Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

bài thu hoạch khlđ 15.12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.35 KB, 61 trang )

MỞ ĐẦU

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vai trò chủ thể của
con người trong mọi hoạt động, trong đó có đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ
của Đảng. Người khẳng định “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc; muôn việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, “cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, khơng
chạy thì động cơ dù có tốt, dù chạy tồn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những
người đem chính sách của Chính phủ, của đồn thể thi hành trong Nhân dân, nếu
cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”. Đảng phải nuôi
dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây có giá trị. Phải trọng nhân
tài, trọng cán bộ, trọng người có ích cho cơng việc chung. Để làm được điều đó,
Người cũng chỉ ra một số việc sau: Phải biết rõ cán bộ. Phải cất nhắc cán bộ một
cách đúng đắn… Qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo
quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào cơng tác cán bộ và đạt nhiều
thắng lợi quan trọng, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định “đội
ngũ cán bộ ở nước ta đã có bước trưởng thành, phát triển nhiều mặt, chất lượng
ngày càng được nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế…”. Quan điểm đó
tiếp tục được khẳng định tại Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: “Xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Xây dựng nhà nước tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất
lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán
bộ đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và
uy tín ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố
quyết định thành công sự nghiệp xây dựng, xây dựng, phát triển đất nước và bảo
vệ tổ quốc”1.

1 Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng: Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Nxb.
Chính trị quốc gia sự thật. H. 2021, Tr,29.



LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: Công tác xây dựng Đảng
trong nhiệm kỳ Đại hội XII đã đạt được kết quả toàn diện, trong đó nổi bật là:
Đấu tranh ngăn chặn, đầy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống; phòng chống tham nhũng, tiêu cực; sắp xếp tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn
vị hành chính cấp huyện, cấp xã và tinh giản biên chế của hệ thống chính trị; đổi
mới cơng tác cán bộ và ngăn chặn tình trạng chạy chức, chạy quyền; tăng cường
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, xử lý nghiêm những tổ chức đảng và cán bộ,
đảng viên vi phạm, khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ. Kết qủa của cơng tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ qua và nhiệm kỳ Đại hội XII đã góp
phần rất quan trọng để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thể và uy tín như
ngày nay 2. Báo cáo cũng chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên
phong, gương mẫu; tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cịn diễn biến phức tạp.
Tự phê bình và phên bình nhiều nơi cịn hình thức...Do đó Đảng rút ra bài học
kinh nghiệm “Phải thấm nhuần sây sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ
“then chốt” của công tác xây dựng Đảng, có liên quan đến sự sống cịn của Đảng
và vận mệnh của chế độ; cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng. Vì vậy phải đặc biệt coi trọng xây đựng đội
ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu thật sự có đức, có
tài, có uy tín trong Đảng và nhân dân”. Việc nghiên cứu khoa học lãnh đạo sẽ
cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản như: Bản chất và chức năng của
lãnh đạo; Khái quát về khoa học lãnh đạo; Tư duy và tầm nhìn lãnh đạo; Ra
quyết định lãnh đạo đặc biệt là cơ sở khoa học tâm lý để hiểu bản chất, tính quy
luật của những hiện tượng tâm lý thường diễn ra trong hoạt động lãnh đạo như:
nhu cầu lợi ích, bầu khơng khí tâm lý tập thể, xung đột tâm lý,... qua đó giúp cá
2 Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng: Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Nxb.
Chính trị quốc gia sự thật. H. 2021, Tr,128.



nhân vận dụng những tri thức của khoa học lãnh đạo vào hoạt động lãnh đạo tại
cơ quan, đơn vị, tôn trọng và thấu hiểu sự khác biệt giữa các cá nhân trong tập
thể nói riêng và trong cuộc sống nói chung để phát huy thế mạnh, ưu điểm của
cá nhân góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị phát triển. Xuất phát từ những lý do
trên, tác giả lựa chọn chủ đề: “Phân tích những hiện tượng tâm lý xã hội ảnh
hưởng đến hiệu quả lãnh đạo và cách thức tác động đến những hiện tượng
này để nâng cao hiệu quả lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay” là chủ đề của bài thu
hoạch.
II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ, PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Mục đích: Nắm được những hiện tượng tâm lý xã hội: nhu cầu, lợi ích,
bầu khơng khí tâm lý tập thể, xung đột tâm lý, áp lực nhóm, tương hợp tâm lý,
hiện tượng thủ lĩnh, tâm trạng xã hội ảnh hưởng đến hiệụ quả lãnh đạo; vận
dụng hiểu biết đó để có cách thức điều chỉnh các hành vi, tác động đến những
hiện tượng tiêu cực để nâng cao hiệu quả lãnh đạo tại cơ quan, đơn vị.
2. Nhiệm vụ:
Làm rõ các hiện tượng tâm lý ảnh hưởng đến hiệu quả lãnh đạo: Nhu cầu,
lợi ích; Bầu khơng khí tâm lý tập thể; Xung đột tâm lý; Áp lực nhóm; Tương
hợp tâm lý; Hiện tượng thủ lĩnh; Tâm trạng xã hội. Chủ động, tích cực trong
nhận diện và xử lý các tác động tâm lý tiêu cực; Khuyến khích phát huy những
yếu tố tâm lý ở chủ thể lãnh đạo ở đơn vị có ảnh hưởng tích cực đến hành vi và
hiệu quả lãnh đạo.
3. Đối tượng nghiên cứu: Các hiện tượng tâm lý, yếu tố tâm lý ở đối
tượng lãnh đạo.
4. Phạm vi nghiên cứu: Đối tượng trong hoạt động lãnh đạo.
5. Phương pháp nghiên cứu: Bài thu hoạch được thực hiện chủ yếu bằng
phương pháp phân tích, tổng hợp,…
III. ĐĨNG GĨP CỦA BÀI THU HOẠCH
Giúp học viên nhận thức sâu sắc được các hiện tượng tâm lý, yếu tố tâm

lý ở đối tượng lãnh đạo và vận dụng hiểu biết đó để có cách thức điều chỉnh các


hành vi, tác động đến những hiện tượng tiêu cực để nâng cao chất lượng, hiệu
quả lãnh đạo qua đó góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị ngày càng phát triển.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NHỮNG HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ XÃ HỘI ẢNH
HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ LÃNH ĐẠO THEO KHOA HỌC LÃNH ĐẠO
Lãnh đạo là quá trình dẫn dắt gây ảnh hưởng lên người khác nhằm khơi
dậy cảm xúc, động lực và sự cam kết cùng hành động vì mục tiêu chung.
Nhân cách được hiểu là tồn bộ mặt tâm lý - xã hội riêng biệt của cá nhân
với tư cách là một thành viên của xã hội, tồn tại độc lập, có giá trị bản sắc riêng
để lại dấu ấn riêng của mình trong quá trình cá nhân tham gia vào đời sống xã
hội và thực hiện các vai trò xã hội khác nhau.
Nhân cách người lãnh đạo là tổ hợp những đặc điểm, phẩm chất tâm lý
của cá nhân người lãnh đạo, quy định hành vi xã hội, giá trị xã hội và bản sác
của cá nhân đó.
Nhân cách người lãnh đạo là một kiểu nhân cách xã hội đặc thù, là tổ hợp
những đặc điểm, phẩm chất tâm lý phù hợp với yêu cầu đặc trưng của hoạt động
lãnh đạo nhằm bảo đảm cho họ có thể thực hiện thành cơng vai trị và chức năng
lãnh đạo của mình.
Trong quá trình lãnh đạo của mình, người lãnh đạo luôn bị ảnh hưởng bởi
nhu cầu, lợi ích, bầu không khí tâm lý tập thể, xung đột tâm lý,…do vậy, người
lãnh đạo phải hiểu được những hiện tượng tâm lý xã hội đó để có cách thức tác
động phù hợp nâng cao hiệu quả lãnh đạo.
1. Nhu cầu, lợi ích
* Nhu cầu
Nhu cầu là một trạng thái tâm lý của con người, là sự đòi hỏi của cá nhân
hoặc nhóm xã hội muốn có những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển.

Khi xuất hiện nhu cầu, chủ thể ở trạng thái mất cân bằng tâm lý, do đó, chủ thể


muốn tìm cách thiết lập lại sự cân bằng bằng cách thực hiện các hoạt động nhằm
thỏa mãn nhu cầu.
- Đặc điểm của nhu cầu:
Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng. Đối tượng của nhu cầu là “cái” (vật
chất và tinh thần) đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu. Khi chủ thể nhận thức, phát hiện
thấy những đối tượng mà mình có khả năng chiếm lĩnh để đáp ứng lúc đó nhu
cầu mới thực sự trở thành động cơ thơi thúc con người hoạt động để thỏa mãn
nhu cầu.
Nội dung của nhu cầu do phương thức và điều kiện thoản mãn nhu cầu
quy định
Một số nhu cầu ở con người có tính chu kỳ, lặp lại.
Nhu cầu ở con người ln có bản chất xã hội - lịch sử.
- Phân loại nhu cầu:
+ Căn cứ vào đối tượng mà nhu cầu hướng đến, nhu cầu được chia thành
hai loại: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu vật chất là những đòi hỏi về điều kiện vật chất đảm bảo cho con
người có thể tồn tại và phát triển. Nhu cầu tinh thần là sự đòi hỏi các giá trị tinh
thần làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Sự phân loại
này có tính tương đối vì có những nhu cầu vật chất nhưng ẩn chứa trong đó là
nhu cầu tinh thần. Ví dụ, nhu cầu được nhận tiền lương, thưởng đúng với sức lao
động của bản thân đã bỏ ra là một nhu cầu vật chất nhưng cũng là một nhu cầu
tinh thần - nhu cầu về sự công bằng, nhu cầu được tôn trọng, nhu cầu được tự
khẳng định về giá trị sức lao động,…
Nhu cầu của con người có bản chất xã hội nên ngay cả nhu cầu vật chất
của con người cũng mang tính xã hội. C.Mác từng nói về bản chất như cầu ở con
người: “Đói là đói nhưng cái đói được thỏa mãn bằng dao, dĩa và thịt khác với
cái đói được thỏa mãn bằng vuốt và thịt sống”3.

Trong các nhu cầu về tinh thần thì nhu cầu về tình cảm là rất phổ biến và
thiết yếu, nếu khơng được đáp ứng thì cá nhân khó có thể tồn tại với đời sống
3 C. Mác : Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, Nxb.Sự thật, H.1971.


tinh thần lành mạnh. Nhu cầu tình cảm được thể hiện ở mong muốn nhận được
tình cảm yêu thương, tán thành, kính trọng, sự thừa nhận giá trị bản thân. Con
người ln có nhu cầu được làm việc để khẳng định bản thân và được người
khác thừa nhận, đánh giá cơng sức, đóng góp của mình. Nếu khơng được động
viên khen ngợi về những kết quả đã đạt được, họ sẽ cảm thất mọi người khơng
để ý đến mình, dẫn đến thiếu tinh thần hợp tác, thiếu kết nối với nhóm, cơng
việc sẽ kém hiệu quả. Vì vậy, trong cơng việc cần động viên, khuyến khích cấp
dưới kịp thời.
+ Căn cứ vào chủ thể của nhu cầu có thể phân thành hai loại: Nhu cầu cá
nhân và nhu cầu xã hội.
Nhu cầu cá nhân là sự đòi hỏi riêng của cá nhân, xuất hiện khi cá nhân thấy
cần phải có những điều kiện để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của bản thân.
Nhu cầu xã hội là địi hỏi chung của một nhóm xã hội (nhóm nhỏ, tập thể, cộng
đồng, các quốc gia,..) về những điều kiện cần cho sự tồn tại và phát triển của
nhóm. Nhu cầu cá nhân và nhu cầu xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do
đó, người lãnh đạo một mặt vừa phải quan tâm, tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu
chung của nhóm vừa phải quan tâm đến nhu cầu của cá nhân, tạo điều kiện để các
nhu cầu của cá nhân chính đáng nảy sinh, phát triển và được thỏa mãn.
+ Căn cứ vào mức độ cấp thiết của các nhu cầu A.Maslow nêu ra 5 loại
nhu cầu thiết yêu như sau:
Bậc 1: Nhu cầu sinh học
Bậc 2: Nhu cầu an toàn
Bậc 3: Nhu cầu thuộc vào nhóm xã hội
Bậc 4: Nhu cầu được tơn trọng
Bậc 5: Nhu cầu tự khẳng định

Nhìn chung, nhu cầu càng ở bậc thấp hơn trong 5 bậc trên thì càng cấp
thiết hơn. Tuy nhiên, A.Maslow cho rằng trong những tình huống đặc biệt, thứ
bậc về mức độ cấp thiết của 5 loại nhu cầu trên có thể thay đổi (ví dụ như tuyệt
thực để đấu tranh cho lý tưởng, để bảo vệ danh dự bản thân, lao vào nguy hiểm
để cứu người khác,..).


Khi nói đến vấn đề đáp ứng nhu cầu của con người, ln phải quan tâm
đến vấn đề lợi ích.
Lợi ích là điều có ích, có lợi cho một đối tượng nào đó trong mối quan hệ
với đối tượng ấy4. Lợi lích là cái có thể đáp ứng nhu cầu của con người. Chỉ xét
trong mối quan hệ với nhu cầu của cá nhân hay nhóm cụ thể nào đó thì một điều
gì đó mới được xem là có lợi hay khơng có lợi, có ích hay khơng có ích. Chẳng
hạn, đối với một số người thì việc được nhận lượng và thưởng cao là lợi ích,
song đối với một số người khác thì họ lại dành sự quan tâm đến lợi ích về tinh
thần; hoặc một số muốn có địa vị, thích làm cơng việc quản lý thì giao cho họ
một chức trách là mang lợi ích đến cho họ, nhưng với người khơng muốn địa vị
thì lợi ích khơng phải ở vấn đề địa vị.
Vì vậy, lợi ích ảnh hưởng đến hiệu quả lãnh đạo. Khi có lợi ích sẽ làm cho
nhu cầu được thỏa mãn, tạo nên trạng thái hài lịng, tâm trạng tích cực, củng cố,
nâng cao năng lực, hiệu suất làm việc, đồng thời nhu cầu khác ở đối tượng lãnh
đạo bắt đầu hình thành.
- Ảnh hưởng của nhu cầu đến hiệu quả lãnh đạo.
Đối tượng lãnh đạo khi được thỏa mãn nhu cầu sẽ thúc đẩy họ làm việc.
Những nhu cầu thiết yếu được thỏa mãn sẽ có ảnh hưởng tích cực, tạo động lực
để nảy sinh các nhu cầu ở bậc cao hơn.
Nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu tự khẳng định giá trị và năng lực bản
thân là nhu cầu cao nhất trong hệ thức bậc nhu cầu, phản ánh trình độ phát triển
nhân cách chủ thể đó, có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả, năng suất làm việc. Khi
nhu cầu này được tạo điều kiện thuận lợi để đáp ứng có thể kích thích cá nhân,

nhóm làm việc say mê, sáng tạo, đạt thành quả vượt cả mong đợi của người lãnh
đạo. Chính vì vậy trong lãnh đạo điều hết sức quan trọng là cần tác động để hình
thành nhu cầu tự khẳng định giá trị bản thân ở các cộng sự và tạo mọi điều kiện
thuận lợi để các thành viên được đáp ứng nhu cầu này. Bản thân người lãnh đạo
cũng phải là tấm gương về mong muốn tự khẳng định giá trị bản thân.

4 Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb.Đà Nẵng, 2002, tr.587.


Người lãnh đạo cần quan tâm đáp ứng các nhu cầu của các cộng sự một
cách hợp lý; nếu nhu cầu được thỏa mãn một cách dễ dàng có thể sẽ xuất hiện
tâm lý kiêu ngạo hoặc ngược lại, các nhu cầu được thỏa mãn với nhiều thử
thách, quá khó khăn có thể làm cá nhân mất kiên nhẫn, từ bỏ nhu cầu, khơng có
động lực phấn đấu, cống hiến.
- Cách thức nhận diện và tác động đến nhu cầu, lợi ích của đối tượng
lãnh đạo
Người lãnh đạo cần hiểu rõ nhu cầu cấp thiết và lợi ích chính đáng của
các thành viên trong tổ chức, biết tác động vào nhu cầu, lợi ích để họ hoạt động
tích cực hơn. Cần sự nhạy cảm để nhận biết được với cá nhân nào, trong giai
đoạn nào thì nhu cầu nổi trội, cấp thiết nhất của họ là gì, bởi vì nhu cầu biến đổi
theo hoàn cảnh cụ thể của từng cá nhân.
Trên thực tế ln có sự giao thoa, đan xen giữa nhu cầu vật chất và nhu
cầu tinh thần, cần quan tâm, coi trọng các nhu cầu chính đáng cả về vật chất và
nhu cầu tinh thần của đối tượng lãnh đạo.
Trong lãnh đạo ưu tiên đáp ứng nhu cầu theo thứ bậc như A.Maslow nêu
ra. Nhu cầu tự khẳng định là nhu cầu thường trực ở mỗi người khi con người chỉ
khi con người đáp ứng nhu cầu tự khẳng định thì họ mới có động lực để cống
hiến hết mình. Vì vậy, khi làm việc trong tổ chức, các cá nhân ln có nhu cầu
học hỏi, từng bước điều chỉnh để bản thân thích ứng, phù hợp theo những u
cầu, chuẩn mực của tổ chức. Nếu khơng thích ứng được cá nhân có thể gặp các

vấn đề về Stress và thiếu sự liên kết với các thành viên khác, hiệu quả làm việc
kém do mặc cảm, tự ti, cảm thấy không được tổ chức thừa nhận. Do vậy, người
lãnh đạo cần nhận điện được những biểu hiện này từ đó có thể tương tác, hỗ trợ
thành viên đó nhanh chóng thích ứng theo các u cầu của tổ chức, tạo cho các
cá nhân cảm giác an toàn, yên tâm, hăng say làm việc.
Người lãnh đạo không chỉ thụ động tìm hiểu nhu cầu của đối tượng lãnh
đạo mà cần phải khơi gợi, định hướng nhu cầu cho các thành viên sao cho phù
hợp chức năng, nhiệm vụ của tổ chức. Nhu cầu được khơi gợi, định hướng càng


rõ ràng cấp bách thì khả năng ảnh hưởng của người lãnh đạo đến người dưới
quyền ngày càng cao.

2. Bầu khơng khí tâm lý tập thể
Bầu khơng khí tâm lý tập thể là một hiện tượng tâm lý khách quan, tự
nhiên, vốn có trong mơi trường làm việc tập thể, là không gian xã hội chứa đựng
trạng thái tâm lý chung của các thành viên trong tập thể.
* Bản chất của bầu khơng khí tâm lý tập thể thể hiện:
Đó là sự phức hợp tâm lý xã hội trong tập thể, phản ánh tính chất của sự
tương tác giữa các thành viên về mức độ dung hợp các đặc điểm, phẩm chất tâm
lý trong các mối quan hệ liên nhân cách trong tập thể.
Bầu khơng khí tâm lý thể hiện tính chất mối quan hệ qua lại giữa mọi
người trong một tập thể. Mối quan hệ bình đẳng, dân chủ, tơn trọng lẫn nhau sẽ
tạo ra bầu khơng khó tâm lý lành mạnh. Mối quan hệ đố kỵ, nghi ngờ, thiếu tơn
trọng, khơng cơng bằng (nhất là về lợi ích) sẽ hình thành khơng khí căng thẳng.
Bầu khơng khí tâm lý là tâm trạng chính trong tập thể. Tâm trạng của tập
thể có thể thay đổi tuỳ thuộc vào những biến cố, những tác động bất thường từ
bên ngoài vào (tin vui, tin buồn đối với tập thể, có khủng hoảng sảy ra,..) sau
những biến cố bất thường đó, mọi người lại trở về với tâm trạng chính, diễn ra
thường xuyên trong các hoạt động hàng ngày của tập thể (thoải mái, vui tươi hay

lo lắng, buồn bã, sợ hãi,…). Tâm trạng chính đó chính là “bầu khơng khí tâm lý”
bao quanh mỗi thành viên, chi phối rất lớn đến tâm tư, tình cảm, hiệu quả của
cơng việc của các cá nhân và tập thể.
* Bầu khơng khí tâm lý tập thể tích cực có các đặc điểm sau:
- Giao tiếp (việc công, việc tư) diễn ra thoải mái, mọi người cởi mở không
phải e ngại hay giữ ý với nhau.
- Khi hội họp mọi người tích cực phát biểu ý kiến, góp ý trên tinh thần
xây dựng.
- Người lãnh đạo là thủ lĩnh; xích mích nhỏ dễ được giải quyết.


- Các thành viên thích đến cơ quan, nhiệt tình làm việc, khơng có hiện
tượng bất mãn chán nản với công việc hoặc xin chuyển công tác. Người mới đến
nhanh chóng hồ nhập với tập thể.
- Năng suất lao động cao do mọi người tích cực tương tác, hỗ trợ, giúp đỡ
lẫn nhau thực hiện các nhiệm vụ chung của tổ chức.
- Ngồi giờ làm việc mọi người thích gặp gỡ, giao lưu, tiếp xúc với nhau.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến bầu khơng khí tâm lý tập thể:
Phân chia cơng việc, phân phối lợi ích nhất là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất
đến bầu khơng khí tâm lý. Nếu những việc này không được thực hiện một cách
công bằng, hợp lý sẽ ảnh hưởng tích cực đến khơng khí tâm lý trong tập thể;
ngược lại sẽ gây ra những hệ luỵ ảnh hưởng xấu, thậm chí ảnh hưởng nặng nề.
Khối lượng và áp lực công việc: Khối lượng, áp lực quá lớn, vượt quá
nhiều so với khả năng đáp ứng của cá nhân, tập thể tạo nên bầu khơng khí tâm lý
tiêu cực, căng thẳng.
Phong cách lãnh đạo: Phong cách lãnh đạo dân chủ thường tạo nên bầu
không khí tâm lý tích cực. Phong cách lãnh đạo độc đốn thường gây nên bầu
khơng khí tâm lý nặng nề, căng thẳng.
Năng lực của người lãnh đạo: Người lãnh đạo có năng lực giỏi, nhất quán
trong định hướng, chỉ đạo, điều hành thì dễ tạo nên bầu khơng khí tâm lý tích

cực, thể hiện trạng thái tin tưởng, an tâm trong tập thể.
Tính chất các mối quan hệ trong tập thể: Các mối quan hệ tương tác phối
hợp trong công việc được xác lập thoả đáng, khoa học, hợp lý, khơng chồng
chéo, mâu thuẫn nhau thì sẽ tạo thuận lợi cho việc xây dựng bầu khơng khí tâm
lý tích cực.
Tính cách, tính khí của các thành viên: Nếu song song với các quan hệ
công việc, các mối quan hệ tâm lý, tình cảm được người lãnh đạo cùng tập thể
chú ý xây dựng, duy trì và phát triển sẽ có ảnh hưởng tốt đến bầu khơng khí tâm
lý. Trong tập thể có nhiều người tốt, trách nhiệm, dễ đồng cảm và thấu hiểu
người khác dễ tạo lên bầu khơng khí tâm lý tích cực; nếu trong tập thể có nhiều
người ích kỷ chỉ lo vun vén cho lợi ích cá nhân dễ tạo nên bầu khơng khí tâm lý


tích cực. Trong tập thể có nhiểu người tính khí nóng này cũng dễ tạo nên bầu
khơng khí tâm lý căng thẳng.
Điều kiện cơ sở vật chất, yếu tố thẩm mỹ nơi làm việc cũng góp phần làm
nên bầu khơng khí tâm lý của tập thể. Thiếu những điều kiện làm việc thiết yếu,
không gian nơi làm việc chật hẹp, cũng dễ gây lên trạng thái ức chế, khó chịu
nói chung trong tập thể. Do đó, cải thiện điều kiện, môi trường làm việc là
những vấn đề cần được người lãnh đạo hết sức quan tâm để tạo dựng bầu khơng
khí tâm lý tích cực trong tập thể.
* Ảnh hưởng của bầu khơng khí tâm lý ảnh hưởng đến hiệu quả lãnh đạo:
Bầu khơng khí tâm lý tập thể là một trạng thái tâm lý xã hội làm nền cho
các quá trình tâm lý, các hoạt động sống của con người, trong tập thể. Do đó,
bầu khơng khí tâm lý của tập thể, có ảnh hưởng rất quan trọng đến kết quả hoạt
động riêng của mỗi cá nhân cũng như kết quả hoạt động chung của tập thể.
Bầu khơng khí tâm lý của tập thể cịn có thể ảnh hưởng lây lan sang cả
bầu khơng khí tâm lý ở gia đình các thành viên trong tập thể, ảnh hưởng đến
tồn bộ đời sống tinh thần, sức khoẻ của các thành viên. Là trạng thái tâm lý nên
bầu khơng khí tâm lý có thể dễ dàng thay đổi theo thời gian nếu người lãnh đạo

biết khéo léo tác động.
Bầu khơng khí tâm lý của tập thể có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực
đến hiệu quả hoạt động chung giữa các thành viên trong tổ chức. Ảnh hưởng
tích cực tạo hưng phấn và sự gắn kết các thành viên, mọi người có thể làm việc
với năng suất và hiệu quả vượt cả mong đợi của người lãnh đạo. Ngược lại, bầu
khơng khí tâm lý tiêu cực thường xun tồn tại trong tập thể có thể triệt tiêu
động lực làm việc của các cá nhân, làm hao tổn sức khoẻ thể chất và tinh thần
họ, các thành viên thiếu những cam kết để hành động vì tập thể, một số người có
thể vì chán nản đến mức muốn rời tập thể.
* Cách thức tạo ra bầu khơng khí tâm lý tích cực trong tập thể:
Để xây dựng bầu khơng khí tâm lý tích cực tỏng tổ chức, người lãnh đạo
cần tiến hành các biện pháp sau:
Khách quan, chính trực trong đánh giá, khích lệ người dưới quyền.


Sắp xếp và bố trí cơng việc phù hợp với năng lực, vị trí cơng tác, phân
phối lợi ích cơng bằng, theo khản năng lao động dựa trên các tiêu chí rõ ràng
hoặc theo kết quả lao động cụ thể, góp phần tạo nên sự hài hồ trong lao động.
Việc sắp xếp các thành viên vào công việc phù hợp với khả năng sẽ tạo điều
kiện cho cá nhân thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ được giao, giao việc đúng
người, đúng việc là biện pháp quan trong để nâng cao hiệu quả lao động, cá
nhân cảm thấy được tập thể người lãnh đạo tin tưởng, tạo tâm lý tích cực.
Tuỳ thuộc vào mức độ phát triển của tổ chức để người lãnh đạo sử dụng
phong cách lãnh đạo, quản lý phù hợp. Trong trường hợp tập thể mới được hình
thành hoặc đang có những xung đột chưa được giải quyết, người lãnh đạo có thể
sử dụng phong cách độc đốn nhưng khi tập thể đồn kết, có sự thống nhất cao,
lúc này cần sử dụng phong cách lãnh đạo, dân chủ để tạo bầu khơng khí tâm lý
tích cực.
Xây dựng mối quan hệ ứng xử trong tổ chức phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức của tổ chức, thể hiện ở mối quan hệ giữa người lãnh đạo và nhân viên

cấp dưới, mối quan hệ giữa những người lao động với nhau và mối quan hệ giữa
người lao động và cơng việc ln đảm bảo ở trạng thái tích cực, tạo sự tin tưởng,
sự đồng thuận, giúp đỡ nhau.
Điều kiện vật chất, thẩm mỹ tại nơi làm việc cũng như môi trường xung
quanh nơi làm việc của tổ chức cần đảm bảo các điều kiện thiết yếu, tránh để sảy
ra tình trạng đối tượng lãnh đạo phải làm việc trong điều kiện thiếu thốn hoặc
ngột ngạt dễ gây căng thẳng, ức chế, khi đó hiệu suất làm việc sẽ giảm.
3. Xung đột tâm lý
Xung đột tâm lý là một hiện tượng tâm lý diễn ra khá phổ biến trong đời
sống xã hội, trong quá trình hình thành và phát triển các tổ chức. Xung đột tâm
lý là hệ quả của những mâu thuẫn phát triển cao độ, tạo ra trạng thái mất cân
bằng, mất ổn định ở mỗi cá nhân và ở trong nhóm. Có thể định nghĩa như sau:
“xung đột tâm lý là trạng thái diễn ra tranh luận gay gắt hoặc đấu tranh giữa các
cá nhân hoặc nhóm mà mỗi bên thể hiện thái độ phản đối hoặc hành động tìm


cách chống lại quan điểm, mục đích của cá nhân hoặc nhóm kia” (Gary Yukl,
1990)5.
Xung đột tâm lý là những mâu thuẫn gay gắt xuất hiện giữa các cá nhân
trong tổ chức có liên quan đến việc giải quyết các vấn đề khác nhau của tổ chức,
nhất là khi có sự va chạm đến nhu cầu, lợi ích của các bên liên quan.
Xung đột tâm lý trong hoạt động lãnh đạo có thể nảy sinh từ các mâu
thuẫn giữa người lãnh đạo với người dưới quyền, giữa thành viên trong tập thể
lãnh đạo, hoặc giữa các thành viên trong tổ chức với nhau.
Các nhà nghiên cứu thường nhìn nhận nghiêng về khía cạnh tiêu cực của
xung đột và cho rằng xung đột tâm lý thể hiện trạng thái tiêu cực, mất ổn định
trong các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, trong hoạt động lãnh đạo, xung đột
tâm lý có cả xung đột tích cực và xung đột tiêu cực. Xung đột tiêu cực có thể
kìm hãm sự phát triển của tổ chức. Xung đột tích cực như xung đột giữa cái tiên
tiến với các lạc hậu, xung đột giữa cái bảo thủ và đổi mới, trong hoạt động lãnh

đạo có thể khai thác khía cạnh tích cực của xung đột tâm lý để thúc đẩy sự phát
triển của tổ chức. Trong nhiều trường hợp, nhờ có xung đột diễn ra mà người
lãnh đạo tổ chức phát hiện thấy nhiều mâu thuẫn, bất cập cần xử lý, nhiều sự
thay đổi cần sớm thực hiện để “mở đường”, “tạo tiền đề” cho tổ chức phát triển,
cho nên trong một số trường hợp xung đột trở thành động lực thúc đẩy sự phát
triển của tổ chức, vấn đề là người lãnh đạo nhận diện đúng đắn bản chất của
xung đột để kiểm sốt và quản lý xung đột đó.
* Các ngun nhân dẫn đến xung đột tâm lý:
Có nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan dễn đến xung đột tâm lý, trong đó những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
xung đột là:
Sự đụng chạm, xung đột gay gắt về quyền lợi, danh dự và nhu cầu giữa
các thành viên, về phân phối thu nhập, công bằng lợi ích...

5 Yukl, Gary A.:Skill for Managers and Leaders, Prentice-Hall,Inc,. USA, 1990.


Sự không tương xứng giữa phẩm chất, năng lực, uy tín của người lãnh
đạo, quản lý với cương vị, chức vụ được giao sẽ tạo ra sự không đồng thuận, sự
hài hịa về lợi ích, sự tương hợp về tâm lý.
Phong cách lãnh đạo khơng phù hợp với trình độ phát triển của tổ chức.
Quy chế hoạt động của tổ chức không rõ ràng, kỷ luật lao động không
nghiêm minh. Việc xử lý các hành vi vi phạm không đủ sức răn đe hoặc kiêng
nể, thậm chí trong một số trường hợp người lãnh đạo độc đốn khơng tranh thủ
ý kiến hoặc không được sự ủng hộ của đông đảo người dưới quyền.
Mâu thuẫn giữa các thành viên tích cực và tiêu cực, những người có quan
điểm tiên tiến với người có cách nhìn, quan điểm lạc hậu, bảo thủ,...Trong tổ
chức có nhiều phần tử chây lười, cực đoan, dễ bị kích động. Do các thành viên
thiếu hiểu biết, thiếu tin cậy lẫn nhau.
Điều kiện đảm bảo cho hoạt động bình thường của tổ chức khơng đầu đủ,

chẳng hạn như lao động quá vất vả, không đảm bảo các điều kiện an toàn lao động,...
* Ảnh hưởng của xung đột tâm lý đến hiệu quả lãnh đạo:
Trong trường hợp tiêu cực, xung đột gây tác hại rất lớn đến quan hệ giữa
người dưới quyền với người lãnh đạo, giữa các thành viên trong tổ chức, khơng
khí của tổ chức bị phá vỡ. Môi trường làm việc bị đảo lộn làm cho các thành
viên sống trong trạng thái căng thẳng, không có lợi cho sức khỏe thể chất và tinh
thần. Mỗi lần xảy ra xung đột cá nhân vừa mất thời gian để thể nghiệm lại bản
thân, vựa bị ức chế, phân tán tư tưởng trong công việc. Những người bị lôi kéo
vào xung đột sẽ làm việc không tập trung, kém hiệu quả.
Đối với cơ quan, tổ chức, khi xảy ra xung đột tâm lý sẽ dẫn tới các ý kiến
và hành động khơng có sự thống nhất, thiếu sự phối hợp của những người dưới
quyền với người lãnh đạo, giữa các thành viên trong tổ chức. Điều này ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phối hợp giữa người lãnh đạo, đối tượng lãnh đạo có thể
chống đối các quyết định lãnh đạo, nhất là khi mục tiêu của hai bên khơng có sự
tương đồng.
Trong một số trường hợp xung đột có những ảnh hưởng tích cực đến sự
phát triển của tổ chức, những ý kiến phản biện, các tranh luận nhằm đưa ra các


quan điểm mới, cách nhìn mới có tác dụng thúc đẩy tổ chức phát triển. Do vậy,
hoạt động lãnh đạo có thể sử dụng xung đột trong một vài trường hợp nhất định
song chỉ nên sử dụng xung đột trong một vài trường hợp nhất định để đạt được
hiệu quả lãnh đạo tránh hiện tượng để xung đột phát triển đến trạng thái khơng
thể kiểm sốt.
Xung đột tập thể có thể được xem là một chỉ báo về sự bất hợp lý trong
phân công công việc, trong phân phối lợi ích, trong phong cách lãnh đạo, trong
cấu trúc bộ máy hay trong quy trình vận hành của tổ chức. Nó có thể là những
gợi ý để cho người lãnh đạo điều chỉnh bản thân hoặc thiết kế lại tổ chức cho
phù hợp.
* Cách thức nhận diện và xử lý xung đột

Người lãnh đạo cần nhạy cảm để nhận diện được mức độ phát triển của
xung đột tâm lý. Đồng thời, tùy thuộc vào tính chất, mức độ của xung đột để đưa
ra phương án giải quyết thông qua kết hợp các biện pháp khác nhau.
Việc giải quyết các xung đột tâm lý dù ở mức độ nào cũng cần linh hoạt,
mềm dẻo, khách quan và cần tính đến đặc điểm tâm lý của mỗi bên.
* Một số biện pháp phổ biến trong việc giải quyết các xung đột tâm lý:
- Né tránh: Người lãnh đạo có thể lờ đi nếu xung đột không quá căng
thẳng, hậu quả không lớn.
- Can thiệp bằng quyền lực: Người lãnh đạo có thể sử dụng quyền lực
cũng như sử dụng nội quy, quy chế chính thức của tổ chức để ngăn chặn thái độ,
hành vi sai trái, quá khích của các bên, hoặc răn đe kìm chế xung đột ở mức độ
kiểm sốt, chấp nhận được.
- Khuếch tán: Làm dịu các xung đột bằng cách nhấn mạnh những điểm
tương đồng và lợi ích chung của tổ chức và giảm thiểu những khác biệt giữa
người lãnh đạo và người được lãnh đạo. Ngồi ra cịn có thể sử dụng biện pháp
thỏa hiệp, cùng bàn bạc để đạt được sự đồng thuận vì lợi ích chung, từ đó đi đến
thống nhất phương án hành động.
- Kiên trì giải quyết: Có thể dùng biện pháp thuyết phục thông qua giáo
dục ý thức của mỗi bên, làm cho hai bên nhận thức được tác hại của xung đột do


họ gây ra đối với sự phát triển của tổ chức, trên cơ sở đó làm thay đổi nhận thức,
cung cách ứng xử trong mối quan hệ giữa các bên. Có hai cách thuyết phục gồm
thuyết phục cá biệt và thuyết phục đa diện thông qua giáo dục tập thể, dùng ý
chí tích cực của dư luận tập thể.
Nếu xung đột diễn ra giữa hai nhóm cần thuyết phục cá biệt với những thủ
lĩnh khơng chính thức của mỗi bên. Nội dung thuyết phục nhấn mạnh mục đích,
nhiệm vụ, nhu cầu, lợi ích chung của cả tập thể. Dùng ý kiến của cả tập thể hay
thành viên tích cực.
- Tách một bên xung đột ra khỏi tổ chức: Nếu các biện pháp thuyết phục,

hịa giải khơng có hiệu quả, xung đột vẫn căng thẳng, kéo dài gây ảnh hưởng
năng nề đến hoạt động chung của tập thể thì dùng biện pháp luân chuyển hoặc
tách xung đột ra khỏi tổ chức cũ.
Khi xung đột được kiểm soát vẫn cần tiếp tục nắm rõ tâm trạng, hành vi
của mỗi bên vì dư âm trạng thái tâm lý của những người có sự xung đột vẫn tồn
tại và hồn tồn có thể bùng phát trở lại khi có điều kiện thích hợp do vơ tình
hoặc có chủ ý từ những người trong cuộc hoặc do hoàn cảnh tác động. Sửa xung
đột, người lãnh đạo cần chủ động khéo léo xây dựng bầu không khí tâm lý tích
cực để các bên hiểu nhau, thơng cảm, bỏ qua những xung đột đã xảy ra, chủ
động phối hợp với nhau cùng làm việc.
4. Áp lực nhóm
Nhóm là tập hợp những người có mối quan hệ qua lại với nhau trực tiếp
hoặc gián tiếp nhằm thực hiện mục đích chung của nhóm.
Áp lực nhóm là thuật ngữ để mô tả sự thay đổi về suy nghĩ, thái độ, hành
vi của một cá nhân bởi những ảnh hưởng của nhóm. Sự thay đổi tâm lý cá nhân
dưới tác động của áp lực nhóm cịn được gọi là a dua6.
Có hai dạng a dua: A dua bên ngồi và a dua bên trong. A dua bên ngoài là
việc cá nhân chấp nhận áp lực của nhóm một cách hình thức (thực chất trong
thâm tâm khơng đồng tình). A dua bên trong cá nhân chấp nhận một cách hoàn
toàn áp lực của nhóm được xem là cơ chế tâm lý xã hội đặc trưng của con người.
6 Vũ Dũng (Chủ biên): Từ điển tâm lý học, Nxb. Từ điển bách khoa, H.2008, tr.21.


* Đặc điểm của áp lực nhóm:
Dễ tạo ra ở các cá nhân khuôn mẫu hành vi, ứng xử phổ biến của tổ chức.
Áp lực nhóm được coi là sự chi phối tâm lý số đông đến tâm lý của thiểu
số, định hình tâm lý của thiểu số. Mức độ chi phối mạnh hay yếu còn phụ thuộc
vào bản lĩnh, tính độc lập tư duy của cá nhân thiểu số. Những người bản lĩnh
kém, tính độc lập tư duy hạn chế thì dễ a dua theo số đơng hơn.
* Ảnh hưởng của áp lực nhóm đến hiệu quả lãnh đạo

Áp lực nhóm được cá nhân chấp nhận sẽ từng bước trở thành nhu cầu để
cá nhân phấn đấu, trở thành động lực thôi thúc cá nhân nỗ lực làm việc vì tập
thể, đồng thời dễ dàng chấp nhận các quyết định lãnh đạo. Với những áp lực
nhóm tích cực, cá nhân chủ động, tích cực xây dựng hình ảnh bản thân, nỗ lực
làm việc để được số đơng trong nhóm chấp nhận.
Nếu áp lực nhóm có sự mâu thuẫn với nhu cầu, sở thích của cá nhân, nhất
là mâu thuẫn giữa các quyết định lãnh đạo với việc thực hiện nhiệm vụ ở người
lãnh đạo thì các cá nhân sẽ có những phản ứng theo hướng tiêu cực, có thể dẫn
đến sự xung đột.
Với những áp lực nhóm tiêu cực, các cá nhân thiểu số phải từ bỏ ý kiến,
quan điểm, hành vi đúng đắn của mình để nghe theo, làm theo số đơng vì tâm lý
sợ bị nhóm cơ lập. Trong trường hợp này áp lực nhóm gây tác hại đến sự phát
triển của tập thể. Nhóm có thể đi đến các quyết định, hành động sai lầm mà
không ai ngăn cản.
* Vận dụng hiện tượng áp lực nhóm trong hoạt động lãnh đạo
Xây dựng văn hóa tổ chức, tinh thần đồn kết mỗi người vì mọi người,
vì chỉ trên tinh thần đoàn kết các cá nhân mới dễ dàng chấp nhận ý kiến đánh
giá từ những thành viên khác trong tổ chức, thống nhất cao trong hoạt động
của mỗi tổ chức.
Xây dựng nội quy, quy chế hoạt động, kỷ cương của cơ quan, tổ chức chặt
chẽ, các thành viên được thảo luận dân chủ, công khai để mọi người tự giác thực
hiện mà không phải sử dụng các mệnh lệnh hành chính.


Khi muốn thay đổi, điều chỉnh một mệnh lệnh hành chính nào đó trong tổ
chức mà cịn một số ít người chưa đồng tình thì nên đưa vấn đề ra cuộc họp
cơng khai và mời những người đồng tình, ủng hộ phát biểu ý kiến trước, một số
người trong nhóm thiểu số lúc đầu chưa đồng tình sẽ tự thay đổi ý kiến.
Có hình thức khen thưởng, trách phạt rõ ràng, công khai vừa để tạo áp lực
bằng các mệnh lệnh, vừa tạo ra áp lực nhóm lên mỗi thành viên.

5. Tương hợp tâm lý
Tương hợp tâm lý là một khía cạnh trong mối quan hệ liên nhân cách,
biểu hiện sự hào hòa quan hệ giữa các cá nhân trong tổ chức. Có nhiều cách hiểu
khác nhau về sự tương hợp tâm lý.
“Tương hợp tâm lý là sự kết hợp những phẩm chất và năng lực của các
thành viên trong nhóm, bảo đảm cho sự hài lịng cá nhân, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động chung. Sự kết hợp này có thể là tương đương hoặc bổ sung
cho nhau”7.
“Tương hợp tâm lý là khả năng con người tìm kiếm sự hiểu biết lẫn nhau,
điều chỉnh các liên hệ riêng, công việc và khả năng hợp tác”8.
“Tương hợp tâm lý là sự kết hợp thuận lợi nhất các đặc điểm tâm lý cá
nhân của các thành viên trong nhóm đảm bảo cho cơng việc chung cũng như sự
hài lịng cá nhân đều đạt ở mức độ cao”9.
Tương hợp tâm lý có hai đặc điểm cơ bản:
- Sự tương đồng hoặc bù trừ các đặc điểm tâm lý, đảm bảo cho sự phối
hợp công việc giữa các cá nhân trong tổ chức đạt kết quả cao.
Sự tương đồng tâm lý có thể được tạo ra trên cơ sở có sự tương thích hoặc
bù trừ lẫn nhau về các đặc điểm tâm sinh lý. Các cá nhân thường kết hợp tốt với
nhau trong nhóm làm việc khi họ có nhiều điểm giống nhau hoặc có thể bổ sung
những khiếm khuyết của cá nhân này bằng ưu điểm, lợi thế của cá nhân khác để
tạo ra sự hoàn thiện hơn tâm lý của tổ chức. Sự giống nhau giúp các cá nhân dễ
hiểu nhau, dễ đồng thuận. Sự bù trừ giúp các cá nhân vượt qua các hạn chế của
7 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Tâm lý học: Tâm lý lãnh đạo - quản
lý, Nxb.Lý luận chính trị,H.2004.
8 Vũ Dũng (Chủ biên): Từ điển tâm lý học, Nxb.Từ điểm bách khoa, H.2008.
9 Trần Quốc Thành, Nguyễn Đức Sơn: Tâm lý học xã hội, Nxb.Đại học Sư phạm Hà Nội,H.2014.


bản thân để đạt được kết quả cao trong công việc nhờ sự hỗ trợ của người khác,
đồng thời đem lại cảm giác an toàn về tâm lý cho các cá nhân không phải lo lắng

quá mức khi nghĩ đến các yếu điểm của mình.
Tương hợp tâm lý gồm có sự tương hợp về nhận thức, trình độ, năng lực,
tính cách, sở thích, định hướng giá trị và tương hợp về sức khỏe thể chất, tinh
thần, lứa tuổi. Trong tương hợp tâm lý các nhà phân tích quan tâm nhiều đến sự
tương hợp về thế giới quan, nhân sinh quan, mục đích sống, bởi vì những người
có cùng chung chí hướng, lý tưởng, có thế giới quan, nhân sinh quan phù hợp
với nhau dễ bỏ qua các bất đồng nhỏ khác như khác biệt về tính cách, năng
lực,... để cùng nhau hợp tác trong công việc.
* Ảnh hưởng của tương hợp tâm lý đến hiệu quả lãnh đạo
Tương hợp tâm lý có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chung của các
nhóm nhỏ trong tổ chức, do đó, ảnh hưởng đến hiệu quả lãnh đạo, tổ chức.
Sự tương hợp tâm lý càng cao, các cá nhân trong tổ chức càng dễ thống
nhất quan điểm và hành động. Khi có sự tương hợp tâm lý cao, các quyết định
lãnh đạo dễ được cấp dưới tiếp nhận và thực hiện. Những thành viên của các
nhóm làm việc tương hợp với nhau sẽ biết cách phối hợp, hỗ trợ nhau một cách
hiệu quả, hợp lý nhất để cùng hoàn thành nhiệm vụ được giao, ít mất thời gian
để bàn cãi, đùn đẩy, tị nạnh trong cơng việc.
Sự tương hợp tâm lý cịn có ảnh hưởng tích cực đến việc tạo ra bầu khơng
khí tâm lý đoàn kết, tạo cho các cá nhân trong tổ chức sự tin tưởng sẵn sãng hỗ
trợ lẫn nhau, tâm lý hăng hái làm việc.
Ngược lại, khi sự tương hợp tâm lý thấp, khi đó giữa các cá nhân trong tổ
chức, giữa người lãnh đạo với người dưới quyền, giữa các thành viên trong ban
lãnh đạo khơng có sự tương hợp, đồng thuận tập thể dễ mất đoàn kết, quyết định
lãnh đạo, quản lý sẽ khó được ban hành, khi ban hành cũng khó được hưởng
ứng, thực hiện tốt. Điều đó cản trở rất lớn đến động lực, tinh thần làm việc và
nếu để kéo dài tình trạng khơng tương hợp sẽ ảnh hưởng xấu đến việc hiện thực
hóa tầm nhìn của tổ chức.
* Cách thức tạo ra sự tương hợp tâm lý



Người lãnh đạo cần chủ động quan sát đề nhận biết được những thành
viên nào hàng ngày hay trò chuyện, trao đổi với nhau để xác định những thành
viên hợp nhau về quan điểm, tính cách, sở thích hay tương đồng nhau về trình
độ chun mơn, quan điểm tiếp cận vấn đề chuyên môn.
Quan sát hành vi hằng ngày để chẩn đốn khí chất của các thành viên.
Lắng nghe các ý kiến tranh luận, phát biểu trong cuộc họp để nắm bắt
được những cá nhân hay có quan điểm đối lập nhau.
Giao việc cho một số nhóm để quan sát, đánh giá thành viên chủ động
phối hợp với nhau như thế nào.
Nắm rõ các đặc điểm tâm lý của các thành viên, tùy từng nhiệm vụ cụ thể
mà người lãnh đạo phân cơng nhóm làm việc có sự tương đồng, bù trừ lẫn nhau
về mặt tâm lý, thể chất, thói quen, trình độ chun mơn, kinh nghiệm, tuổi tác,...
Giáo dục về thái độ, động cơ, tinh thần trách nhiệm với cơng việc để mọi
người trong tổ chức có quan điểm, ý thức và động cơ làm việc đúng đắn.
Xây dựng văn hóa tổ chức để thống nhất về các giá trị cốt lõi. Khi có sự
đồng thuận về giá trị cốt lõi thì các khác biệt nhỏ dễ được thơng cảm bỏ qua để
hợp tác cùng nhau.
6. Hiện tượng thủ lĩnh
Trong một tổ chức thường xuất hiện những người đứng đầu một hoặc một
số nhóm khơng chính thức (nhóm tự phát) được gọi là thủ lĩnh của nhóm. Sự
xuất hiện của thủ lĩnh do yêu cầu nội bộ của nhóm tự phát, trong đó mọi người
tự nguyện thừa nhận người đứng đầu khơng phải do áp đặt từ bên ngồi, sự thừa
nhận có thể dựa trên uy tín, năng lực, kinh nghiệm, đôi khi cũng dựa trên các
yếu tố tuổi tác.
Như vậy, có thể hiểu hiện tượng thủ lĩnh là sự xuất hiện người đứng đầu
nhóm khơng chính thức (nhóm tự phát), được hình thành do tự nguyện thừa
nhận, suy tơn, tín nhiệm của các thành viên trong nhóm.
* Đặc điểm của hiện tượng thủ lĩnh



Thủ lĩnh là người đứng đầu nhóm hoặc một tổ chức, là người có uy tín,
được những thành viên trong nhóm tự nguyện thừa nhận và là người đưa ra các
định hướng quan trọng về mục tiêu và hoạt động nhóm.
Thủ lĩnh xuất hiện trên cơ sở tự nguyện, có sự suy tơn của các thành viên
trong nhóm mà khơng phải do thể chế, pháp luật thừa nhận. Do vậy, thủ lĩnh
không phải dựa trên các điều luật, các quy định thành văn mà bằng uy tín, bằng
những quy ước nội bộ được nhóm cùng nhau chấp nhận.
* Phân loại thủ lĩnh: Có nhiều cách phân loại khác nhau về hiện tượng thủ lĩnh.
- Căn cứ vào phong cách lãnh đạo nhóm, có thể phân ra 3 loại:
Thủ lĩnh có phong cách độc đốn: Tự quyết mọi vấn đề khơng cần xin ý
kiến của các thành viên trong nhóm.
Thủ lĩnh có phong cách dân chủ: Quyết định dựa trên ý kiến, quan điểm
của các thành viên trong nhóm.
Thủ lĩnh có phong cách pha trộn: Các quyết định của người thủ lĩnh
thường có sự dung hịa giữa phong cách độc đốn và phong cách dân chủ.
- Căn cứ vào đặc điểm hoạt động có 2 loại:
Thủ lĩnh đa năng: Trong mọi tình huống ln thể hiện vai trị là người
đứng đầu và sẵn sàng chịu trách nhiệm.
Thủ lĩnh tình huống: Chỉ đứng đầu trong một số tình huống nhất định.
- Căn cứ vào nội dung hoạt động có 3 loại:
Thủ lĩnh đề xuất: Chỉ nghĩ ra việc để người khác thực hiện mà không trực
tiếp thực hiện.
Thủ lĩnh thực hiện: thực hiện các quyết định của nhóm đưa ra trên cơ sở
nhóm đã bàn bạc và thống nhất ý kiến.
Thủ lĩnh vừa đề xuất vừa thực hiện: Vừa nghĩ ra việc đồng thời vừa là
người tổ chức thực hiện các quyết định nhóm đã thống nhất.
- Căn cứ vào mức độ tham dự vào cơng việc của nhóm, có hai loại:
Thủ lĩnh công khai: Những người được các thành viên trong nhóm cơng
khai suy tơn thừa nhận và họ cơng khai, chủ động thể hiện vai trò thủ lĩnh, đưa
ra các ý kiến, quan điểm trước mọi thành viên.



Thủ lĩnh ngầm: Hiện tượng này chỉ xuất hiện tùy từng tình huống, khơng
cơng khai kàm thủ lĩnh nhưng ai cũng tín nhiệm nghe theo khi thủ lĩnh đưa ra
các quyết định.
* Ảnh hưởng của hiện tượng thủ lĩnh đến hoạt động của tổ chức
Ảnh hưởng của hiện tượng thủ lĩnh đến hoạt động của tổ chức có thể có
hai chiều hướng. Chiều hướng tích cực: Nếu quan điểm, mục tiêu của thủ lĩnh
thuận chiều với quan điểm của người lãnh đạo, khi đó thủ lĩnh sẽ ủng hộ các
quyết định của người lãnh đạo, các thành viên trong nhóm cũng theo thủ lĩnh
ủng hộ người lãnh đạo. Chiều hướng tiêu cực: Quan điểm, mục tiêu của thủ lĩnh
ngược chiều với quan điểm của lãnh đạo, khi đó tổ chức sẽ mất đoàn kết do thủ
lĩnh dễ dàng huy động các thành viên trong nhóm phản đối, khơng hợp tác với
người lãnh đạo. Trong trường hợp này, nhóm có thủ lĩnh chiếm đa số và người
lãnh đạo không kiên quyết thì vai trị của thủ lĩnh sẽ lấn át vai trò của người
đứng đầu, người lãnh đạo sẽ mất vai trò tập hợp và lãnh đạo tổ chức.
* Cách thức sử dụng hiện tượng thủ lĩnh
Trong trường hợp người lãnh đạo và thủ lĩnh có sự tương đồng về quan
điểm thì người lãnh đạo cần khéo léo lơi kéo, phát huy vai trò người thủ lĩnh
trong việc cùng phối hợp tham gia xây dựng tổ chức vững mạnh. Người lãnh
đạo có thể thơng qua thủ lĩnh kêu gọi, huy động các thành viên trong nhóm tích
cực thực hiện nhiệm vụ chung.
Người lãnh đạo cần tranh thủ ý kiến của thủ lĩnh để tìm hiểu, nắm bắt tâm
tư, suy nghĩ của các thành viên trong tổ chức để đưa ra các quyết định lãnh đaọ
phù hợp với nguyện vọng của đa số thành viên.
Trong một số trường hợp cụ thể, chẳng hạn trong lĩnh vực dân tộc, tôn
giáo,... người lãnh đạo là lãnh đạo trong cộng đồng dân tộc ít người, trong cộng
đồng có nhiều người theo tơn giáo,... cần tranh thủ vai trị của người có uy tín để
kêu gọi sự hợp tác giúp đỡ, để tập hợp, đoàn kết nhân dân tham gia vào các hoạt
động chung của tập thể, của cộng đồng.

7. Tâm trạng xã hội
Tâm trạng


Có nhiều quan niệm khác nhau về tâm trạng, trong đó quan niệm: “Tâm
trạng là hình thức biểu hiện của cảm xúc, có cường độ tương đối yếu, thường kéo
dài và mơ hồ, con người không ý thức được rõ ràng các nguyên nhân của nó”10.
Tâm trạng là trạng thái tâm lý tồn tại trong thời gian tương đối dài. Trên
nền trạng thái đó, các hoạt động tâm lý diễn ra. Vì vậy, tâm trạng chi phối mọi
hoạt động trong đời sống cá nhân và xã hội.
Tâm trạng chịu ảnh hưởng của đặc điểm hệ thần kinh của mỗi người, của
cường độ và ý nghĩa các kích thích tác động.
Tâm trạng xã hội
Tâm trạng xã hội là trạng thái xúc cảm của các nhóm xã hội tồn tại trong
một khoảng thời gian nhất định. Cường độ mạnh yếu hay thời gian tồn tại của
tâm trạng xã hội phụ thuộc vào ý nghĩa của tác động đối với cá nhân hay
nhóm11.
Tâm trạng xã hội là trạng thái cảm xúc chung của một nhóm nhỏ (tập thể,
nhóm làm việc,...) hoặc nhóm lớn (cộng đồng, dân tộc, giai cấp,...). Nó xuất hiện
trọng mọi mặt của đời sống xã hội như văn hóa, chính trị, các hoạt động sản
xuất,... thể hiện tâm tư, nguyện vọng của đa số thành viên trong tập thể, cộng
đồng, xã hội.
Tâm trạng xã hội ít bị chi phối bởi yếu tố lý tính mà mang đậm màu sắc
cảm xúc, con người dễ bị cuốn theo những cảm xúc đó.
Đặc điểm tâm trạng xã hội
Tâm trạng xã hội tồn tại trong một thời gian tương đối dài. Hình thành
một cách tự nhiên lên tâm trạng xã hội ít có sự tham gia của lý tính, nhất là ở
giai đoạn khởi đầu.
Mức độ lan truyền của tâm trạng xã hội và sự phản ứng của nhóm xã hội
phụ thuộc vào tính chất của biến cố tác động đến nhóm xã hội. Biến cố càng có

ý nghĩa với cuộc sống của nhóm xã hội càng nhận được sự quan tâm của cá nhân
và xã hội và từ đó dễ hình thành nên tâm trạng chung.

10 Vũ Dũng: Từ điển Tâm lý học, Nxb. Từ điển Bách khoa, H.2008, tr.785.
11 Xem Trần Hiệp: tâm lý học xã hội những vấn đề lý luận, Nxb.Khoa học xã hội,H1996,tr.289.


Tâm trạng xã hội phản ánh trạng thái cảm xúc của các thành viên trong
tập thể, tổ chức hay xã hội trong một giai đoạn nhất định, những trạng thái này
sau đó có thể giảm xuống hoặc có thể gia tăng tùy thuộc vào các kích thích tác
động tiếp theo. Điều này cho thấy, tâm trạng xã hội là một hiện tượng tâm lý rất
cơ động, dễ thay đổi. Nếu nhà lãnh đạo có kỹ năng, nghệ thuật lãnh đạo giỏi thì
có thể khéo léo tác động để điều chỉnh tâm trạng xã hội theo hướng tích cực.
Những yếu tố cơ bản tác động đến tâm trạng xã hội
Những yếu tố bên trong như nhu cầu, lợi ích, thái độ của cá nhân hay tập
thể đối với các giá trị, chuẩn mực,..
Các yếu tố bên ngoài như điều kiện tự nhiên, các yêu cầu của tập thể,
chuẩn mực đạo đức,... Tùy thuộc vào tính chất của sự tác động, ý nghĩa các tác
động đối với cá nhân hay xã hội mà hình thành tâm trạng tích cực hay tâm trạng
tiêu cực.
Kích thích tác động càng liên quan mật thiết nhu cầu, lợi ích của các
thành viên, sự tồn tại và phát triển của nhóm, các giá trị cốt lõi của nhóm xã hội,
thì càng nhanh chóng thu hút sự quan tâm của cá nhân và xã hội, khi đó mọi
người dễ bị cuốn vào tâm trạng chung. Nếu là vấn đề tích cực sẽ huy động được
sự đồng thuận cao, ngược lại gây trạng thái căng thẳng.
Ảnh hưởng của tâm trạng xã hội đến hiệu qủa lãnh đạo
Tâm trạng xã hội ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động
lãnh đạo, những ảnh hưởng có thể theo hướng tích cực hoặc có thể ảnh hưởng
tiêu cực.
Trường hợp tâm trạng xã hội có ảnh hưởng tích cực, con người có thái độ

tích cực, ứng phó linh hoạt trong mọi tình huống, quan hệ giữa các thành viên
trở lên thân thiện, cởi mở và là cơ sở để hình thành tính tích cực cá nhân.. Trên
một nền trạng thái cảm xúc tốt (tâm trạng tích cực) như tâm trạng thoải mái,
nhanh trí, dễ hình thành các liên tưởng khác nhau, dễ khắc phục khó khăn, họ
hầu như khơng thấy mệt mỏi và có khả năng hồn thành cơng việc đến cùng.
Những sự kiện tích cực như nhóm/tập thể/cộng đồng đạt được các thành
tựu vượt trội, hoặc các thay đổi, biến chuyển ở mơi trường bên ngồi gây ảnh


hưởng có lợi cho nhóm xã hội, các chính sách mang lại lợi ích cho đơng đảo
thành viên của nhóm,... sẽ tạo nên các rung động cảm xúc tích cực với cường độ
mạnh mẽ; cảm xúc đó có thể suy yếu dần thành tâm trạng tích cực của cộng
đồng tồn tạo trong nhiều ngày, nhiều tháng. Nhìn chung, nhóm xã hội thường có
tâm trạng tích cực khi nhìn thấy trước niềm vui, nhìn thấy khả năng thỏa mãn
ước vọng vươn tới những gì tốt đẹp hơn của mỗi thành viên.
Trường hợp tâm trạng xã hội ảnh hưởng tiêu cực, cá nhân trở nên bi quan,
tính tích cực giảm sút, dễ lan tỏa những hiện tượng tâm lý tiêu cực giữa các cá
nhân, khơng khí tập thể trở nên căng thẳng. Khi có tâm trạng tiêu cực, tính tích
cực sẽ bị giảm sút rõ rệt, đầu óc suy nghĩ luẩn quẩn, chóng mệt mỏi, dễ đãng trí,
yếu đuối, kém minh mẫn. Những sự kiện tiêu cực như thất bại của nhóm sẽ tạo
nên các tâm trạng tiêu cực. Trong thời đại hiện nay, không chỉ sự kết nối tương
tác với mọi người trong nhóm nhỏ rất nhanh mà sự kết nối tương tác trong nhóm
lớn cũng rất nhanh nên tâm trạng xã hội cũng lan tỏa với tộc độ nhanh, phạm vi
rộng, đòi hỏi người lãnh đạo phải quan tâm kịp thời diễn biến của nó để có ứng
xử phù hợp.
Tâm trạng xã hội tích cực hay tiêu cực đều liên quan rất nhiều đến mối
quan hệ giữa người lãnh đạo với các thành viên. Nếu mối quan hệ này là gắn kết
chặt chẽ, tin tưởng sâu sắc lẫn nhau thì người lãnh đạo có thể điểu khiển, điều
chỉnh để thay đổi tâm trạng cộng đồng, chuyển từ tâm trạng tiêu cực sang tâm
trạng tích cực một cách khá dễ dàng khi người lãnh đạo giỏi về nghệ thuật tác

động cảm xúc.
Cách thức tác động đến tâm trạng xã hội trong hoạt động lãnh đạo
Trước hết người lãnh đạo trong nhóm nhỉ hay nhóm lớn cần chủ động
nhận biết các biểu hiện, diễn biến tâm trạng xã hội trong nhóm mình để có
những giải pháp ứng phó kịp thời trong lãnh đạo. Trong nhóm nhỏ, người lãnh
đạo có thể thơng qua quan sát hành vi, cử chỉ, cách biểu cảm của các thành viên
để dự đoán, cảm nhận về tâm trạng của nhóm. Thơng thường, tâm trạng tích cực
dễ bộc lộ, dễ nhận biết hơn tâm trạng tiêu cực. Trong nhóm lớn, người lãnh đạo
có thể thơng qua dư luận xã hội, theo dõi các trao đổi trên mạng xã hội, qua báo


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×