 1939 bằng việc tấn
công Ba Lan. Châu Âu lại bị chìm đắm trong chiến tranh thế giới lần thứ II, và
lần này thì hậu quả lại kinh khủng hơn nhiều.
Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, hệ thống quan hệ quốc tế mới được
xác lập dựa trên các hội nghị quốc tế của phe Đồng minh là Hội nghị ngoại
trưởng ở Moscow (9/1943), Hội nghị 3 nguyên thủ ở Tehran (10/43), đặc biệt


14

các cuộc đàm phán tại Yalta (2/45) và Posdam (7-8/45). Hệ thống mới đã được
đặt tên theo đúng sự sắp xếp quyền lực sau thế chiến thứ hai đó là Hệ thống
Yanta - trật tự tồn tại trong hệ thống là hai cực.
Cho đến năm 1991, vì rất nhiều nguyên nhân nên mơ hình xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xơ và Đông Âu sụp đổ - một cực tan ra, hệ thống khơng cịn tồn
tại. Thế giới chờ đợi một hệ thống quan hệ quốc tế mới. Hệ thống quan hệ quốc
tế mới có cấu trúc như thế nào, mơ hình của nó ra sao vẫn đang là đề tài tranh
luận mang tính thời sự trong giới nghiên cứu về lý luận quan hệ quốc tế. Thực tế
cho thấy vẫn chưa có mơ hình cấu trúc nào nhận được sự đồng thuận của hầu hết
các học giả trên thế giới. Nhưng có thể khẳng định một điều, hai thập kỷ sau khi
Hệ thống Yanta tan rã thì đặc biệt hệ thống quan hệ quốc tế đương đại vẫn đang
trong quá trình hình thành và có lẽ đó sẽ là một hệ thống tồn cầu đa cực, đa
trung tâm khơng đồng đều chưa từng tồn tại trong lịch sử quan hệ quốc tế hiện
đại.trong quan hệ hợp tác với nhau nhằm khai thác khả năng lẫn nhau, phục vụ
cho nhu cầu phát triển kinh tế của mình.
Tồn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm

hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính
tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa
các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hóa và bảo vệ mơi trường,
phịng chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch... Các cơng ty xun quốc gia
tiếp tục cấu trúc lại, hình thành những tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều lĩnh vực
kinh tế. Sự cách biệt giàu nghèo giữa các quốc gia ngày càng tăng.
Tồn cầu hóa nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình
vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của
các nước đang phát triển bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế
cân bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế, các công ty
xuyên quốc gia.
1.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Tình hình quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh
Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông
Âu, điều này đã lam thay đổi một cách cơ bản cục diện thế giới và đời sống quan


15

hệ quốc tế. Những mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chủ nghĩa dân tộc cực
đoan cùng xu hướng ly khai có điều kiện trỗi dậy làm bùng nổ những cuộc xung
đột đẫm máu kéo dài ở một số nơi, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và phát
triển của nhiều quốc gia.
Thế giới khơng cịn sự đối đầu trực tiếp, cục diện thế giới đã hoàn toàn
thay đổi, thay vào đó là một xu hướng phát triển hồn tồn mới. Tuy nhiên,
khơng phải vì thế mà khơng còn sự đấu tranh gay gắt giữa các thế lực trên thế
giới, mà nó chuyển từ dạng này sang dạng khác và hình thức đấu tranh cũng
khơng cịn là đối đầu trực diện, nó chuyển sang hình thức đấu tranh ít ồn ào hơn
mà thôi. Sự sụp đổ của hệ thống lưỡng cực đã đẩy các quốc gia vào hình thức
buộc phải nhìn nhận lại đường lối phát triển và vị thế chiến lược của mình. Sau

khi chiến tranh lạnh kết thúc cùng với sự tan rã của thế giới hai cực. Quan hệ
quốc tế mở ra một thời kì mới đó là xu hướng đa phương hóa, đa dạng hóa. Trật
tự thế giới cũ bị mất đi một trong hai siêu cường, so sánh lực lượng trên thế giới
trên bình diện tồn cầu từ chỗ cân bằng chuyển sang hướng có lợi cho tư bản
chủ nghĩa nói chung và Mỹ nói riêng. Trật tự thế giới đang trong quá trình hình
thành khơng phải là một cực do Mỹ chi phối lãnh đạo nhưng cũng không phải
hẳn là đa cực. Do vậy khi nói đến các trung tâm quyền lực là nói đến thực lực và
mối liên quan giữa các trung tâm này, đó là các nước lớn như Mỹ, EU, Nhật
Bản, Trung Quốc, Nga... Các nước đều xác lập và củng cố những điều kiện quốc
tế có lợi, mở rộng môi trường hợp tác quốc tế, xây dựng cho mình một chính
sách đối ngoại độc lập nhất qn và ít phụ thuộc hơn, trên cơ sở đó xây dựng các
mối quan hệ theo kiểu "bạn bè đối tác chiến lược cân bằng, ổn định và lâu dài "
ở các cấp độ khác nhau. Sự sụp đổ của thế giới hai cực đã dẫn tới một xu hướng
phân chia và tập hợp các lực lượng mới giữa các quốc gia. Do vậy quan hệ giữa
các nước lớn cũng có những điều chỉnh nhanh chóng, quan trọng và sâu sắc. Từ
chỗ mất cân bằng chuyển sang cân bằng hơn, tìm kiếm ổn định, kiềm chế bất
đồng tránh những xung đột mang tính chất đối kháng. Giữa các nước lớn đã
từng bước hình thành các cặp quan hệ đối tác chiến lược. Xu hướng của thế giới
hiện nay theo các học giả cho rằng đó là xu hướng đa cực hóa. Bên cạnh đó các
nước vừa và nhỏ cũng điều chỉnh chính sách đối ngoại cho phù hợp với môi


16

trường quốc tế mới. Tất cả các nước đều có chiều hướng chung là thi hành một
chính sách đối ngoại độc lập theo chiều hướng đa dạng hóa, tập hợp trên cơ sở
lợi ích song trùng, quan hệ tùy thuộc trên nhiều bình diện khác nhau cả về kinh
tế, chính trị cũng như an ninh ngày càng chặt chẽ và đang trở lên phổ biển ở
khắp mọi nơi trên thế giới. Với trào lưu này thì ngày càng ngày nhiều vấn đề
vượt ra ngoài ranh giới của một quốc gia mà khơng thể bằng ngoại giao song

phương có thể giải quyết được.
Chiến tranh lạnh chấm dứt, Mỹ nghiễm nhiên trở thành siêu cường cịn
lại duy nhất, Mỹ có toan tính mới nhằm duy trì trật tự " thế giới một cực", mong
muốn áp đặt mọi chiến lược kinh tế - chính trị - an ninh cho các nước khu vực
và các quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, tham vọng vai trị siêu cường thế
giới duy nhất ln là nhân tố hàng đầu chi phối chiến lược ngoại giao của Mỹ.
Tuy nhiên, có nhiều ngun nhân khiến Mỹ khơng phát huy được sức mạnh của
mình để lãnh đạo thế giới theo một trật tự mong muốn. Thứ nhất, tuy là siêu
cường duy nhất còn lại trên thế giới nhưng điều này khơng có nghĩa là sau chiến
tranh lạnh là thế giới một cực bởi lẽ rất đơn giản là Mỹ khơng cịn đủ sức cả về
kinh tế và chính trị để điều khiển thế giới theo ý muốn của mình. Với xu thế hịa
bình, hợp tác cùng phát triển sau chiến tranh lạnh sức mạnh đó khơng thể sử
dụng được để giải quyết các vấn đề thế giới. Thứ hai, tính độc lập tự chủ của
nhân dân thế giới sau chiến tranh lạnh rất cao, họ khơng dễ gì chấp nhận sự áp
đặt của Mỹ, không chỉ các nước lớn như Nga, Trung Quốc, EU, Nhật Bản mà
ngay cả các nước đang phát triển cũng vậy. Thứ ba, kinh tế Mỹ khơng cịn đủ
mạnh như sau chiến tranh thế giới thứ II, để tài trợ cho vai trò lãnh đạo thế giới
của Mỹ. Song, trong tất cả các chiến lược toàn cầu được đưa ra từ sau chiến
tranh lạnh đến nay thì mục tiêu duy trì, củng cố vị trí siêu cường vẫn là mục tiêu
nhất quán, xuyên suốt không thay đổi.
Chiến tranh lạnh kết thúc chấm dứt sự đối đầu giữa hai cực Xô - Mỹ, đặc
biệt là sự đối đầu về ý thức hệ cũng dần mất đi. Điều này khơng có nghĩa là
khơng cịn cuộc đấu tranh ý thức hệ nữa, nó vẫn tiếp tục diễn ra, nhất là trong
nội bộ của từng nước. Trên phạm vi quốc tế, quan hệ giữa các nước với nhau
không cịn ở vị trí hàng đầu mà nó diễn ra với nhiều hình thức khác nhau, ít bạo


17

lực hơn dưới chiêu bài đấu tranh đòi nhân quyền, dân chủ, đa nguyên đa đảng...

Trong quan hệ quốc tế hiện nay tất cả các quốc gia đều chú trọng xây dựng cho
mình một vị thế mới trên trường quốc tế, chú trọng quan hệ với các nước láng
giềng và khu vực nhằm tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế.
Mơ hình hai cực của hệ thống quan hệ quốc tế bị phá vỡ, Mỹ mất đi một
đối trọng, cũng là đối thủ mạnh trên chính trường quốc tế. Đây là thời cơ cần phải
"chớp lấy" để xác lập một trật tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo. Mỹ cho rằng với
sức mạnh tổng hợp (quân sự, kinh tế, khoa học kỹ thuật, chính trị…) của mình Mỹ
có thể áp đặt mơ hình Mỹ, phổ biến các giá trị và lối sống Mỹ ra khắp mọi nơi trên
hành tinh. Đó là mong muốn và mục tiêu chiến lược nhưng khơng dễ gì được nhân
dân các nước chấp nhận. Sự kiện Mỹ bị khủng bố ngày 11/9/2001 cho thấy chính
sách sử dụng tùy tiện "sức mạnh" của Mỹ đã đưa lại các giá trị phải trả đắt đến như
thế nào. Alechxandor Konovalov trong " những sự kiện vẽ lên khuôn mặt thế kỷ
XX" của thông tấn xã Việt Nam (tài liệu tham khảo đặc biệt 4/1/2001) đã nhận
định "nói chung chính sách của Mỹ đã xuất hiện những triệu chứng của căn bệnh
rất nguy hiểm, mà ta tạm gọi là triệu chứng của nhà khổng lồ cô đơn".
Chiến tranh lạnh kết thúc, nhất là trong giai đoạn hiện nay thì việc chạy
đua vũ trang đã trở lên lỗi thời, thế giới đã và đang thay đổi một cách sâu sắc
theo một xu hướng mới. Hiện nay việc phát triển của tất cả các quốc gia trên thế
giới được đặt lên vị trí ưu tiên hàng đầu và đây cũng là thời kỳ diễn ra mạnh mẽ
q trình tồn cầu hóa và khu vực hóa trên rất nhiều lĩnh vực. Một số hình thức
biểu hiện qua những diễn đàn toàn cầu như Liên Hợp Quốc, WTO… Việc phát
triển nền kinh tế vững mạnh là điều sống cịn với các quốc gia dân tộc, nó quyết
định vị thế của các quốc gia trên trường quốc tế.
Ngày nay tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng, cùng
với xu hướng tồn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Mỹ khơng thể một mình giải
quyết được tất cả các vấn đề trên thế giới, mà ngược lại cần có sự phối hợp của
nhiều nước. Trong bối cảnh đó các cường quốc như Nga, Tây Âu, Nhật Bản,
Trung Quốc đều đang cố gắng vươn lên tạo cho mình một vị thế có lợi hơn,
nhằm chia sẻ quyền lực, chi phối đời sống quan hệ quốc tế. Họ không muốn và
không chịu để cho Mỹ múa cây gậy chỉ huy để khống chế thế giới.



18

Tuy nhiên cho tới thời điểm này thế giới cũng chưa hồn tồn là đa cực
hóa. Một thế giới đa cực hóa đảm bảo phải có sự cân bằng giữa các " cực sức
mạnh". Chưa có một cường quốc nào, một "cực sức mạnh nào" có thể cạnh tranh
được với Mỹ. Cả Nhật Bản, Tây Âu, Liên bang Nga, Trung Quốc đều không thể
chơi đến cùng "một thang âm những nhạc cụ sức mạnh" với Mỹ.
Sẽ là quá cường điệu khi nói rằng thế giới ngày nay ai giàu nhất và làm
bá chủ khoa học kĩ thuật thì người đó sẽ lãnh đạo thế giới, nhưng cần phải thấy
rằng sự lạc hậu về khoa học - công nghệ và chậm tiến về kĩ thuật là nguy cơ
hàng đầu với nền an ninh của tất cả các nước.
Trong xu thế phát triển của thế giới từ sau chiến tranh lạnh, vấn đề kinh
tế là nhân tố hàng đầu đối với sự hưng vong của mỗi quốc gia, dân tộc. Vấn đề
phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu trong chương trình hành động của mình.
Xuất phát từ ba lý do:
- Bất kì chính phủ nào muốn đứng vững và duy trì ổn định chính trị thì
vấn đề hàng đầu là phải cải thiện được đời sống của các tầng lớp nhân dân.
- Muốn mở rộng giao lưu, hội nhập vào cộng đồng quốc tế thì trước hết
phải có lực lượng kinh tế.
- Ngày nay kinh tế đóng vai trị quan trọng trong nền an ninh mỗi nước.
Đặc điểm nổi bật tình hình kinh tế mỗi nước sau chiến tranh lạnh là sự
tăng trưởng tương đối liên tục tuy không cao và chưa thật ổn định. Sau chiến
tranh lạnh kết thúc, kinh tế thế giới trở thành một thị trường thống nhất cùng với
khoa học công nghệ không ngừng phát triển đã giải phóng sức sản xuất của tồn
thế giới. Tương ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
được cơ cấu lại theo hướng liên kết hóa và tồn cầu hóa đã đẩy mạnh quốc tế
giao lưu kinh tế quốc tế, trước hết là thương mại đầu tư, làm cho tính phụ thuộc
nhau về mặt kinh tế giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ trở thành một quy luật

cho sự phát triển. Một nhân tố khác thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế là sự tăng
nhanh của nền (kinh tế thế giới) thương mại thế giới theo hướng tự do hóa. Tuy
nhiên sự phát triển của nền kinh tế thế giới là không đồng đều giữa các nước.
Đây vẫn là một xu thế không thể đảo ngược. Một điều nghịch ký là càng phát
triển thì hố ngăn cách giữa các nền kinh tế thế giới lại càng rộng ra. Sự phát


19

triển của nền kinh tế thế giới diễn ra chủ yếu ở ba trung tâm tư bản lớn là Mỹ,
Nhật và Tây Âu. Quá trình liên kết kinh tế khu vực hoặc đại khu vực cũng chỉ ở
trình độ thấp dưới dạng tự do mậu dịch hay liên minh thuế quan. Đặc điểm nổi
bật nhất trong giai đoạn này là xu thế tồn cầu hóa kinh tế, đây là một xu thế
khách quan. Một quốc gia sẽ không thể phát triển nếu như không mở cửa hội
nhập. Tuy vậy, hội nhập một mặt đón nhận được cơ hội phát triển, song mặt
khác phải đối mặt với hàng loạt thách thức đặt ra. Tồn cầu hóa và khu vực hóa
bên cạnh mặt tích cực thì nó cũng có một số hạn chế, nó làm cho cạnh tranh giữa
các nước và các khu vực trở lên hết sức khốc liệt và có xu hướng dẫn đến chế độ
bảo hộ mậu dịch khu vực. Phần thiệt thịi ln thuộc về những nền kinh tế yếu
kém hơn. Q trình tồn cầu hóa cịn có tác động đến lĩnh vực chính trị, dẫn đến
sự hình thành các tổ chức chính trị quốc tế đặc biệt là Liên Hợp Quốc.
Tồn cầu hóa tạo ra cơ hội lớn cho sự phát triển, nhất là vấn đề kinh tế,
tuy nhiên đó cũng là q trình cho chủ nghia tư bản ni hi vọng riêng của mình
cho tồn cầu: muốn thơng qua tồn cầu hóa buộc các nước phải lệ thuộc vào
mình, tạo nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất độc lập tự chủ của mỗi
quốc gia. Nhưng cũng cần thấy rằng đây là xu hướng tất yếu của kinh tế thế giới,
khi lực lượng sản xuất đã vượt ra khỏi biên giới của mỗi quốc gia. Cùng với sự
phát triển của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật dẫn đến sự thay đổi cơ cấu của
lực lượng sản xuất. Cuộc chạy đua về vốn và khoa học cơng nghệ diễn ra trên
phạm vi tồn cầu. Các nước đấu tranh và hợp tác để cùng tồn tại, mục đích cốt

yếu là có thể phát triển tối đa mức có thể cho nền kinh tế của mình. Đưa nền
kinh tế thế giới sang một bước ngoặt mới, tiếp tục làm thay đổi sâu sắc bộ mặt
kinh tế thế giới và các mối quan hệ quốc tế. Cuộc cách mạng khoa học công
nghệ mà nội dung cơ bản là cách mạng về công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, năng lượng và vật liệu mới… tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao.
Tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật hiện nay phát triển như vũ bão, nó tạo
điều kiện cho tất cả các nước có thể thực hiện được bước nhảy vọt trong việc
phát triển kinh tế và đời sống xã hội theo hướng cơng nghệp hóa - hiện đại hóa,
đồng thời địi hỏi tất cả các nước phải cơ cấu lại nền kinh tế của mình, và ln
đặt tất cả các nước trước nguy cơ tụt hậu, đặc biệt là các nước đang phát triển.


20

Tuy nhiên, khơng ai có thể cưỡng lại được xu thế này. Vấn đề đặt ra là các nước
có nền kinh tế yếu kém hơn là làm thế nào để vượt qua được những thách thức
này, trong khi tận dụng được những mặt có lợi của q trình hội nhập và những
thành tựu của khoa học kỹ thuật, cùng với xu thế tồn cầu hóa thì xu thế hịa
bình, ổn định, hợp tác và phát triển, xu thế đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Mối quan tâm hàng đầu của
các quốc gia trên thế giới là bảo đảm hịa bình và ổn định, độc lập, hợp tác để
phát triển, khắc phục sự bất bình đẳng về chính trị, kinh tế và xã hội. Tồn cầu
hóa khơng có nghĩa là xóa nhịa bản sắc dân tộc, "hịa nhập chứ khơng hịa tan",
khơng có nghĩa là xóa bỏ chủ quyền quốc gia. Điều này thể hiện ý thức tự chủ,
tự lực tự cường của các quốc gia ngày càng cao.
Những nhân tố trên vừa thúc đẩy quá trình điều chỉnh hay đổi mới trong
chính sách đối ngoại của các nước, vừa vạch ra những giới hạn và thách thức mà
các cước phải vượt qua trong khi thực hiện mục tiêu chiến lược của mình. Điều
này thể hiện quá trình điều chỉnh chiến lược của tất cả các nước kể từ sau khi
chiến tranh lạnh kết thúc.

Quan hệ quốc tế trong bất kì giai đoạn nào cũng diễn ra hết sức phức tạp
điều này thể hiện sự biến đổi không ngừng trong quan hệ quốc tế ở mọi thời kì,
mọi lĩnh vực. Mỗi một thời kì, một giai đoạn phát triển, quan hệ quốc tế đều
mang đậm dấu ấn riêng của thời kỳ, giai đoạn. Đặc điểm bao trùm toàn bộ quan
hệ quốc tế thời kì chiến tranh lạnh chủ yếu là cuộc đối đầu Đông - Tây, giữa hai
siêu cường là Liên Xô và Mỹ, là đại diện cho xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa. Bản chất của chiến tranh lạnh là Xô - Mỹ giành giật bá quyền trên phạm
vi toàn cầu, đương nhiên là cả về ý thức hệ. Nhưng nguyên nhân căn bản là phe
nào cũng muốn kiểm soat thế giới theo ý muốn của mình. Sự đụng đầu hai cực
của thế giới diễn ra gay gắt trên mọi phương diện. Sự đối đầu trực tiếp đã đẫn
đến một cuộc chạy đua vũ trang lớn chưa từng có. Sự đối đầu giữa hai cực của
thế giới chi phối toàn bộ đời sống quan hệ quốc tế thơi kì chiến tranh lạnh. Hai
thế lực thù địch ln tìm cách chống mphá nhằm xố bỏ nhau do sự đối lập về
lợi ích, hệ tư tưởng. Một tham vọng xuyên suốt trong tất cả các chính sách đối
ngoại của Mỹ qua mọi thời kì đó là: tham vọng bá chủ thế giới. Với tiềm lực to


21

lớn của Mỹ thì tham vọng đó có thể đạt được, nếu khơng có sự ngáng trở của
một siêu cường lớn mạnh không kém là Liên Xô. Bởi vậy, Mỹ tìm mọi cách để
loại bỏ đối thủ của mình là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, với sự sụp đổ của Liên Xô
và các nước Đông Âu đã dẫn đến chủ nghĩa xã hội thoái trào với sự sụp đổ.
Chiến tranh kết thúc (1991), đã phá vỡ thế đối đầu giữa hai cực, làm thay đổi
hoàn toàn cục diện của thế giới. Chạy đua vũ trang và chiến tranh cục bộ hay
các cuộc đối đầu trực tiếp đã khơng cịn nữa. Các cuộc chạy đua vũ trang, chạy
đua vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học đã trở nên lỗi thời. Các hình thức đối đầu
cạnh tranh trong thời kì chiến tranh lạnh đã được thay thế bằng hợp tác để phát
triển kinh tế. Sau chiến tranh lạnh kết thúc, phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu
cùng với xu thế tồn cầu hố. Chính sách đối ngoại của các nước đưa ra nói

chung là hồ dịu hơn.
1.2.2. Quan hệ giữa các quốc gia trong thời gian qua
 Quan hệ Mỹ - Trung
Quan hệ Mỹ - Trung trong năm 2014 tiếp tục mang đậm đặc trưng "đối
thủ cạnh tranh" xen lẫn "đối tác hợp tác", với điểm nhấn là việc cả hai nước đều
cố gắng không để trục quan hệ có tầm quan trọng nhất trên thế giới này đi vào
thế đối đầu gay gắt, trực diện, vượt tầm kiểm sốt.
Nhân tố cạnh tranh xuất phát từ chính vai trị, vị thế của mỗi nước, nhất
là sự trỗi dậy của Trung Quốc. Sau hơn 30 năm cải cách, mở cửa, Trung Quốc
đã có bước tiến dài, chính thức vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế
giới tính theo sức mua tương đương (PPP) - theo đánh giá của Quĩ Tiền tệ Quốc
tế (IMF).
Quyền lực về kinh tế đi kèm với sức nặng chính trị là tiền đề để quốc gia
đơng dân nhất thế giới vươn mình ra bên ngoài, khẳng định vị thế cường quốc
tầm châu lục và thế giới. Từ bỏ phương châm "giấu mình chờ thời", Trung Quốc
giờ đây khơng ngần ngại nói đến vị thế mới cho riêng mình. Lãnh đạo nước này
đã nhiều lần nói đến khái niệm "châu Á là của người châu Á" mà ẩn đằng sau đó
là vai trị lãnh đạo của riêng Trung Quốc. Sự phát triển này đương nhiên khơng
làm Mỹ - nước tự xem mình là cường quốc duy nhất được thừa nhận trên thế
giới, bằng lòng, vì đó là sự va chạm về mặt quyền lực và quyền lợi.


22

Họp báo chung giữa Tổng thống Obama và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào
Tuy nhiên, cả Mỹ và Trung Quốc đều chủ động "chừa ra" dư địa cho việc
tăng cường hợp tác song phương, khi mà hai nước ràng buộc khá chặt chẽ với
nhau trên nhiều lĩnh vực. Mỹ và Trung Quốc hiện đều là những đối tác kinh tế
lớn nhất của nhau, với kim ngạch thương mại song phương vượt 500 tỉ
USD/năm. Trung Quốc đang nắm giữ một lượng trái phiếu chính phủ Mỹ trị giá

khoảng 1.300 tỉ USD, là "chủ nợ" lớn nhất của Mỹ.
Hơn nữa, Mỹ và Trung Quốc đều cần đến nhau trong nhiều vấn khác như
biến đổi khí hậu, thương mại tồn cầu… Điều đó giải thích tại sao lãnh đạo hai
nước muốn hướng đến một tầm nhìn chiến lược cho quan hệ song phương, tiếp
tục thúc đẩy mơ hình quan hệ nước lớn kiểu mới, không xung đột, không đối
đầu, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác cùng thắng. Đặc biệt, Washington và Bắc Kinh
đã đạt được một loạt những thỏa thuận quan trọng tại cuộc gặp cấp cao bên lề
Hội nghị thượng đỉnh APEC vừa qua ở Bắc Kinh. Nổi bật nhất trong số này là
cam kết tránh đối đầu quân sự tại châu Á, thỏa thuận thương mại về công nghệ
thông tin trị giá 1.000 tỉ USD.


23

 Quan hệ Nga - Trung
Hợp tác Nga - Trung có bước phát triển mạnh trong năm 2014 trên nền
tảng đã được xác lập từ trước. Lãnh đạo hai nước đã có hơn 10 cuộc tiếp xúc cấp
cao, đi liền với đó là việc ký kết hơn 50 văn kiện hợp tác trên tất cả các lĩnh vực.
Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố quan hệ Nga - Trung đang ở giai đoạn
"tốt nhất" trong lịch sử. Hợp tác kinh tế diễn ra sôi động, nổi bật là việc ký kết
hai hợp đồng Nga cung cấp 68 tỉ m 3 khí đốt/năm cho Trung Quốc, trị giá hàng
trăm tỉ USD.
Chuyển động bước ngoặt trong quan hệ Nga - Trung được khơi nguồn từ
việc cả hai bên đều thuận theo quan điểm không chấp thuận một thế giới đơn
cực, ủng hộ cục diện đa cực, mà ở đó Nga và Trung Quốc là cực trung tâm. Đặc
biệt, mối bang giao này có thêm xung lực mới sau cuộc khủng hoảng Ukraine.
Trước việc bị Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) phong tỏa, cô lập về kinh tế thông
qua hàng loạt các lệnh cấm vận, Nga đã đẩy mạnh các bước tiến về phía Đơng
mà ở đó Trung Quốc nổi lên là đối tác đặc biệt quan trọng.


Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình bắt tay Tổng thống Nga V. Putin
hồi tháng 3/2013 tại Moscow
Nga xem Trung Quốc là thị trường tiêu thụ năng lượng chủ chốt, là đầu
mối cung cấp các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu và là nhà "cung cấp vốn" quan


24

trọng cho các dự án, chương trình phát triển kinh tế lớn của Nga, trong bối cảnh
thị trường và nguồn vốn từ các nước phương Tây tiềm ẩn nhiều bất ổn.
Về phần mình, Trung Quốc cũng thu được các lợi ích to lớn trong hợp
tác với Nga. Quan hệ hợp tác với Nga giúp Trung Quốc đẩy nhanh tiến trình hội
nhập Á - Âu, tạo đối trọng trước chiến lược xoay trục của Mỹ sang châu Á Thái Bình Dương. Nó cũng giúp Bắc Kinh có thêm điều kiện thuận lợi để gia
tăng hợp tác quân sự với Moskva nhằm đẩy nhanh q trình hiện đại hóa qn
đội - một nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược "Bốn hiện đại hóa". Trên nền
tảng lợi ích song trùng như vậy, cả Nga và Trung Quốc sẽ có được tiếng nói và
sức mạnh thống nhất trong các thiết chế đa phương để phản đối các biểu hiện
của lối hành xử đơn phương.
Tuy nhiên, được định hình và thúc đẩy bởi yếu tố tình thế nên quan hệ
Nga - Trung có thực sự bền chặt hay không vẫn sẽ là một dấu hỏi lớn.
 Quan hệ Nga - Mỹ
Quan hệ Nga - Mỹ đã rơi xuống mức thấp nhất kể từ sau sự sụp đổ của
Liên Xơ, thậm chí có đánh giá cho rằng hai nước đã tiến đến một cuộc Chiến
tranh Lạnh phiên bản 2.0. Thực trạng này phản ánh một thực tế: Việc chính
quyền Tổng thống Obama tuyên bố "cài đặt lại" quan hệ với Nga hơn một năm
trước đây thực chất chỉ là cách nói mang tính "sáo ngữ".
Rạn nứt giữa Washtington và Moskva thoạt nhìn có ngun nhân sâu xa
từ cuộc khủng hoảng Ukraine, khi mà cả hai đều kiên quyết bảo vệ lợi ích của
mình tại quốc gia có tầm quan trọng chiến lược này. Mỹ và đồng minh phương
Tây ủng hộ phe đối lập Ukraine tiến hành đảo chính lật đổ Tổng thống Viktor

Yanukovych dưới "khẩu hiệu" tăng cường liên kết và hội nhập với châu Âu.
Mục đích chính là tạo lập một chính quyền Kiev thân Mỹ, giúp Washington
vươn tầm ảnh hưởng tới sát nách nước Nga. Đó là điều mà Moskva khơng chấp
nhận, đối đầu Nga - Mỹ vì thế tăng nhiệt.
Thế nhưng, việc Crimea sáp nhập vào Nga suy cho cùng chỉ là "điểm
nút", làm phát lộ những mâu thuẫn tích tụ lâu nay giữa Moskva và Washington.
Quan hệ Nga - Mỹ đã "chết" trước khi nổ ra khủng hoảng Ukraine - như đánh
giá của Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov. Nguyên do chủ yếu là việc hai bên
"thiếu lòng tin, thừa sự nghi ngại".


25

Khả năng trong năm 2015, Nga - Mỹ sẽ tiến hành nhiều cuộc thảo luận
nhằm cải thiện mối quan hệ giữa hai nước.
Làm suy yếu và chia rẽ nước Nga vẫn luôn là mục tiêu nhất quán của
nhiều đời Tổng thống Mỹ. Nó thể hiện qua việc Mỹ đã âm thầm lôi kéo các
nước thuộc không gian hậu Xô Viết gia nhập khu vực ảnh hưởng của phương
Tây, thúc đẩy các phong trào dân chủ trong lịng nước Nga, thơng qua vai trị
của các tổ chức phi chính phủ. Trong thông điệp liên bang 2014, Tổng thống
Putin đã không ngần ngại nói thẳng rằng, hơn một thập kỉ qua Mỹ ln tìm cách
hạ thấp vai trị của Nga trong các vấn đề toàn cầu và "sẵn sàng áp dụng các kịch
bản Nam Tư để chia cắt và làm phân rã nước Nga".
1.2.3. Quan hệ nước lớn kiểu mới trong cục diện chính trị thế giới
hiện nay
Bước vào năm 2014, cục diện chính trị tồn cầu tuy vẫn ổn định, nhưng
cạnh tranh giữa các nước sẽ diễn ra gay gắt, nhất là đối với các nước lớn. Trong
đó, bên cạnh việc "chung sống" với những toan tính, bất đồng, các nước lớn
cũng không quên "nuôi dưỡng" tham vọng, chờ và tận dụng thời cơ để hành
động một cách có lợi nhất.



×