Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Sự hình thành giá cả trong nền kinh tế thị trường (phần 2) pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.91 KB, 5 trang )

Sự hình thành giá cả trong nền kinh tế thị trường
(phần 2)
II/ Bản chất kinh tế của phạm trù giá cả (theo Học thuyết CMarx)
1. Giá cả và giá trị hàng hoá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
Ở tất cả các giai đoạn phát triển của hình thái xã hội có sản xuất hàng hoá,
giá cả luon biểu hiện băng ftiền của giá trị hàng hoá đã được sản xuất ra và tiêu
thụ trên thị trường. Giá trị hàng hoá là giá trị thị trường, giá trị được thừa nhận của
người mua. Giá trị luôn quyết định giá cả thị trường và là nội dung, bản chất của
giá cả. Ngược lại, giá cả là hình thức, là hiện tượng của giá trị. Mức giá thị trường
phụ thuộc rất lớn vào quan hệ cung-cầu về hàng hoá trên thị trường. Giá cả thị
trường và quan hệ cung cầu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Phía sau cung cầu
là giá trị trị trường. Giá cả thị trường hình thành ở điểm cân bằng cung cầu và tại
điểm đó, giá cả thị trường ngang bằng với giá trị thị trường. Trên thị trường, khi
cung nhỏ hơn cầu thị giá cao và ngược lại. Song mức cung thị trường lại phụ thuộc
vào giá trị thị trường. Đối với từng loại hàng hoá thì giá cả thường xuyên tách rời
giá trị của nó. Tuy nhiên, sự tách rời này phải là vô hạn độ mà nằm trong một giới
hạn khách quan do qui luật giá trị qui định.


2.Giá cả và tiền tệ thường xuyên có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau
Trong điều kiện bình thường của nền kinh tế, giá cả là yếu tố quyết định
lượng tiền tệ trong lưu thông và có ảnh hưởng tới tốc độ lưu thông tiền tệ. Giá cả
quyết định sức mua của tiền tệ và ngược lại tiền tệ cũng ảnh hưởng rất lớn đến giá
cả. Về mối quan hệ này có thể xảy ra một số trường hợp đáng chú ý sau:
- Nếu số tiền giấy thực tế trong lưu thông thấp hơn so với yêu cầu cần thiết
hoặc mức giá của tuyệt đại bộ phận quá cao so với khả năng thanh toán sẽ dẫn đến
nhu cầu có khả năng thanh toán nhỏ hơn cung, việc tiêu thụ hàng hoá bị ngưng trệ
ở mức độ khác nhau và làm giảm tốc độ của quá trình táI sản xuất. Tất cả những
điều này dẫn đến khuynh hướng giảm xuống của giá cả. Sức mua triển vọng của
tiền tệ tăng lên so với sức mua hiện tại trong mối quan hệ với giá cả hiện hành.
- Nếu số tiền giấy thực tế trong lưu thông không vượt quá yêu cần cần thiết


thì nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội tăng lên, giá cả tăng, sức mua thực
tế của tiền tệ giảm sút dẫn đến lượng tiền trong lưu thông phảI nhiều hơn. Lượng
tiền này làm làm cầu tăng lên và do đó, làm giá tăng. Quan hệ này tạo thành vòng
xoáy giá-tiền, tiền-giá, giá-giá và tất yếu dẫn đến lạm phát. Lạm phát xét về nguồn
gốc là hậu quả tất yếu của một nền kinh tế mất cân đối với tình trạng năng suất,
chất lượng và hiệu quả kinh tế luôn ở mức thấp.
Chú ý đến mối quan hệ giữa giá cả và tiền tệ là một vấn đề có ảnh hưởng
lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp đòi hỏi vốn hoạt động lớn, chu kỳ kinh doanh dài…. Nghiên cứu mối quan
hệ giá cả-tiền tệ có thể giúp cho doanh nghiệp dự báo chính xác hơn sự biến động
của giá cả hàng hoá do mình sản xuất ra và những hàng hoá có liên quan. Nghiên
cứu mối quan hệ này cũng rất cần thiết cho sự điều tiét vĩ mô sự phát triển của nền
kinh tế cũng như điều tiết sự hình thành và vận động của giá cả hàng hoá. Quản lý
giá vĩ mô đồi hỏi phải sử dụng đồng bộ cả 2 phạm trù giá cả và tiền tệ

3.Giá cả có mối quan hệ khăng khít với giá trị sử dụng hay tính hữu ích của
hàng hoá
Đã là hàng hoá nhất thiết phải có giá trị sử dụng. C.Max đã khẳng định: Giá
trị sử dụng và giá trị có sự nhất trí với nhau và là 2 mặt thống nhất của hàng hoá.
Giá cả không những biểu hiện bằng tiền giá trị mà còn phản ánh giá trị sử dụng
của hàng hoá. Giá trị sử dụng là yếu tố quan trọng chi phối sự hình thành giá cả
hàng hoá. Mối quan hệ giữa giá cả và giá trị sử dụng biểu hiện chủ yếu ở những
điểm sau đây:
- Trên thị trường, giá cả hình thành thống nhất theo một đơn vị giá trị sử
dụng Biểu hiện quan trọng nhất của giá trị sử dụng là chất lượng hàng hoá. Vì vậy,
giá cả hàng hoá hình thành theo chất lượng của nó.
- Mức giá của hàng hoá gắn liền với chi phí sử dụng hàng hoá.
- Giá cả phản ánh tính thay thế lẫn nhau trong sản xuất và trong tiêu dùng.
Mối quan hệ giữa giá cả với giá trị sử dụng của hàng hoá chỉ ra rằng: sự
thống nhất giữa giá trị và giá trị sử dụng là cơ sở cho sự hiện diện của mức giá trên

thị trường. Giá cả và giá trị sử dụng của hàng hoá là hai phương tiện quan trọng
đối với các doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Việc
nghiên cứu mối quan hệ này cũng có ý nghĩa đối với quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Thông squa việc tác động đến mối quan hệ giữa giá cả-giá trị-giá tị sử dụng, Nhà
nước thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội đi đôi với quá trình táI ản xuất sức lao
động cả về mặt giá trị cũng như hiện vật, khuyến khích hình thành cơ cấu sản
xuất-tiêu dùng tối ưu.

4.Giá cả và các quan hệ kinh tế - xã hội
Trong nền kinh tế hàng hoá, giá cả xuất hiện trong mọi hoạt động kinh tế xã
hội. Do đó, giá cả phản ánh tổng hợp và đồng bộ các quan hệ kinh tế-chính trị-xã
hội. Giá cả cũng có tác động trở lại đến các mối quan hệ nói trên. Nhà nước có thể
can thiệp vào sự hình thành và vận động của giá cả để điều tiết các mối quan chủ
yếu: cung và cầu hàng hoá; tích luỹ và tiêu dùng; công nghiệp, nông nghiệp và
dịch vụ; thị trường trong nước và thị trường thế giới Tác động đến các mối quan
hệ lớn của nền kinh tế quốc dân thông qua giá cả là một hướng quan trọng của
công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Các doanh nghiệp lại khai thác mối quan hệ giữa giá cả và các mối quan hệ
kinh tế theo góc độ khác. Các quan hệ kinh tế, các chính sách của nhà nước về
thuế, tài chính, tiền tệ, xuất nhập khẩu…có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu biết và thích
nghi một cách tốt nhất những “lực lượng vĩ mô” này trong quá trình cạnh tranh và
phát triển.

Tóm lại, giá cả là một phạm trù kinh tế khách quan rất tổng hợp. Việc
nghiên cứu giá cả bắt đầu từ nghiên cứu bản chất của nó là cần thiết cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp và cho công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế.




×