SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN TÁI SẢN XUẤT XÃ HỘI DO MÁC THỰC
HIỆN TRONG LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ VỚI VIỆC
NHẬN THỨC VẤN ĐỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ HIỆN NAY
Phạm Nguyễn Ngọc Anh – Học viện chính trị
MỞ ĐẦU
Xã hội không thể ngừng tiêu dùng, nên không thể ngừng sản xuất. Do vậy,
bất cứ quá trình sản xuất xã hội nào, nếu xét theo tiến trình đổi mới không ngừng
của nó, chứ không phải xét theo hình thái từng lúc, thì đồng thời đều là quá trình
tái sản xuất. Trong lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại đã có nhiều nhà kinh tế
đề cập đến tái sản xuất xã hội. Tiêu biểu phải kể đến đó là nhà kinh tế người
Pháp F.Quesnay với “biểu kinh tế F.Quesnay” nổi tiếng; Adam.Smith cũng để
lại trong lịch sử tư tưởng kinh tế những đóng góp nhất định về tái sản xuất;David
Ricardo với “lý thuyết thực hiện”; đại biểu kinh tế cổ điển cuối cùng của Pháp
J.Sismondi người đã đưa ra những lời cảnh báo về sản xuất thừa và khủng hoảng
kinh tế…Tuy nhiên người đã tạo nên bước ngoặt cách mạng, khoa học trong
kinh tế chính trị nói chung và trong lý luận về tái sản xuất nói riêng không ai
khác đó chính là Các Mác. Nhà lý luận kiệt xuất của nhân loại đã có những phát
kiến và dự báo thiên tài với những lập luận sắc bén, khoa học, Người đã chứng
minh quá trình khủng hoảng kinh tế dưới Chủ nghĩa tư bản là một tất yếu khách
quan, từ đó vạch ra bản chất và sự tất yếu diệt vong của Chủ nghĩa tư bản – điều
mà các nhà lý luận nói chung và các nhà kinh tế chính trị nói riêng trước đó
không làm được, hoặc không thoát ra được gánh nặng giai cấp của mình.
Vào ngày 5-11-2008, trong lúc viếng thăm trường Kinh tế Luân Đôn
(London School of Economics) nổi tiếng, nữ hoàng Anh Elizabeth II hỏi các nhà
kinh tế hiện diện: “Tại sao không ai tiên đoán được cuộc khủng hoảng tín dụng
1
hiện nay?”. Thật ra câu hỏi của nữ hoàng Anh cũng là câu hỏi của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Nhân loại vừa mới trải qua những ngày
đen tối có tính chu kỳ.
Một lần nữa nghiên cứu lý luận tái sản xuất trong lịch sử tư tưởng kinh tế
để có cái nhìn khách quan, toàn diện với cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay. Với chút ít
tham vọng đó tác giả chọn chủ đề : “Sự phát triển lý luận tái sản xuất xã hội do Mác thực hiện
trong lịch sử các học thuyết kinh tế với việc nhận thức vấn đề khủng hoảng kinh
tế hiện nay” làm nội dung thu hoạch môn học của mình.
NỘI DUNG
Như đã trình bày, trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng kinh tế đã có nhiều
trường phái, nhà kinh tế đề cập đến tái sản xuất xã hội. Đây chính là những tiền
đề về mặt lý luận cho Các Mác kế thừa và phát triển học thuyết về tái sản xuất xã
hội của mình.
Sự phát triển kinh tế vào nửa cuối thế kỷ XVIII ở Châu Âu được chuyển
dần trọng tâm sang sản xuất, vai trò của thương nghiệp bị giảm sút, các lý thuyết
của chủ nghĩa trọng thương bị mất sức thuyết phục, làm xuất hiện cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa trọng thương. Trong điều kiện đó, ở nước Anh ra đời kinh tế
chính trị tư sản cổ điển, còn ở nước Pháp ra đời trường phái trọng nông hay chủ
nghĩa trọng nông, thường gọi là kinh tế chính trị tư sản cổ điển Pháp. Đại biểu
tiêu biểu cho trường phái trọng nông của Pháp đó chính là F.Quesnay – người đã
đặt những viên gạch đầu tiên trong việc xây dựng nên lý luận về tái sản xuất.
Học thuyết này được trình bày tập trung trong “Biểu kinh tế”(1752) và “Phân
tích biểu kinh tế” (1766). Lần đầu tiên trong lịch sử kinh tế chính trị F.Quesnay
đã phân tích quá trình tái sản xuất tư bản xã hội trong một sơ đồ khái quát, giản
đơn nhưng có sức tổng hợp cao, vô số những hành vi lưu thông cá biệt được tổng
hợp lại thành một sự vận động phổ biến (quy luật) có tính chất xã hội. Các Mác
đánh giá rất cao “Biểu kinh tế”, coi đó là tư tưởng thiên tài
2
Để nghiên cứu tái sản xuất trên quy mô toàn xã hội F.Quesnay đã áp dụng
khá thành công phương pháp trừu tượng hóa khoa học. “Biểu kinh tế” được
nghiên cứu trên những giả định sau:
- Chỉ nghiên cứu tái sản xuất giản đơn, bởi như Mác phân tích sau này
nghiên cứu tái sản xuất giản đơn là nghiên cứu yếu tố hiện thực của tích lũy, của
tái sản xật mở rộng
- Lấy tư bản hàng hóa làm điểm xuất phát, sau này Các Mác cũng đã làm
như vậy
- Không tính đến biến động về giá cả ( giá cả bằng giá trị)
- Không tính đến ngoại thương, đây là giả định cần thiết mà sau này
J.Sismondi và phái dân túy Nga đã không hiểu khi phân tích lý luận tái sản xuất
- Tái sản xuất là quá trình thực hiện tổng sản phẩm xã hội cả về hiện vật
và giá trị. Quá trình lưu thông sản phẩm gắn với lưu thông tiền tệ, tiền tệ trở về
điểm xuất phát ban đầu khi hết một chu kỳ tái sản xuất.
- Trao đổi tổng sản phẩm xã hội là sự trao đổi giữa ba giai cấp: Giai cấp sở
hữu, giai cấp sản xuất, giai cấp không sản xuất
- Giá trị tổng sản phẩm xã hội gồm 7 tỷ Frăng, trong đó 5 tỷ là sản phẩm
nông nghiệp, 2 tỷ là sản phẩm của giai cấp không sản xuất. Trong 5 tỷ sản phẩm
nông nghiệp có :( 1 tỷ để bù đắp tư bản ứng trước đầu tiên, 2 tỷ để bù đắp khoản
ứng ra hằng năm, 2 tỷ sản phẩm thuần túy nộp cho giai cấp sở hữu )
- Trong 2 tỷ sản phẩm công nghiệp có ( 1 tỷ bù đắp hao phí nguyên vật
liệu, 1 tỷ bù đắp tư liệu tiêu dùng)
- Để lưu thông 7 tỷ sản phẩm trên, giai cấp sản xuất có 2 tỷ tiền mặt với tư
cách là tiền tô để trả cho giai cấp sở hữu
3
“ Biểu kinh tế” của F.Quesnay phân tích quá trình vận động của tổng sản
phẩm xã hội trong tái sản xuất giản đơn được thể hiện thông qua 5 hành vi:
+ Hành vi 1: Giai cấp sở hữu dùng một tỷ tiền tô để mua nông phẩm của
giai cấp sản xuất, vậy là một tỷ nông phẩm ra khỏi lưu thông và đi vào tiêu dùng
của giai cấp sở hữu
+ Hành vi 2: Giai cấp sở hữu dùng một tỷ tiền tô còn lại để mua một tỷ
hàng công nghệ của giai cấp sản xuất, vậy là một tỷ trong hai tỷ sản phẩm công
nghiệp đi vào tiêu dùng của giai cấp sở hữu.
+ Hành vi 3: Sau khi nhận một tỷ tiền của giai cấp sở hữu, giai cấp không
sản xuất đem tiến đó mua tư liệu sinh hoạt ( nông phẩm) của giai cấp sản xuất.
Như vậy giai cấp sản xuất đã thực hiện được 2/5 số sản phẩm của mình.
+ Hành vi 4: Giai cấp sản xuất dùng một tỷ tiền vừa thu được để mua
TLSX của giai cấp không sản xuất, vậy là giai cấp không sản xuất đã thực hiện
xong hai tỷ công nghệ phẩm
+ Hành vi 5: Giai cấp không sản xuất dùng một tỷ tiền vừa nhận được để
mua nguyên liệu của giai cấp sản xuất.
Kết quả 5 hành vi trên là giai cấp sản xuất đã bán được 3 tỷ nông phẩm, 2
tỷ còn lại dùng để bù đắp chi phí hằng năm( tư bản lưu động) và thu về được 2 tỷ
tiền mặt để trả cho giai cấp sở hữu với tư cách tiền tô. Và như vậy quá trình tái
sản xuất năm sau đã đầy đủ các yếu tố để diễn ra một cách trôi chảy…
“Biểu kinh tế” được đánh giá là một trong những cống hiến to lớn đối với
lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại. khi nhận xét về “Biểu kinh tế” C.Mác đã
khẳng định những công lao to lớn của F.Quesnay đó là:
4
- Đã sử dụng khá thành thạo phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Đã
đưa ra những giả định cơ bản là đúng vì chỉ trên cơ sở những giả định đó mới
nghiên cứu quá trình tái sản xuất tư bản xã hội
- Đã phân tích sự vận động của tổng sản phẩm xã hội trên cả hai mặt giá
trị và hiện vật, nghiên cứu sự vận động của sản phẩm kết hợp với sự vận động
ngược chiều của tiền tệ.
- Phân tích sự lưu thông tiền tệ phải theo quy luật tiền bỏ vào lưu thông
phải quay về điểm xuất phát ban đầu, vì nếu tiền không quay về điểm xuất phát
ban đầu thì quá trình tái sản xuất sẽ không diễn ra
Mặc dù có những đóng góp to lớn cho sư phát triển của khoa học kinh tế
song “Biểu kinh tế” của F.Quesnay cũng còn bộc lộ một số hạn chế :
- Gán cho giai cấp sở hữu một chức năng kinh tế là tạo ra cú huých đầu
tiên để quá trình thực hiện tổng sản phẩm xã hội được tiến hành( dùng tiền tô để
mua hàng của giai cấp không sản xuất và sản xuất)
- Phân chia xã hội thành ba giai cấp trên cơ sở lý luận của sản phẩm thuần
túy là không đúng. Ông cho rằng chỉ có lĩnh vực nông nghiêp là lĩnh vực sản
xuất còn các lĩnh vực khác là lĩnh vực không sản xuất. Khái niệm giai cấp không
sản xuất của ông rất tầm thường và không khoa học. Ông cũng cho rằng toàn bộ
sản phẩm thuần túy tiêu dùng hết nên không thể tái sản xuất mở rộng được. Điều
này gián tiếp F.Quesnay cho rằng dưới CNTB không có khủng hoảng kinh tế, và
như thế CNTB tồn tại vĩnh viễn như là xã hội cuối cùng trong lịch sử. Một cái
nhìn thiển cận, bảo thủ trì trệ của chủ nghĩa trong nông nói chung và của
F.Quesnay nói riêng.
5
- Không thấy được sự trao đổi trong nội bộ ngành công nghiệp, công
nghiệp không tiêu dùng sản phẩm của mình cũng như không bù đắp chi phí tư
liệu sản xuất của mình. Do vậy, họ không thể tái sản xuất.
Mặc dù vẫn còn tồn tại những hạn chế song “ Biểu kinh tế” được coi là
khởi thủy của học thuyết tái sản xuất tư bản xã hội mà sau này C.Mác tiếp tục
nghiên cứu phát triển. Cũng trên cơ sở học thuyết tái sản xuất của mình chủ
nghĩa Mác - Lê nin đã khẳng định rõ những mâu thuẫn của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa chỉ ra sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản.
Một nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển khác cung khá nổi tiếng với lý
thuyết về bàn tay vô hình đó chính là Adam Smith (1723-1790). Ông cũng đã dề
cập đến lý luận về tái sản xuất. Adam Smith một nhà kinh tế chính trị tư sản cổ
điển Anh. Các.Mác đã phân tích một cách sâu sắc phương pháp luận của Adam
Smith đó là phương pháp hai mặt: Một mặt, Adam Smith đi sâu tìm hiểu bản
chất bên trong của các hiện tượng, quá trình kinh tế, vạch rõ mối liên hệ bên
trong của chế độ tư bản, tìm hiểu những quy luật vận động của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa; mặt khác, ông vẫn thường dùng phương pháp mô tả , liệt kê, thuất
lại bằng khái niệm có tính chất công thức những biểu hiện bề ngoài của đời sống
kinh tế và do đó cũng thường dẫn đến những kết luận phi lý tầm thường. Hai
phương pháp này của Adam Smith luôn sống bên nhau, quyện chặt vào nhau và
thường xuyên mâu thuẫn với nhau. Vì vậy mà lý luận của ông thường có mâu
thuẫn, thiếu nhất quán. Phương pháp luận có tính hai mặt vừa khoa học, vừa tầm
thường của Adam Smith có ảnh hưởng tới kinh tế học tư sản sau này.
Vế lý luận tái sản xuất, Adam Smith dựa trên cơ sở lý luận về giá trị lao
động để xây dựng lý luận tái sản xuất, song cho rằng giá trị của hàng hóa bao
gồm các thu nhập: tiền lương, lợi nhuận. địa tô. Theo ông tiền lương, lợi nhuận,
6
địa tô là ba cái nguồn ban đầu của bất cứ thu nhập nào tổng giá trị trao đổi hay
giá cả của sản phẩm hàng năm, nhất thiết phải chia thành ba bộ phận đó”. Như
vậy tổng giá trị của hàng hóa chỉ có V+m, chỉ bằng giá trị mới sáng tạo ra, còn
bộ phận giá trị cũ tham gia vào quá trình sản xuất đã bị Adam Smith loại ra khỏi
giá trị của hàng hóa. Ông coi giá trị của TLSX nằm trong tiền lương, lợi nhuận
và địa tô. Sai lầm của Adam Smith là ông đã lẫn lộn toàn bộ giá trị của sản phẩm
với giá trị mới sáng tạo ra; ông không thấy được tính hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa, không thấy được sự dịch chuyển giá trị cũ và sự sáng tạo ra giá trị
mới. Adam Smith đã đã vấp phải vấn đề cần phải phân biệt trong lý luận, đó là
hai hình thức lao động, một thứ cung cấp vật phẩm tiêu dùng, còn một thứ cung
cấp những sản phẩm không phải để tiêu dùng (máy móc, công cụ). Lê nin cho
rằng, chỉ cần tiến một bước nữa là thừa nhận hai hình thức tiêu dùng. Tiêu dùng
cho cá nhân và tiêu dùng cho sản xuất. Như vậy Adam Smith đã cò một bước
tiến dài so với những người trước ông. Ở ông đã có mầm móng thiên tài về sự
phân chia nền sản xuất thành hai khu vực. Chính C.Mác đã bắt gặp “gợi ý” của
Adam Smith và đã phát triển lên thành một lý luận đặc sắc về sự thực hiện sản
phẩm xã hội trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Về tái sản xuất mở rộng Các Mác
đánh giá cao Adam Smith đã phân biệt được tích lũy và cất trữ, tích lũy thì phải
dành một phần giá trị thặng dư để thuê thêm công nhân. Luận điểm này của
Adam Smith nói rõ nguồn gốc của tích lũy tư bản là lao động. nhưng ông đã
phạm sai lầm cho rằng việc tích lũy tư bản chỉ là việc biến giá trị thặng dư thành
tư bản khả biến phụ thêm, không có tư bản bất biến phụ thêm.
Lý luận về tái sản xuất của Adam Smith đã đề cập đến sản phẩm – chia
làm hai nhóm TLSX và TLTD, giá trị sản phẩm gốc gồm có C+V+m phân chia
nền sản xuất xã hội hai khu vực nhưng lí giải đầy đủ, đúng đắn những vấn đề này
7
phải chờ đến Mác mới giải quyết được. Có thể nói công lao to lớn nhất của
Adam Smith là đaã đưa khoa học kinh tế chính trị thành một hệ thống.
David Ricardo là một đại biểu kiệt xuất của khoa kinh tế chính trị tư sản.
Các Mác coi ông là người đã hoàn thành lý luận của trường phái kinh tế chính trị
tư sản cổ điển. Ông là nhà tiền bối lớn nhất của Mác.
David Ricardo sống trong thời kỳ hoàn thành cách mạng công nghiệp ở
Anh. Đó chính là điều kiện khách quan làm cho việc nghiên cứu của ông vượt
qua được giới hạn mà AdamSmith dừng lại. Thế giới quan của ông có tính duy
vật, tuy nhiên chủ nghĩa duy vật của ông là chủ nghĩa duy vật máy móc. Là tư
tưởng gia của giai cấp tư sản công nghiệp, David Ricardo coi khát vọng tăng thu
nhập của giai cấp tư sản là một tiêu chuẩn kinh tế (ông xuất thân từ một người
buôn chứng khoán), ông ít quan tâm đến lợi ích và vận mệnh của giai cấp vô sản
và cho rằng phương thức sản xuất phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là
phương thức có ợi nhát để tạo ra của cải. Ông đã có những giả định đúng, xem
tiêu dùng là do sản xuất quyết định, muốn tái sản xuất mở rộng thì phải làm cho
sản xuất vượt quá tiêu dùng. Sản xuất phát triển sẽ tạo ra thị trường
Theo ông phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có hai mâu thuẫn chi
phối đó là: tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm trong quá trình tích lũy tư bản và
mâu thuẫn về kinh tế giữa các giai cấp trong xã hội. Ông không nhận thấy những
mâu thuẫn khác bắt nguồn từ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. David
Ricardo phủ nhận khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản, ông khẳng định
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng phổ
biến, vì lượng cầu thường là những lượng cầu có khả năng thanh toán. Lượng
cầu đó được củng cố thêm bằng lượng cung hàng hóa và “ sản phẩm bao giờ
cũng được mua bằng sản phẩm hay bằng những sự phục vụ, tiền chỉ làm thước
8
đo khi thực hiện sự trao đổi đó”. Ông chỉ thừa nhận khủng hoảng sản xuất thừa
cá biệt loại sản phẩm này hay loại sản phẩm kia, nhưng chủ nghĩa tư bản có thể
điều chỉnh được mất cân đối chỉ là tạm thời.
Lý luận về thực hiện tổng sản phẩm xã hội của David Ricardo là điểm yếu
nhất trong học thuyết kinh tế của ông. Ông chưa tiến lên một bước nào so với
các nhà kinh tế trước đó. Ông mất năm 1823 nên không được chứng kiến cuộc
khủng hoảng sản xuất thừa đầu tiên của chủ nghĩa tư bản diễn ra năm 1825. Mác
viết “lịch sử có thể tha thứ cho ông”
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra
mạnh mẽ, dẫn đến sự thay đổi đáng kể về kinh tế xã hội ở các nước tư bản Tây
Âu. Giai cấp tư sản và vô sản trở thành các giai cấp cơ bản của xã hội tư bản.
Sản xuất bằng máy móc ra đời, làm cho sự phụ thuộc của công nhân vào nhà tư
bản từ hình thức trở thành thực tế. Cạnh tranh vô chính phủ, phân hóa giai cấp,
sự bần cùng hóa và thất nghiệp của giai cấp vô sản ngày càng tăng. Học thuyết
kinh tế tiểu tư sản xuất hiện mà đại biểu tiêu biểu phải kể đến đó là S.Sismondi.
Mác coi J.Sismondi là đại biểu kinh tế cổ điển cuối cùng của Pháp.
J.Sismondi cho rằng mục đích của sản xuất là tiêu dùng: sản xuất phải
phù hợp với thu nhập và thu nhập phải phù hợp với tiêu dùng chính vì vậy sản
xuất phải phù hợp với tiêu dùng; nếu sản xuất vượt quá tiêu dùng (tiêu dùng
không đầy đủ) thì một bộ phận hàng hóa sẽ không thực hiện được giá trị nên dẫn
đến khủng hoảng kinh tế. Khác với quan điểm của Ricardo ông cho rằng khủng
hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản là tất yếu khách quan chứ không phải cục bộ
ngẫu nhiên. Chính vì vậy J.Sismondi đã đi tìm nguyên nhân của khủng hoảng
kinh tế. Ông đưa ra tiền đề lý luận, tiêu dùng đóng vai trò quyết định sản xuất,
nhu cầu quyết định sản xuất, sản xuất tư bản chủ nghĩa tách rời nhu cầu vì sản
9
xuất phụ thuộc động cơ thu lợi nhuận tối đa, vì sự phát triển của công nghiệp cơ
khí. Từ đó ông khẳng định, nguyên nhân là do chủ nghĩa tư bản càng phát triển ,
sản xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng ngày càng giảm sút (tiêu dùng không
đầy đủ), nguyên nhân tiêu dùng không đầy đủ ( lạc hậu so với sản xuất ), là do sự
phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến phá sản những người sản xuất nhỏ.
Do vậy làm cho thu nhập giảm, tiêu dùng giảm, kéo theo tình cảnh điêu đứng
của những người vô sản thất nghiệp, tiền lương thấp làm giảm nhu cầu tiêu dùng
mặt khác trong giai cấp tư sản cũng có khuynh hướng hạn chế tiêu dùng, tăng
tích lũy. Từ đó S.Sismondi kết luận rằng, chủ nghĩa tư bản càng phát triển sản
xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng ngày càng giảm bớt, đó là nguyên nhân
của khủng hoảng.
J.Sismondi cũng đã đưa ra những con đường, biện pháp để tránh khủng
hoảng kinh tế.Theo ông, khủng hoảng không nổ ra thường xuyên là nhờ có ngoại
thương, nhưng đó là lối thoát tạm thời, lối thoát thứ yếu là các nhà tư bản tiêu
dùng nhiều hơn, lối thoát cơ bản là phát triển sản xuất nhỏ. Vì sản xuất nhỏ là
sản xuất vừa phải, dẫn đến thu nhập sản xuất nhỏ tăng, do đó sản xuất ăn khớp
nhu cầu tiêu dùng. Như vậy nghiên cứu lý luận khủng hoảng kinh tế của
J.Sismondi có thể nhận thấy các vấm đề sau:
- Điều hợp lý ở S.Sismondi là ông đã khẳng định khủng hoảng kinh tế là
tất yếu, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ có sản xuất thừa đó là kết quả của mâu
thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng
- Do đồng nhất sản xuất với thu nhập nên ông không phân biệt được sự
khác nhau giữa tư bản và thu nhập quốc dân, không phân biệt được tiêu dùng sản
xuất và tiêu dùng cá nhân và do đó không thấy được vai trò tích lũy sản xuất.
10
- Ông xem xét khủng hoảng theo quan điểm sản xuất nhỏ, quan điểm tiểu
tư sản, giải thích sự giảm sút của thị trường do suy đồi của nền sản xuất nhỏ. Sở
dĩ như vậy là vì ông không hiểu nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng kinh tế -
đó là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Kế thừa có phê phán những thành tựu tư tưởng nói chung và lịch sử các
học thuyết kinh tế nói riêng Mác đã làm nên một cuộc cách mạng trong kinh tế
chính trị trong đó có lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội. Mác là người đầu tiên
vạch trần bản chất và chỉ ra tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản.
Bằng việc vận dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học một cách
nhuần nhuyễn trong phân tích các vấn đề kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản Mác đã
xây dựng lý luận tái sản xuất xã hội một cách khoa học và triệt để. Mác đã gạt bỏ
những sai lầm của A.Smith và Quesney khi đưa ra các giả định dựa trên hai
nguyên lý : Giá trị tổng sản phẩm xã hội gồm ba bộ phận C+V+m (xét về mặt giá
trị) tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng ( xét về mặt hiện vật) ; phân chia nền sản
xuất thành hai khu vực là sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Mác đưa ra những giả định khoa học:
- Xã hội tư bản là một xã hội thuần tuý, tức là ở đó chỉ có 2 giai cấp cơ
bản là tư sản và vô sản, chỉ có kinh tế tư bản mà không có các thành phần kinh tế
khác.
- Giá trị của tư bản bất biến chuyển hết vào sản phẩm trong thời gian 1 năm.
- Giá cả bằng giá trị: tức là không tính đến sự lên xuống của giá cả quanh
giá trị dưới tác động của cung cầu.
- Không có ngoại thương, coi thế giới tư bản là một khối thống nhất.
- Tỷ suất giá trị thựng dư hay trình độ bóc lột không đổi (là 100%) và cấu
tạo hữu cơ của tư bản không thay đổi giữa năm này với năm khác.
11
Nhờ những giả định KH trên, C.Mác đã khắc phục sai lầm của A.Smith là
đồng nhất giá trị HH với thu nhập trong công thức tam vị nhất thể, khiến cho
không thể tái SX giản đơn vì C không được bù đắp. Mác cũng rút ra các quy luật
hay điều kiện thực hiện tổng sản phẩm xã hội của tái sản xuất giản đơn và tái sản
xuất mở rộng. Thông qua lý luận về tái sản xuất xã hội Mác đã chỉ ra tính chất
chu kỳ, tính tất yếu của khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp trong nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
Nghiên cứu lý luận tái sản xuất xã hội của Mác có một ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong nhận thức về cuộc khủng hoảng kinh tế trong giai đoạn hiện
nay, đồng thời kiên định với những nhận định và dự báo khoa học, cách mạng
của Mác về bản chất và tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản.
Thực chất và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế là sự biến động và làm gián đoạn quá trình tái sản
xuất xã hội, phá hoại các tỷ lệ cân đối của nền kinh tế.
Từ đầu thế kỷ XIX khi đại công nghiệp cơ khí xuất hiện, quá trình tái sản
xuất của CNTB bị lâm vào những cuộc khủng hoảng kinh tế một cách chu kỳ.
Khủng hoảng kinh tế TBCN là khủng hoảng sản xuất “thừa”. Biểu hiện của
nó là hàng hoá sản xuất không tiêu thụ được, công nhân bị thất nghiệp, xí nghiệp
phải đóng cửa, thị trường xã hội rối loạn. “Thừa” hàng không có nghĩa là đã bão
hòa với nhu cầu xã hội mà chỉ thừa so với sức mua của quần chúng lao động.
Khả năng khủng hoảng kinh tế đã tiềm tàng trong sản xuất hàng hoá giản
đơn. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, khủng hoảng kinh tế trở thành hiện
thực. Nguyên nhân cơ bản sâu xa của khủng hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản
là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ
xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
12
nghĩa về các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Những biểu hiện chính của mâu
thuẫn đó gồm:
1. Mâu thuẫn giữa tính có tổ chức, có kế hoạch trong từng xí nghiệp với
tính chất tự phát vô chính phủ của sản xuất xã hội nhất là trong giai đoạn tự do
cạnh tranh. Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản hiện đại mặc dù có sự can
thiệp, điều chỉnh kinh tế của nhà nước tư bản thông qua các kế hoạch và chương
trình kinh tế nhưng nền tảng của nền kinh tế của xã hội tư bản vẫn không thay
đổi. Do đó, các tỷ lệ cân đối của nền kinh tế vẫn bị phá vỡ vì nó phục tùng trước
hết lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền. Nhà nước tư sản hiện đại phải
phục tùng ý chí của giai cấp tư sản.
2. Mâu thuẫn giữa xu hướng mở rông sản xuất vô hạn của chủ nghĩa tư bản
và sức mua có hạn của quần chúng
3. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Đặc điểm
của sản xuất TBCN là sự tách rời giữa tư liệu sản xuất và người lao động. Tư
liệu sản xuất thì tập trung trong tay giai cấp tư sản còn người công nhân ngoài
sức lao động của mình không còn gì để kiếm sống. Sự tách rời 2 yếu tố đó của
sản xuất biểu hiện rõ rệt trong khủng hoảng kinh tế. Lúc này tư liệu sản xuất
không được sử dụng còn người lao động không có việc làm.
Khủng hoảng luôn là bạn đồng hành của kinh tế tư bản chủ nghĩa có
tính chu kỳ với biên độ ngày càng dầy hơn.
Bất kỳ khủng hoảng nào cũng chỉ xuất hiện khi bị mất thăng bằng, bị mất
cân đối giữa những phần cấu thành sự thống nhất. Trong phạm trù kinh tế thì
khủng hoảng xuất hiện khi thăng bằng giữa cầu và cung của hàng hóa hoặc dịch
vụ bị mất. Có bao nhiêu lý thuyết về kinh tế, thì có bấy nhiêu loại khủng hoảng
kinh tế. Và gần như tất cả các lý thuyết đều nói là không thể tránh khỏi khủng
13
hoảng kinh tế được. Nó là một phần của hệ thống kinh tế và sẽ chỉ biến mất khi
chúng ta xóa bỏ luật lệ kinh tế theo kiểu mẫu thị trường và kế hoạch.
Trường phái tự do chủ nghĩa khẳng định rằng kinh tế có tính chất chu
trình, có thời kỳ phát triển và đổ vỡ, bởi vì nhu cầu tiêu dùng và đầu tư có dạng
sóng. Còn chủ nghĩa Mác khẳng định rằng khủng hoảng tài chính là thuộc tính
cần thiết của chủ nghĩa tư bản, vì mục tiêu chính trong hệ thống của chủ nghĩa tư
bản đã khởi sự là phải thu lợi nhuận. Mô tả dưới dạng sơ đồ thì nó thể hiện câu
chuyện như sau: mức độ sản xuất hàng hóa tăng lên và vượt nhu cầu tương ứng
khả năng thanh toán thực tế, dẫn tới chuyện phải cho vay tiền để mua hàng hóa
với mục tiêu tăng cầu. Nợ nần dần dần tích lũy, tiền-hàng hóa không cho vay
được nữa và sự sản xuất rút ngắn lại vì không cần thiết. Bắt đầu qúa trình sa thải
nhân viên-công nhân với quy mô lớn, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, mức độ sung túc
trong cuộc sống và sinh hoạt sụt giảm.
Chu kỳ như thế này của hệ thống kinh tế chủ nghĩa tư bản là định lý.
Những thời kỳ phát triển mạnh mẽ và suy sụp chuyền từ tay nọ sang tay kia. Các
nhà bác học đã cố gắng tìm hiểu lý do của những khủng hoảng từ lâu, nhưng
chưa có kết qủa. Mỗi trường hợp là một câu chuyện khác nhau.“Theo bản chất
của vòng tuần hoàn công nghiệp, thì một khi vòng tuần hoàn đã được người ta
phát động, tất nhiên nó sẽ được tiếp tục cứ lặp đi lặp lại mãi theo chu kỳ. Ở thời
kỳ tiêu điều, sản xuất giảm xuống đến mức mà nó đã đạt được trong vòng tuần
hoàn trước, và đó lại là một nền sản xuất mà bây giờ người ta đã có một cơ sở kỹ
thuật đích đáng. Trong thời phồn vinh – tức là thời kỳ trung gian – nền sản xuất
tiếp tục phát triển trên cơ sở đó. Trong thời kỳ sản xuất quá thừa và đầu cơ, việc
sản xuất đã huy động các lực lượng sản xuất đến mức tối đa, đến mức vượt ra
14
khỏi các giới hạn tư bản chủ nghĩa của quá trình sản xuất” (C. Mác : tư bản tiếng
Nga, Mạc tư khoa, 1955 q.III tr 505)
Như vậy, Các cuộc khủng hoảng đều diễn ra theo một trình tự đại thể như
nhau, cho dù lĩnh vực và quốc gia hứng chịu đầu tiên, mức độ mạnh yếu, phạm
vi lan tỏa, độ dài thời gian có thể khác nhau. Tóm lại, khủng hoảng kinh tế lặp đi
lặp lại như một quy luật khách quan, vận hành theo một cơ chế đại thể như nhau
với một số khác biệt tùy theo bối cảnh từng nước và từng thời kỳ. Cái khác căn
bản là ngày nay, dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa, tính tùy thuộc giữa các
quốc gia quá chặt chẽ, đứng trước hiểm họa chung các nước đều phải cụm lại đối
phó. Do đó, khủng hoảng đỡ nghiêm trọng hơn và không đưa tới chiến tranh thế
giới.
Khủng hoảng kinh tế tác động tới nước ta và những vấn đề cần quan
tâm
Về mặt nhận thức, theo nguyên phó thủ tướng Vũ Khoan cần làm rõ hai
điều
Một là, hiện nay có hai luồng ý kiến về tác động của khủng hoảng kinh tế
thế giới đến kinh tế nước ta. Một luồng cho rằng, tác động đó sẽ có độ trễ và
không lớn do nước ta hội nhập chưa sâu; luồng ý kiến thứ hai cho rằng, tác động
đó rất nhanh và khá sâu. Có lẽ, cách đề cập thứ hai chuẩn xác hơn, và thực tế vừa
qua đã chứng minh như vậy. Thực tế là, ngày nay không có bất kỳ nền kinh tế
nào có thể tách biệt hoàn toàn với kinh tế thế giới, vả lại nước ta lại tùy thuộc
quá nhiều vào kinh tế thế giới cả ở đầu vào (vốn, máy móc, thiết bị, nguyên –
nhiên – vật liệu nhập khẩu) lẫn đầu ra (xuất khẩu); nay lại hội nhập đầy đủ với
kinh tế thế giới. Điều này khác hẳn thời kỳ nổ ra cuộc khủng hoảng khu vực cuối
những năm 90 thế kỷ trước.
15
Hai là, một số người cho rằng, những khó khăn của nền kinh tế nước ta
đều do quá trình hội nhập kinh tế thế giới gây ra. Đúng như ta đã lường trước,
một khi hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới thì tất yếu ta sẽ chịu tác
động của nó, cả về chiều thuận lẫn chiều nghịch. Lạm phát cao một phần do điều
này, kinh tế suy giảm một phần cũng do tác động của khủng hoảng toàn cầu. Nói
như vậy không có nghĩa là mọi chuyện đều do hội nhập, mà một phần không nhỏ
còn do sự yếu kém vốn có của nền kinh tế, cùng những bất cập trong điều hành
nền kinh tế thị trường lại hội nhập đầy đủ với kinh tế thế giới.
Với tư cách là những người nghiên cứu lý luận về kinh tế chính trị khi đề
cập đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay cần đề cập trên cả hai bình diện,
lý luận và thực tiễn, trước mắt và lâu dài.
Về lý luận có mấy vấn đề đáng quan tâm:
Thứ nhất, như trên đã nói, khủng hoảng chu kỳ là cơ cấu đồng hành với
chủ nghĩa tư bản và đây là quy luật bất biến. Cuộc khủng hoảng lần này cũng
không nằm ngoài quy luật đó, nó đánh dấu sự thất bại của lý thuyết chủ nghĩa tự
do mới tuyệt đối hóa sức mạnh vạn năng của thị trường, song chắc rằng chưa
phải là sự cáo chung của chủ nghĩa tư bản nói chung và cơ chế thị trường nói
riêng.
Kinh nghiệm cho thấy, cứ sau mỗi cuộc khủng hoảng những nhân tố,
doanh nghiệp kém hiệu quả lại bị loại trừ; chủ nghĩa tư bản lại đổi mới cơ cấu và
cơ chế, lấy lại sức bật mới. Đồng thời, sau mỗi cuộc khủng hoảng luận thuyết
kinh tế cũ được điều chỉnh hoặc được thay bằng luận thuyết mới. Lần này người
ta nói nhiều đến vai trò điều tiết của nhà nước và trên thực tế ở khắp mọi nơi nhà
nước đều phải ra tay. Thực ra không phải ngày nay mà từ trước tới nay dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa, dù tự do hay độc quyền, nhà nước vẫn điều tiết các hoạt
16
động sản xuất – kinh doanh bằng cách này hay cách khác, thậm chí có khi, có
nơi doanh nghiệp quốc doanh chiếm vị trí khá quan trọng, do đó không nên coi
sự can thiệp của nhà nước chỉ là đặc trưng của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vấn đề
chỉ là giai cấp nào là giai cấp thống trị nhà nước này hay nhà nước khác.
Thứ hai, liên quan tới vấn đề trên, một đề tài mang tính thời sự nữa là:
xác định rõ chức năng của thị trường và của Nhà nước trong điều kiện nước ta đã
chuyển sang thể chế kinh tế thị trường và hội nhập với kinh tế thế giới; phương
cách mà nhà nước điều tiết nên như thế nào trong hoàn cảnh đó? Dù sao đi nữa
thì cũng không thể phó mặc hoàn toàn cho "bàn tay vô hình" của thị trường, mặt
khác thật là sai lầm lớn nếu trở lại cơ chế hành chính mệnh lệnh, bao cấp, xin –
cho, không đếm xỉa tới các quy luật khách quan của thị trường.
Thứ ba, khủng hoảng đồng hành với chủ nghĩa tư bản hay là quy luật của
sản xuất hàng hóa? Các nước xã hội chủ nghĩa dưới thời kế hoạch hóa tập trung
có tránh được khủng hoảng không? Các nước chủ trương cải cách và mở cửa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa có bị khủng hoảng không?
Về mặt thực tiễn, cần tính đến các tác động ngắn hạn cũng như tác động
trung và dài hạn. Về tác động ngắn hạn đã được bàn thảo nhiều và đang được xử
lý.Những tác động dài hạn là điều đáng được bàn nhiều hơn cả về mặt lý luận lẫn
thực tiễn.
Về lý luận, như trên đã nói, cần làm rõ "cơ chế vận hành" của tình trạng
suy giảm, suy thoái, thậm chí khủng hoảng kinh tế dưới chế độ xã hội chủ nghĩa;
mối quan hệ giữa sự điều tiết của thị trường và nhà nước trong điều kiện thể chế
thị trường và hội nhập. Bên cạnh đó, tác động của cuộc khủng hoảng lần này đặt
ra vấn đề về sự cần thiết xử lý thỏa đáng các mối quan hệ sau:
17
- Mối quan hệ giữa tốc độ với chất lượng, hiệu quả; giữa phát triển theo
chiều rộng với phát triển theo chiều sâu. Đứng trước nguy cơ bị tụt hậu ngày
càng xa về trình độ phát triển kinh tế, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh", đương
nhiên nước ta cần phát triển nhanh. Vấn đề chỉ là bằng giá nào và nên xử lý thế
nào mối tương quan giữa yêu cầu "nhanh"và yêu cầu "bền vững"? Kinh nghiệm
thế giới và bản thân nước ta cho thấy, chất lượng, hiệu quả tăng trưởng mới có ý
nghĩa quyết định và lâu bền. Bản thân khái niệm "kinh tế" (economy) đã có
nghĩa là sản xuất ra nhiều của cải nhất với chi phí ít nhất.
Từ nhận thức như vậy, sẽ nảy sinh nhiều vấn đề về cơ cấu đầu tư, cơ sở
sản xuất, cơ chế thị trường… Để bảo đảm chất lượng và hiệu quả tăng trưởng thì
hệ số sử dụng đồng vốn mới quan trọng chứ không chỉ là hệ số đầu tư so với
GDP.
Vừa qua, kinh tế nước ta phát triển chủ yếu theo chiều rộng, thậm chí có
thể coi là một nền kinh tế tiêu hao. Nhân tố vốn chiếm tới 57,5% tăng trưởng,
nhân tố lao động chiếm 20%, trong khi ở các nước trong khu vực tỷ lệ đó là 35%
– 40%. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP quá cao, trong nhiều năm trên 40%, năm
2007 lên tới 45,6%. Trong khi đó, chỉ số ICOR lại kém dần: 2001 – 2005 là 4,89;
2006 là 5; 2007 là 5,4; 2008 là 6,8 và dự kiến kế hoạch năm nay là 6,1.
Trong khi các nước đang hướng tới việc chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu sản
xuất sao cho hiệu quả hơn, tiết kiệm hơn, nhất là tiết kiệm năng lượng, nếu ta
không thay đổi mạnh mẽ thì sự tụt hậu về chất lượng tăng trưởng ngày càng xa
hơn.
- Mối quan hệ giữa nhân tố bên trong với nhân tố bên ngoài, giữa nội lực
với ngoại lực. Từ lâu ta đã nhấn mạnh "nội lực là quyết định, ngoại lực là quan
trọng", song như trên đã nói, cho tới nay nền kinh tế nước ta vẫn phụ thuộc quá
18
nặng vào bên ngoài ở cả đầu vào lẫn đầu ra. Vốn nước ngoài hiện nay chiếm trên
30% tổng số vốn xã hội; kim ngạch nhập khẩu lên tới 90,2% GDP vào năm
2007. Còn kim ngạch xuất khẩu năm 2007 chiếm tới 76,8% GDP; nếu cộng cả
xuất lẫn nhập khẩu thì bằng 167%. Đó là chưa kể cơ cấu rất không hợp lý: nhóm
nông – lâm – thủy sản chiếm tới 20,57%, dầu thô chiếm 16,52% và than chiếm
2,21%. Sản phẩm chế biến tuy chiếm 37,6% song chủ yếu là gia công, lắp ráp.
Sản phẩm điện tử, vi tính chỉ chiếm 4,21% mà cũng chỉ là lắp ráp, gia công.
Cuộc khủng hoảng lần này cho thấy, nước nào tùy thuộc quá nhiều vào
xuất khẩu càng bị tác động nhiều. Tuy trong giai đoạn hiện nay nước ta vẫn phải
dành ưu tiên cao cho xuất khẩu, còn phải nhập khẩu nhiều, song chiến lược trung
và dài hạn cần cơ cấu lại theo hướng: giảm tỷ trọng xuất – nhập khẩu trong GDP
và phấn đấu xây dựng một cơ cấu tiến bộ; nếu không kinh tế nước ta sẽ luôn
luôn kém hiệu quả, sẽ tụt hậu lâu dài, đồng thời khó bề trụ vững trước những
sóng gió trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, thị trường trong nước không nhỏ,
chẳng bao lâu sau sẽ lên tới 100 triệu dân với thu nhập ngày càng cao, không thể
không tăng cường và chấp nhận cạnh tranh ngay trên sân nhà.
Bên cạnh đó, hơn bao giờ hết cần đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa
phương tiện thanh toán và dự trữ ngoại tệ để duy trì thế cơ động linh hoạt.
Về mặt chính trị có mấy vấn đề đáng lưu ý:
- Trong hoàn cảnh ngày nay ít có khả năng khủng hoảng đưa tới chiến
tranh để phân chia lại thị trường, xu hướng chủ yếu sẽ là tìm cách dàn xếp mâu
thuẫn, dung hòa lợi ích để tránh sự sụp đổ toàn hệ thống. Điều đó càng củng cố
nhận định của Đảng ta rằng, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, trong vài
thập kỷ tới ít có khả năng nổ ra chiến tranh thế giới; hòa bình và hợp tác và phát
triển là xu thế lớn.
19
Mặt khác, khi nước ta đã hội nhập quốc tế và có vị thế quốc tế khá cao thì
cần chủ động tham gia vào quá trình dàn xếp, hợp tác quốc tế để hình thành trật
tự kinh tế quốc tế mới công bằng và dân chủ.
- Cuộc khủng hoảng lần này cho thấy có sự chuyển dịch "quyền lực toàn
cầu". Chúng ta cần theo dõi chặt chẽ, nghiên cứu thấu đáo để có quyết sách thích
hợp có lợi nhất cho đất nước cả về chính trị lẫn kinh tế.
KẾT LUẬN
Lý luận tái sản xuất của Mác là sự kế thừa có phê phán các tư tưởng của
các nhà kinh tế học tư sản cổ điển. F.Quesney là người đầu tiên nghiên cứu về tái
sản xuất, ông đã có nhiều cống hiến khoa học, song cũng còn nhiều hạn chế bởi
tư tưởng trọng nông. Tiếp đó đến AdamSmith, D.Ricardo, J.Sismondi, nhưng sự
bổ sung không được bao nhiêu, thậm chí có nhiều điểm thụt lùi so với
F.Quesney.Trên những thành tựu đó Mác đã bổ sung và phát triển làm cho lý
luận tái sản xuất được hoàn thiện và khoa học, đây chính là một trong những nội
dung rất quan trọng trong cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị học do Mác-
Ăngghen tiến hành.
Nghiên cứu lý luận tái sản xuất tư bản xã hội trong lịch sử các học thuyết
kinh tế cho ta một cách nhìn khách quan khoa học trong nhận thức cả về lý luận
và thực tiễn với vấn đề khủng hoảng kinh tế . Một trong những vấn đề nóng bỏng
của các nền kinh tế hiện nay.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tê thế giới,
với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội trong đó có lĩnh cực kinh tế. Tiếp tục đổi mới, xây dựng hoàn thiện
và phát triển thể chế cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với sự tham
gia hội nhập ngày càng phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng với nền kinh tê
20
thế giới cho nên việc hứng chịu khủng hoảng kinh tế diễn ra trong hai năm vừa
qua là điều không thể tranh khỏi. Tuy nhiên thấy được điều đó Đảng và nhà nước
ta đã có những quyết sách đúng đắn và khoa học đưa nước ta thoát ra được
khủng hoảng kinh tế và duy trì được tốc độ phát triển khá cao. Là một nền kinh
tế nhỏ nhưng duy trì được sự ổn định và phát triển bến vững đó chính là ở chỗ
chúng ta nhân thức đúng, tuân thủ quy luật và phát huy hiệu quả vai trò của Nhà
nước trong quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Một lần nữa chúng ta khẳng định
tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, và đặt niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế xây dựng nước
Việt Nam : “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
21