Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.56 KB, 25 trang )

1

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH



TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Chủ đề: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ và sự vận
dụng của Đảng ta trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay.

Giảng viên: Lê Đình Năm
Sinh viên: Lê Thị Trà Giang
Viện Báo Chí
Lớp : Truyền thông đa phương tiện
Mã sinh viên: 2051040010

Hà Nội, tháng 10 năm 2021


2

MỤC LỤC
"Nước ta là nước dân chủ,
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Cơng việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”.
Trong kho tàng di sản văn hố và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm về
dân chủ giữ một vai trò, vị trí quan trọng trong hệ tư tưởng và chi phối mọi


hoạt động của Người. Quan điểm dân chủ của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ khát
vọng hàng ngàn đời của dân tộc Việt Nam, đồng thời tiếp thu chọn lọc tinh
hoa văn hóa của nhân loại và được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn
Việt Nam. Lời dạy của Bác về dân chủ là tài sản quý báu, là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt tiến trình cách mạng, được Đảng, Nhà nước, Nhân dân ta vận dụng vào
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân ngày nay.
Đứng trước tình hình đất nước nhiều biến đổi phức tạp, vai trò của nhà
nước dân chủ càng được khẳng định mạnh mẽ. Vì thế, đề tài “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước dân chủ và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân hiện nay” là đề tài đáng được quan tâm và nghiên cứu. Em xin trân trọng
bày tỏ lòng biết ơn đến thầy giáo Lê Đình Năm đã giảng dạy, hướng dẫn, giúp
đỡ em trong suốt quá trình học tập và làm bài tiểu luận. Với chủ đề này, em sẽ
cố gắng hoàn thành thật tốt!
Dưới đây là bài làm nghiên cứu của em. Em rất mong thầy sẽ có những
góp ý, nhận xét để những kiến thức và bài tiểu luận của em ngày càng hoàn
thiện hơn! Em xin chân thành cảm ơn thầy!
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong giai đoạn hiện nay, có khơng ít những cá nhân và thế lực phản
động thực hiện âm mưu "diễn biến hồ bình" gây bạo loạn lật đổ chính quyền.


3
Sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng gây mất ổn định chính
trị, phá hoại chế độ dân chủ nhân dân. Trong khi đó, quyền dân chủ của nhân
dân ở một số nơi bị vi phạm trên một số lĩnh vực. Việc thực hành dân chủ cịn
mang tính hình thức, xuất hiện tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ làm
mất đoàn kết nội bộ, gây rối ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh

đó, tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí cịn rất nghiêm trọng với những
biểu hiện tinh vi, phức tạp chưa được ngăn chặn gây bức xúc cho xã hội.
Tình hình trên cho thấy cần phải phát huy hơn nữa dân chủ xã hội chủ
nghĩa bằng cách vận dụng sáng tạo quan điểm dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam. Nghiên cứu tư tưởng của Bác về nhà
nước của dân, do dân, vì dân khơng những có ý nghĩa lịch sử mà cịn cung
cấp cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu để tiến hành cải cách bộ máy
nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức thực sự là công bộc của dân,
hoàn thiện hệ thống pháp luật, đấu tranh loại bỏ những thói hư, tật xấu trong
bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ có hiệu quả các
quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo cho nhà nước luôn giữ được bản chất
cách mạng, từng bước xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Bản thân tôi đang là sinh viên ngành Truyền thông đa phương tiện Học viện Báo chí và Tun truyền. Đối với tơi, được học tập bộ mơn Tư
tưởng Hồ Chí Minh, tơi càng thấm nhuần hơn bài học về xây dựng nhà nước
dân chủ – một bí quyết giúp cho đất nước ta: Độc lập dân tộc, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh. Đồng thời, khi phải chứng kiến những thế lực phản
động tiến hành “diễn biến hịa bình”, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân
quyền” hòng gây mất ổn định chính trị, phá hoại chế độ dân chủ nhân dân...tơi
càng thấm thía hơn điều này. Từ đó, tơi suy nghĩ rất nhiều và mong muốn
thông qua đề tài này sẽ góp phần tìm ra những biện pháp thích hợp đề nước ta
vận dụng bài học của Bác về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay hợp lý, hiệu quả hơn.


4
Xuất phát từ những lý do trên, tôi nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề,
và quyết định chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ và sự
vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay” làm đề tài nghiên cứu. Tơi

tin rằng, với sự tài tình lãnh đạo của tồn Đảng, sự đồng lịng của tồn dân,
chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu về xây dựng một nước Việt Nam: độc
lập dân tộc, xã hội cơng bằng, dân chủ văn minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích tổng quát của đề tài là nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân; từ đó vận dụng vào q trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, góp phần
phục vụ tốt cho sự phát triển của xã hội, đất nước. Qua đề tài, khơi dậy trách
nhiệm, định hướng cho mỗi sinh viên tham gia xây dựng nhà nước dân chủ
một cách hợp lý, hiệu quả hơn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, bài nghiên cứu tập trung giải
quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Thứ nhất, làm sáng tỏ sự hình thành tư tưởng và những nội dung cơ
bản trong tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Trong đó bao gồm làm rõ các quan niệm của Bác về: Bản chất giai cấp
của nhà nước dân chủ; Nhà nước của nhân dân; Nhà nước do nhân dân; Nhà
nước của nhân dân.
Thứ hai, làm sáng tỏ sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước của dân, do dân, vì dân và làm rõ một số nội dung vận dụng vào
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Từ đó,
liên hệ trách nhiệm mỗi sinh viên trong tham gia xây dựng nhà nước dân chủ
thực sự.


5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ
và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ trên cơ sở các
cơng trình, bài viết, bài nói, thực tiễn hoạt động chính trị của Người trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận
Bài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về nhà nước của dân, do dân, vì dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Kết hợp giữa phương pháp lịch sử và
phương pháp logic; phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp; phương
pháp lý luận gắn liền với thực tiễn; phương pháp khái quát hóa; phương pháp
quy nạp và diễn dịch.
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn

5.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu góp phần khái quát rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; cung cấp nhận thức
đúng đắn về quan niệm của Bác về nhà nước dân chủ, về vị trí, vai trị của
nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam; từ đó giúp cho việc sử dụng
lực lượng vơ tận của nhân dân, góp phần phát huy lực lượng của nhân dân
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, đổi mới đất nước hiện nay nói
riêng.



6
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quản nghiên cứu góp vào thực tiễn hoạt động của hệ thống chính trị
trong việc bảo đảm và phát huy vai trò của nhân dân ở sự nghiệp đổi mới hiện
nay; là tài liệu phục vụ nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên
cạnh đó, góp phần giúp sinh viên thấm nhuần tư tưởng của Bác, học tập tốt
hơn môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó vận dụng vào đời sống hằng ngày,
phục vụ tốt cho sự phát triển của bản thân mình.
6. Kết cấu của tiểu luận

Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bài nghiên cứu
gồm 2 chương:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội của nghĩa
Việt Nam hiện nay.

PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ
1.1. Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do
dân, vì dân
Thứ nhất, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam:
Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam như: tinh thần
đoàn kết, tương thân – tương ái, yêu thương thiên nhiên và con người, chăm
chỉ lao động, lạc quan, yêu đời, ý chí đấu tranh anh dũng, tự lực, tự cường,...
thì chủ nghĩa u nước là dịng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc. Chủ nghĩa
yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, và

là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần Việt Nam. Hồ Chí Minh viết:


7
“Lúc đầu, chính là Chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là Chủ nghĩa cộng sản
đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Thứ hai, tinh hoa văn hóa nhân loại: Phương Đơng và phương Tây
Cùng với chủ nghĩa u nước, Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng của
văn hóa phương Đơng và phương Tây. Người đã tiếp thu và kế thừa có phê
phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hóa Phục hưng, thế kỷ ánh sáng, của
cách mạng tư sản phương Tây như Pháp, Mỹ, Anh; Những giá trị tư tưởng của
Nho giáo, kiêm ái của Mặc gia, thuận theo tự nhiên của Lão gia, từ bi bác ái
của nhà Phật đã góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà
nước vì con người, một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thứ ba, chủ nghĩa Mác – Lênin
Tháng 12 năm 1920, trong Đại hội thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp
họp ở thành phố Tua, đồng chí Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập
Quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này
đánh dấu một bước ngoặc trong đời hoạt động cách mạng của Người. Là bước
ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, bước ngoặt đứng hẳn về
con đường cách mạng tháng Mười, đứng hẳn về chủ nghĩa Mác – Lênin và
đứng hẳn về Quốc tế cộng sản.
Chính thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí
Minh tổng kết lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của lồi người để tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
Chủ nghĩa Mác – Lê nin là nguồn gốc lý luận, cơ sở chủ yếu nhất của
sự hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. “Khơng có chủ nghĩa Mác Lênin thì cũng khơng có tư tưởng Hồ Chí Minh sánh ngang tầm thời đại và
giải quyết được những nhiệm vụ lịch sử của cách mạng Việt Nam”.
Thứ tư, thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh
Suốt chặng đường 30 năm đi tìm đường cứu nước, vừa lao động, vừa

học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác –Lênin, vừa tham gia trực tiếp các phong
trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động. Hồ Chí Minh đã tích lũy


8
được những tri thức và kinh nghiệm phong phú, từng bước hình thành tư
tưởng lý luận và phương pháp cách mạng của mình.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nét nổi bật, đặc sắc thuộc về bản
chất khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh. Mọi luận điểm của Người đều là
những khái quát lý luận từ thực tiễn chính trị - xã hội, được phân tích trên
quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm toàn diện, hệ thống và phát triển. Người
viết: “Thực hành sinh ra hiểu biết; Hiểu biết tiến lên lý luận; Lý luận lãnh đạo
thực hành”. Đó là con đường của q trình nhận thức các sự vật, hiện tượng;
con đường hướng đến chân lý của nhân thức”.
Thứ năm, trí tuệ và phẩm chất chính trị của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là hiện thân của trí tuệ, phẩm chất đạo đức và truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh là người lịch thiệp,
có lối sống và phong cách giản dị, giàu lịng nhân ái, lại thơng minh, sắc sảo,
nhạy bén về chính trị, rất ham học hỏi, có tư duy độc lập, sáng tạo, có trí tuệ
uyên bác, kiến thức sâu rộng, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa của các dân tộc
trên thế giới.
Đối với Người, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân là mục đích duy nhất trong mọi
suy nghĩ cũng như hành động của Người. Từ những suy nghĩ đó mà trong mọi
hành động cũng như việc làm, Người luôn luôn đặt địa vị và quyền lợi của
nhân dân lên trên hết. Người rất gương mẫu và cũng luôn căn dặn, giáo dục
cán bộ, đảng viên phải kính dân, trọng dân, yêu dân, gần dân, học dân, tin
tưởng vào trí tuệ và lực lượng của dân. Nét đặc biệt trong phong cách chính
trị Hồ Chí Minh là ln gần gũi với nhân dân, lắng nghe ý kiến của quần
chúng, quan tâm đến mọi tầng lớp nhân dân.

1.2. Khái niệm dân chủ
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, dân chủ được biểu đạt qua hai mệnh
đề ngắn gọn: “Dân là chủ”, “Dân làm chủ”. Với Người, dân là chủ nghĩa là đề
cập vị thế của dân; còn dân làm chủ, nghĩa là để cập năng lực và trách nhiệm
của dân. Cả hai vế này luôn luôn đi đôi với nhau, và thể hiện vị trí, vai trị,


9
quyền và trách nhiệm của nhân dân. Quan niệm đó của Hồ Chí Minh phản
ánh đúng nội dung bản chất về dân chủ. Quyền hành và lực lượng đều thuộc
về nhân dân. Xã hội nào đảm bảo cho điều đó được thực thi thì đó là một xã
hội thực sự dân chủ.
Ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, mở ra một trang sử mới trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta từ kiếp nô lệ trở thành người làm
chủ đất nước, nước ta từ một nước thuộc địa trở thành quốc gia độc lập, có
chủ quyền, tự quyết định vận mệnh của mình.
Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh
cũng chỉ rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm
chủ...Nhân dân là ơng chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay
mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”.
Như vậy, Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ là “dân là chủ". Khi xác
định như thế, có lúc Hồ Chí Minh đem quan niệm “dân là chủ” đối lập với
quan niệm “quan chủ”. Đây là quan niệm được Hồ Chí Minh diễn đạt ngắn,
rõ, đi thẳng vào bản chất của khái niệm trong cấu tạo quyền lực của xã hội
Theo đó, Hồ Chí Minh còn cho rằng: Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước
nhà do nhân dân làm chủ”, “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm
chủ”, “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
1.3. Bản chất giai cấp của nhà nước

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ,
nhưng tuyệt nhiên nó khơng phải là “Nhà nước tồn dân”, hiểu theo nghĩa là
nhà nước phi giai cấp. Nhà nước ở đâu và bao giờ cũng mang bản chất của
một giai cấp nhất định. Nhà nước Việt Nam mới – Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là một nhà nước mang bản
chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam
thể hiện trên các phương diện sau:


10
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trị cầm quyền.
Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là
Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai
cấp công nhân lãnh đạo”. Ngay trong quan điểm về nhà nước dân chủ, nhà
nước do nhân dân là người chủ nắm chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh
nòng cốt của nhân dân là liên minh cơng - nơng - trí, do giai cấp cơng nhân
mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng cầm
quyền bằng phương thức thích hợp như: Đường lối, quan điểm, chủ trương để
Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch; Hoạt động của
các tổ chức Đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước;
Bằng cơng tác kiểm tra.
Thứ hai, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định
hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước. Đưa đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng nhất quán của Hồ
Chí Minh. Việc giành lấy chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam mới,
chính là để giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động có được một tổ chức
mạnh mẽ nhằm thực hiện mục tiêu nói trên.
Thứ ba, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh
rất chú ý đến cả hai mặt dân chủ, tập trung trong tổ chức và hoạt động của tất

cả bộ máy, cơ quan nhà nước. Người nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát
huy cao độ dân chủ, đồng thời cũng nhấn mạnh phải phát huy cao độ tập
trung, Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực
thuộc về nhân dân.
Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp cơng nhân thống nhất với
tính nhân dân và tính dân tộc. Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt
Nam. Trong tư tưởng của Người về Nhà nước mới ở Việt Nam, bản chất giai


11
cấp cơng nhân của Nhà nước thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc, thể
hiện cụ thể như sau:
Một là, Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu
dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc. Từ
giữa thế kỷ XIX, khi đất nước bị ngoại xâm, các tầng lớp nhân dân Việt Nam,
hết thế hệ này đến đến thế hệ khác đã không quản hy sinh xương máu chiến
đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời,
trở thành lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, với chiến lược
đại đoàn kết đúng đắn, sức mạnh của toàn dân tộc đã được tập hợp và phát
huy cao độ, chiến thắng ngoại xâm, giành lại độc lập, tự do, lập nên Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam châu Á, Nhà nước Việt Nam mới, do vậy, không phải của riêng giai cấp,
tầng lớp nào, mà là thuộc về nhân dân.
Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và ln
kiên trì, nhất qn mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của dân
tộc làm nền tảng. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định
quyền lợi cơ bản của giai cấp cơng nhân thống nhất với lợi ích của nhân dân
lao động và của toàn dân tộc. Nhà nước Việt Nam mới là người đại diện, bảo
vệ, đấu tranh khơng chỉ cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, mà cịn của nhân

dân lao động và của tồn dân tộc.
Thứ ba, trong thực tế, Nhà nước mới ở Việt Nam đã đảm đương nhiệm
vụ mà toàn thể dân tộc giao phó là tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc kháng
chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam
hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào
sự phát triển tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
đi đến chủ nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác
định, cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước.


12
1.4. Nhà nước của nhân dân
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước
mà tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân
dân. Người khẳng định: “Trong Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của
chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân” 1. Nhà nước của dân tức là
“dân là chủ”. Nguyên lý “dân là chủ” khẳng định địa vị chủ thế tối cao của
mọi quyền lực là nhân dân.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai
hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là hình
thức dân chủ trong đó nhân dân trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến
vận mệnh của quốc gia, dân tộc và quyền lợi của dân chúng. Hồ Chí Minh
ln coi trọng hình thức dân chủ trực tiếp bởi đây là hình thức dân chủ hoàn
bị nhất, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hành dân chủ trực tiếp.
Cùng với dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình
thức dân chủ được sử dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân dân.
Đó là hình thức dân chủ mà trong đó nhân dân thực thi quyền lực của mình
thơng qua các đại diện mà họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực
mà họ lập trên. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ
gián tiếp:

Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền" của nhân dân. Tự bản thân nhà
nước khơng có quyền lực. Quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác do.
Do vậy, các cơ quan quyền lực nhà nước cùng với đội ngũ cán bộ của nó đều
là “cơng bộc" của nhân dân, nghĩa là “gánh vác việc chung cho dân, chứ
không phải để đè đầu dân”2. Ở đây, Hồ Chí Minh đã xác định rõ vị thế và mối
quan hệ giữa nhân dân với cán bộ nhà nước trên cơ sở nhân dân là chủ thể
nắm giữ mọi quyền lực. Theo Hồ Chí Minh: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ
trưởng, thủ trưởng, uỷ viên này uỷ viên khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy
tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng” 3. “Nước ta là nước
dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ


13
người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đầy
tớ cho dân”4 , Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán những cán bộ nhà nước thối
hóa, biến chất, từ chỗ là cơng bộc của dân đã trở thành “quan cách mạng”,
đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế" với dân, “quên rằng dân
bầu mình ra là để làm việc cho dân”,
Nhân dân có quyền kiểm sốt, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn
những đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế
quyền lực mà họ đã lập nên. Đây là quan điểm rõ ràng, kiên quyết của Hồ Chí
Minh nhằm đảm bảo cho mọi quyền lực, trong đó có quyền lực nhà nước,
luôn nằm trong tay dân chủng. Một nhà nước thật sự của dân, theo Hồ Chí
Minh, ln “ ủng đồng bào giúp đỡ, đơn đốc, kiểm sốt và phê bình để làm
trọn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân” 5 .
Trong Nhà nước đó, “nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra khơng xứng đáng với sự
tín nhiệm của nhân dân”6 , thậm chí, “nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có
quyền đuổi chính phủ”7.
Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân. Theo Hồ Chí

Minh, sự khác biệt căn bản của luật pháp trong Nhà nước Việt Nam mới với
luật pháp của các chế độ tư sản, phong kiến là ở chỗ nó phản ánh được ý
nguyện và bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Luật pháp đó là của nhân dân, là
công cụ thực thi quyền lực của nhân dân, là phương tiện để kiểm soát quyền
lực nhà nước.
1.5. Nhà nước do nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà
nước do nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân
tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhân dân “cử ra”, “tổ
chức nên” nhà nước dựa trên nền tảng pháp lý của một chế độ dân chủ và theo
các trình tự dân chủ với các quyền bầu cử, phúc quyết,...


14
Nhà nước do nhân dân cịn có nghĩa “dân làm chủ”. Người khẳng định
rõ: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ” 8. Nếu
“dân là chủ" xác định vị thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, thi
“dân làm chủ” nhấn mạnh quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là
người chủ. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, “nhân dân có quyền lợi làm
chủ, thì phải có nghĩa vụ làm trịn bổn phận cơng dân, giữ đúng đạo đức cơng
dân”9. Nhân dân làm chủ thì phải tn theo pháp luật của Nhà nước, tuân theo
kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung, đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đang sở
để xây dựng lợi ích chung, hăng hái tham gia công việc chia lg, bà vệ tài sản
công cộng, bảo vệ Tổ quốc, V,V..
Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện
để nhân dân được thực thi những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy
định, hưởng dụng đủ quyền lợi và làm trịn nghĩa vụ làm chủ của mình. Người
yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân
dân cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ

của mình. Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta là những người lao động làm chủ
nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ” 10 . Không chỉ
tuyên bố quyền làm chủ của nhân dân, cũng không chỉ đưa nhân dân tham gia
cơng việc nhà nước, mà cịn chuẩn bị và động viên nhân dân chuẩn bị tốt năng
lực làm chủ, quan điểm đó thể hiện tư tưởng dân chủ triệt để của Hồ Chí
Minh khi nói về nhà nước do nhân dân.
1.6. Nhà nước vì nhân dân
Nhà trước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân, khơng có đặc quyền độc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính, Hồ
Chí Minh là một vị Chủ tịch vì dân và Người yêu cầu các cơ quan nhà nước,
các cần bộ nhà nước đều phải vì nhân dân phục vụ. Người nói: "Các cơng
việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do
hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải


15
đặt quyền lợi dần lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dầu thì làm. Việc gì có
hại cho dân thì phải tránh”11.
Theo Hồ Chí Minh, thước đo một Nhà nước vì dân là phải được lịng
dân. Hồ Chí Minh đặt vấn đề với cán bộ Nhà nước phải làm sao cho được
lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu, đồng thời chỉ rõ: “muốn được dân yêu,
muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên
hết thảy, phải có một tinh thần chí cơng vơ tư”12. Trong Nhà nước vì dân, cán
bộ vừa là đầy tớ, nhưng đồng thời phải vừa là người lãnh đạo nhân dân. Hai
đòi hỏi này tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng đó là những phản chải cần có
ở người cán bộ nhà nước vì căn. Là đầy tới thì phải trung thành, tận tụy, Cần
kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Là người
lãnh đạo thì phải có trí tuệ hai người, minh min, sáng suốt, nhìn xa trơng rộng,
gan gui nhan tin, trọng dụng hiền tài. Như vậy, để làm người thay mặt nhân
dân phải gồm đủ cả đức và tài, phải vừa hiền lại vừa minh. Phải như thế thì

mới có thể “chẳng những làm những việc trực tiếp có lợi cho dân, mà cũng có
khi làm những việc mới xem qua như là hại đến dân” 13, nhưng thực chất là vì
lợi ích tồn cục, vì lợi ích lâu dài của nhân dân.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn đặc biệt nhấn mạnh đến nghĩa
vụ và trách nhiệm của nhân dân trong đấu tranh, đổi mới, xây dựng đất nước.
Người lưu ý, “Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc” và “Công việc đổi mới, xây
dựng” đều thuộc trách nhiệm, công việc của dân, tức là do dân làm chủ. Trên
thực tế, khi đề cập tới “dân chủ”, người ta thường chỉ nghĩ nhiều, nhấn mạnh
nhiều tới địa vị, lợi ích của dân, quyền là chủ và quyền làm chủ của dân mà ít
khi nói tới chiều cạnh gắn bó hữu cơ với nó là trách nhiệm, nghĩa vụ của dân.
Và dĩ nhiên, đó là một sự khiếm khuyết, có tính phiến diện, một chiều khi bàn
tới nội dung của “dân chủ” và “nước dân chủ”.


16

Chương II: Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
hiện nay .
2.1. Sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước dân chủ vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay
Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán khẳng định: tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng của Đảng, Nhà nước và của chế độ xã hội ta. Đó là kim
chỉ nam đưa đường, dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, dưới
sự lãnh đạo của Đảng đi đến thắng lợi vẻ vang. Do vậy, việc vận dụng tư
tưởng của Người về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là vấn
đề mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, là nguyên tắc căn bản để đảm bảo
cho nhà nước luôn luôn giữ được bản chất cách mạng của mình; giúp chúng ta
tránh được những sai lầm, thiếu sót và xây dựng thành cơng nhà nước pháp

quyền mang những đặc trưng riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội,
truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhận thức sâu sắc về giá trị dân chủ trong mọi thời đại, Đảng và Chính
phủ Việt Nam qua các thời kỳ ln đề cao vị trí, vai trị, quyền và trách nhiệm
của cơng dân trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nhiệm vụ trọng tâm trong
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII nêu rõ tại mục (5): Hoàn thiện đồng bộ
hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã
hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư
pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương
mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ
chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã
hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc14.
2.2. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Đảng phải đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn. Sai một ly thì đi một
dặm, đó là tầm quan trọng của đường lối, chủ trương của Đảng. Đường lối,


17
chủ trương này phải dựa trên nền tảng lý luận Mác - Lênin sáng tạo và tư
tưởng Hồ Chí Minh; phải phù hợp với hoàn cảnh của đất nước từng giai đoạn,
thời kỳ.
Đảng phải tổ chức thực hiện thật tốt đường lối, chủ trương của Đảng.
Phải thể chế hóa và phải biến thành hành động tích cực nhất của tất cả các tổ
chức của hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt quan trọng là thực thi và phát
huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đối với
đội ngũ cán bộ chiến lược, đặc biệt quan trọng nữa là người đứng đầu phải
nêu cao trách nhiệm làm gương tốt để mọi người noi theo.
Đảng phải chú trọng hơn nữa công tác chỉnh đốn Đảng. Sự nghiệp
cách mạng nói chung và sự nghiệp đổi mới đất nước có thành cơng hay khơng

hồn tồn phụ thuộc vào chất lượng, trong đó có sự trong sạch của bản thân
Đảng. Thường xuyên chỉnh đến nội bộ để Đảng xứng đáng là người cầm
quyền, để đảng viên luôn xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân. Phải làm cho Đảng luôn là “Đảng là đạo
đức, là văn minh” như Hồ Chí Minh đã nêu, Cái thiếu nhất hiện nay là sự
thống nhất giữa nói và làm trong Đảng. Phải quán triệt sâu sắc hơn nữa trong
Đảng tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh về thống nhất giữa nói và làm.
Tăng cường cơng tác kiểm tra, giám sát để Đằng sử dụng và phát huy tốt
quyền lực do dân giao phó nhằm phục vụ sự phát triển của dân tộc, đưa đất
nước tiến những bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, làm cho đất nước hùng
cường, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc như tiêu đề mà Hồ
Chí Minh đã viết trong các văn bản hành chính.
2.3. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh
Phải xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. Cần đẩy mạnh
việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà
nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát


18
quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây
dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Phải xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà
nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực
nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi
quyền. Đồng thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và
kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền
và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và
của mỗi cấp chính quyền địa phương.

Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đảng phải tập
trung lãnh đạo về đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ
chế, chính sách về cán bộ, cơng chức, Đẩy mạnh dân chủ hóa cơng tác cán bộ,
quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây
dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp để thực thi đầy
đủ trách nhiệm công vụ, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Thực hiện thí
điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối
tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý. Hồn thiện tiêu chí đánh giá và cơ
chế kiểm tra, giám sát, kiểm sốt việc thực thi cơng vụ; xác định rõ quyền
hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính. Rà sốt, sửa đổi, bổ
sung chính sách đối với cán bộ, cơng chức theo hướng khuyến khích cán bộ,
cơng chức năng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, đạo đức cơng vụ, hồn
thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu
quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế,
chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động
của Nhà nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ơ, lãng phí, quan
liêu. Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà


19
nước phụ thuộc vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự trong
sạch, gương mẫu về đạo đức của những người cầm quyền. Vì vậy, phải ln
nêu cao cảnh giác với những biểu hiện tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ,
công chức, giữ cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh.
Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tiếp tục
nâng cao hiệu quả thực hiện và đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính
sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng

thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ
phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ
trương, chính sách và hệ thống pháp luật; chủ trong lãnh đạo đổi mới, nâng
cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp: các tổ chức
của Đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ pháp luật. Bản chất, tính chất
của Nhà nước gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó,
đến lượt Đằng, một tiền để tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh
của Đảng là yếu tố quyết định cho sự thành công của việc xây dựng Nhà nước
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.4. Liên hệ vấn đề “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân ch ủ
trong cuộc chiến chống “Giặc” Covid-19 hiện nay.
Trong thời đại ngày nay, thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang
phải đối mặt với cuộc chiến chống dịch bệnh Covid-19 tàn khốc. Kể từ đầu
dịch đến nay, theo số liệu của được cập nhật vào 9
giờ ngày 11/11/2021, Việt Nam đã có 992.735 ca nhiễm, với 22.765 ca
tử vong15 . Trong bối cảnh này, một lần nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
trở thành kim chỉ nam soi sáng cho các định hướng về chính sách, chỉ thị,
quyết định của Đảng, Chính phủ Việt Nam trong cơng tác phịng, chống dịch
Covid-19.
2.4.1. Đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà Nước và Chính Phủ
Ngay từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát vào đầu năm 2020, Đảng,
Chính phủ Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Chủ tịch Hồ


20
Chí Minh về dân chủ và muốn chiến thắng đại dịch cần phải dựa vào sức dân,
lịng dân. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đưa ra lời kêu gọi: “…Tồn thể
đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngồi hãy đồn
kết một lịng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả
những chủ trương của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính

phủ, Thủ tướng Chính phủ. Mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận
phịng, chống dịch bệnh”16.
Với sự nhạy bén trong phân tích, nhận định tình hình Đảng, Nhà nước,
Chính phủ đã phát đi một thơng điệp mang tính chiến lược hết sức mạnh mẽ
và sáng suốt: “Chống dịch như chống giặc”. Tập thể các thành viên Chính
phủ làm việc khơng ngơi nghỉ, không phân biệt ngày và đêm để kịp thời ra
các mệnh lệnh ứng phó với diễn biến nhanh chóng, phức tạp của đại dịch. Với
tinh thần đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều
nghị quyết, chỉ thị, văn bản để tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa
phương thực hiện quyết liệt, linh hoạt nhiệm vụ phịng, chống dịch Covid -19
thích ứng với tình hình; huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự
tham gia tích cực của cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân cả nước.
Làn sóng dịch bệnh thứ tư đang bùng lên mạnh mẽ vào giữa năm 2021,
với số ca lây nhiễm và số ca tử vong tăng cao, xuất phát từ tình hình thực tiễn,
các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương đã thực hiện nghiêm túc, kịp
thời Chỉ thị 16 của Thủ tướng chính phủ về giãn cách xã hội từ ngày 23/7 cho
đến nay, nhằm hạn chế tối đa tốc độ lây nhiễm và có thể truy vết tận gốc các
F0, bảo đảm tính mạng, sức khỏe cho người dân và từng bước ổn định xã hội.
Bên cạnh đó là xây dựng Chính phủ và chính quyền các cấp đồn kết,
liêm chính; kỷ luật, kỷ cương; hiệu lực, hiệu quả; năng động, đổi mới sáng
tạo; thấm nhuần phương châm đặt lợi ích Quốc gia, Dân tộc lên trên hết, trước
hết; “dân là gốc” và xuất phát từ quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính
đáng của nhân dân. Càng khó khăn, phức tạp thì càng phải giữ đúng nguyên
tắc, phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể trên tinh thần khiêm tốn, cầu thị, lắng


21
nghe. Bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy thực
tiễn làm thước đo. Chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong bộ máy
nhà nước và hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao.

Để đảm bảo sự công bằng, bình đẳng tiếp cận vắc xin cho người dân
trong tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp như hiện nay, Thủ tướng Chính
phủ yêu cầu Bộ Y tế và các địa phương thực hiện nghiêm yêu cầu phân bổ vắc
xin theo ngun tắc cơng bằng, bình đẳng, cơng khai, minh bạch, linh hoạt,
hiệu quả. Đặc biệt chú trọng chỉ đạo thực hiện chiến dịch tiêm vắc xin bảo
đảm đúng đối tượng, kịp thời, an toàn, hiệu quả, mọi người đều bình đẳng,
cơng bằng trong tiếp cận vắc xin, ưu tiên các đối tượng theo quy định của
Chính phủ. Chấn chỉnh và xử lý ngay những sai phạm (nếu có) trong quá trình
phân bổ và tổ chức tiêm vắc xin.
Trong khi một số quốc gia trên thế giới còn chưa nhận định đúng sự
nguy hiểm của dịch bệnh, cân nhắc giữa lợi ích kinh tế với phịng chống dịch
thì ở một đất nước đang phát triển, kinh tế - xã hội cịn nhiều khó khăn như
Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tuyên bố rất dứt khoát: “Việt
Nam chấp nhận hy sinh lợi ích kinh tế trước mắt để bảo vệ tốt nhất sức khỏe,
tính mạng của người dân”17 .
Tính mạng con người và lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết; “Khơng
để ai bị bỏ lại phía sau”, khơng bỏ sót đối tượng cần cứu trợ, khơng để ai bị
thiếu đói. Các quyết định của Đảng, Chính phủ ngay từ thời điểm đầu tiên
chống dịch đã thể hiện rõ mục tiêu vì sức khỏe nhân dân. Đó cũng là động lực
giúp để toàn dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó qn dân mới
đồn kết một lịng, mn người như một.
2.4.2. Trách nhiệm của nhân dân
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, chưa có cuộc chiến nào
thắng lợi mà khơng có sự đồng lịng, quyết tâm, chung tay đồn kết của nhân
dân. Dân chủ khơng chỉ dừng lại từ phía Đảng, Chính phủ đảm bảo những
quyền lợi cơ bản của công dân mà còn quan trọng hơn cả là ý thức, trách


22
nhiệm mỗi cá nhân trong việc bảo vệ quyền, nghĩa vụ của bản thân và nâng

lên là trách nhiệm với xã hội, cộng đồng trong cuộc chiến Covid-19.
Ý thức và trách nhiệm của cá nhân thể hiện trước hết, đó là chấp hành
nghiêm túc Chỉ thị 16 của Chính phủ về quy định giãn cách xã hội, thực hiện
hiệu quả thông điệp 5K (Khẩu trang – Khử khuẩn – Khoảng cách – Không tụ
tập – Khai báo y tế); tiếp đến là phải tu dưỡng đạo đức tốt, đặc biệt là khơng
lợi dụng tình hình dịch bệnh phức tạp để nảy sinh nhiều hành vi vi phạm pháp
luật: lừa đảo qua không gian mạng, trộm cắp tài sản, cướp giật, kinh doanh
bất hợp pháp, chống lại người thi hành công vụ, làm giấy tờ đi đường giả mạo
để vượt chốt kiểm dịch…góp phần đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Cùng với sức mạnh toàn dân chống “giặc” được nhân lên thì trong khó
khăn, tinh thần “tương thân tương ái” của dân tộc được thắp sáng bằng nhiều
hình ảnh xúc động về sự sẻ chia vật chất với người bị cách ly, đội ngũ làm y
tế, các chiến sĩ nơi tuyến đầu chống dịch hay những người nghèo khó, tạo
hiệu ứng lan tỏa những điều tốt đẹp trong xã hội. Những hành động đẹp, trọn
nghĩa vẹn tình của nhân dân ta như “Đi chợ hộ” hay “Cây ATM gạo” - mơ
hình độc đáo, có một khơng hai trên thế giới, giúp cho nhiều gia đình khó
khăn khơng bị “đứt bữa”. “Ai có mang đến chia sẻ, ai khó lấy đi một phần” là
thông điệp giản dị, gần gũi, nhưng có sự động viên rất lớn để cộng đồng
chung tay, góp sức cùng nhau vượt qua khó khăn.
Như vậy, qua các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ
quốc của nhân dân Việt Nam, đến cuộc chiến “không tiếng súng” nhưng nguy
hiểm bội phần trước sự bí hiểm của chủng vi rút mới, một lần nữa tinh thần
bài học của Bác về dân chủ lại được khẳng định mạnh mẽ. Với truyền thống
yêu nước nồng nàn, ý chí và quyết tâm của dân tộc là phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đang nỗ lực mạnh
mẽ, quyết tâm chiến thắng đại dịch Covid-19, đảm bảo sự bình yên, hạnh
phúc của nhân dân, góp phần từng bước ổn định tình hình kinh tế, xã hội của
đất nước trong giai đoạn tới.



23
2.5. Liên hệ trách nhiệm của bản thân
Bản thân tôi là công dân Việt Nam, khi phải chứng kiến đồng bào mình
đang đau đáu, oằn mình vì dịch bệnh, trong lịng tơi lại sục sơi khí thế muốn
đứng lên chiến đấu, san sẻ nỗi đau với đồng bào mình. Dẫu không thể lăn xả
vào vùng dịch, nhưng tôi ý thức được rằng bằng những hành động nhỏ như
thực hiện mệnh lệnh “Ai ở đâu, ở yên đấy”, khuyến cáo người thân, bạn bè
thực hiện thông điệp 5K, hay đơn giản là những câu thăm hỏi, động viên
khích lệ người dân vùng dịch,...cũng góp phần đẩy lùi dịch bệnh. Bên cạnh
đó, bằng những kiến thức về Báo chí - Truyền thơng mà mình được học, tơi
vận dụng vào cuộc chiến chống tin giả ngày càng tràn lan trên mạng. Bằng
việc chia sẻ nguồn thơng tin chính thống cho người dân đọc, hay báo cáo, lên
án những đối tượng có hành vi cố ý đăng tải tin giả, tin phản động, ảnh hưởng
xấu đến Đảng, Chính phủ, Nhà nước ta. Mỗi ngày tôi sẽ cố gắng tham gia
chống dịch bằng những hành động nhỏ nhưng ý nghĩa đó. Tơi mong rằng, mỗi
chúng ta sẽ là những người dân có trách nhiệm vì cộng đồng, thực sự tỉnh táo,
thông thái, quyết tâm khi đối mặt với dịch bệnh. Bởi, đồn kết khơng phải là
mỹ từ để hơ khẩu hiệu, mà đồn kết là thực tế hiển hiện sinh động và là yêu
cầu gắt gao ở thời điểm hiện tại. Đó là ý thức công dân, là trách nhiệm xã hội,
là kỷ luật, tự giác, là đồng lịng vì cái chung và cũng vì mối an nguy của riêng
mỗi người. Có như thế sức mạnh dân tộc mới được nhân lên, đất nước mới
sớm đẩy lùi được dịch bệnh.
Qua đó, những sinh viên đang là đảng viên của Đảng cần chú trọng
thực hiện thật tốt đường lối, quan điểm, chủ trương, điều lệ Đảng, phải là
công dân gương mẫu và là sinh viên tốt. Những sinh viên chưa là đảng viên
cần nghiên cứu, học tập thật tốt tư tưởng Hồ Chí Minh, phấn đấu trở thành
đảng viên hoặc người tích cực ủng hộ Đảng, góp phần đưa nước nhà sánh vai
với các cường quốc năm châu. Hơn bao giờ hết, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước dân chủ sẽ mãi là kim chỉ nam để Đảng, Chính phủ, nhân dân ta kế thừa
và phát huy hiệu quả trong cuộc chiến đấu với mọi kẻ thù.



24

PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy, những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ
có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến thắng lợi to lớn của cách mạng Việt
Nam trên chiến trường. Tư tưởng của Bác là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình
cách mạng, được Đảng, Nhà nước, Nhân dân ta vận dụng hiệu quả vào công
cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân ngày nay.
Trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc ta, từ thế hệ này đến
thế hệ khác đã hy sinh xương máu cho độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia,
thốt khỏi ách áp bức, nơ lệ. Tinh thần “khơng có gì q hơn độc lập tự do”,
trong đó có lợi ích của cả cộng đồng cũng như lợi ích và quyền tự do của từng
cá nhân. Đất nước có được giải phóng, dân tộc có được độc lập và đi lên chủ
nghĩa xã hội thì quyền con người mới được phát huy và được đảm bảo trọn
vẹn nhất.
Trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và
trong nước cùng những phát triển mới của hình thái chiến tranh tương lai,
chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh để đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.8, tr.262.
[2] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.64
-65.
[3] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.10, tr.572
[4] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.434
[5] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.9, tr.81

[6] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.375
[7] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.75.
[8] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.9, tr.258.


25
[9] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.9, tr.258
[10] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12,
tr.527
[11] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.21
[12] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.52.
[13] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.285
[14]

/>
bieu-toan-quoc-lan-thu-XIII-cua-Dang/424239.vgp
[15] Bộ y tế, Số liệu thống kê ca nhiễm Covid-19, />[16]

/>
thu-lay-dong-trai-tim-moi-nguoi-dan-i622294/
[17]

/>
te-de-bao-ve-suc-khoe-tinh-mang-cua-nhan-dan-548033.html


×