ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN XUÂN TRUNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO
VÀ SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ VÀO CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN XUÂN TRUNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO
VÀ SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ VÀO CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
Chuyên ngành : TRIẾT HỌC
Mã số : 602280
Người hướng dẫn:
PGS.TS. PHẠM NGỌC ANH
HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO
6
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo ở
Việt Nam
6
1.2. Nội dung đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
13
1.3. Nguyên tắc, phương pháp đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ
Chí Minh
34
1.4. Ý nghĩa của vấn đề đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí
Minh
51
Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT
TÔN GIÁO TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
53
2.1. Tình hình đoàn kết tôn giáo ở nước ta và những vấn đề đặt ra
53
2.2. Phương hướng và một số giải pháp cơ bản để xây dựng, củng cố,
phát triển khối đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong
thời kỳ hiện nay.
63
KẾT LUẬN
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
79
1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Có một thời gian dài, nhiều người đã đánh giá thấp vai trò, vị trí của tôn
giáo. Họ cho rằng cùng với sự phat triển chín muồi của chủ nghĩa xã hội thì tôn
giáo sẽ nhanh chóng mất đi. Nhưng thực tế đã chứng minh ngược lại: Tôn giáo
không những không mất đi mà trong những năm tháng cuối thế kỷ XX và đầu
thế kỷ XXI, tôn giáo ở nhiều nơi đã hồi sinh trở lại và phát triển mạnh mẽ, kèm
theo đó là những vấn đề phức tạp cần được giải quyết.
Tình hình phát triển tôn giáo ở Việt Nam cũng không phải là trường hợp
ngoại lệ, đặc biệt là những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới dân chủ hóa,
sinh hoạt tôn giáo bắt đầu hồi sinh và có xu hướng phát triển mạnh hơn trước với
nhiều màu sắc mới. Sự phát triển mạnh mẽ của tôn giáo tất yếu sẽ nảy sinh
những vấn đề phức tạp về văn hóa - xã hội, an ninh quốc gia đòi hỏi chúng ta
phải có đường lối, chủ trương, chính sách giải quyết thỏa đáng. Hơn nữa, trong
sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh hiện nay, một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặt ra là đoàn kết dân
tộc, đoàn kết tôn giáo nhằm phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân,
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chống mọi âm mưu chia rẽ dân tộc, lợi dụng tôn
giáo của các thế lực thù địch, phản động chống phá sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn khẳng định: Cùng với chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và
toàn dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hề thống lý luận toàn diện sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề đại đoàn kết
dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Trên cả bình diện lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh
đã có những quan điểm độc đáo, đặc sắc, những cách làm hiệu quả, thiết thực để
2
xây dựng khối đại đoàn kết dan tộc, đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam. Những quan
điểm và cách làm sáng tạo này tạo nên di sản quý báu mà Hồ Chí Minh để lại
cho toàn Đảng, toàn dân ta, cần phải biết kế thừa, phát huy qua các giai đoạn
cách mạng, nhất là ở những giai đoạn có nhiều thay đổi có tính chất bước ngoặt,
nhiều vấn đề xuất hiện đòi hỏi phải giải quyết theo một tinh thần, nhận thức mới.
Nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc nói chung và đoàn kết tôn giáo nói riêng, quán triệt sâu sắc
tư tưởng này vào các chủ chương chính sách và công tác tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới là vấn đề có giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn
cấp bách. Xuất phát từ những lý do cấp thiết trên, tôi đã chọn đề tài “Tư tưởng
Hồ Chính Minh về đoàn kết tôn giáo và sự vận dụng tư tưởng đó vào công
cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ triết học của mình để góp phần thực hiện nhiệm vụ trên.
Bản thân tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu đã rất tâm đắc với đề
tài này và dành nhiều công sức cho nó. Song, do trình độ năng lực còn nhiều hạn
chế, cộng với sự chật hẹp về quỹ thời gian.vv. do đó những nội dung đề cập
trong luận văn còn có khiếm khuyết là điều khó tránh khỏi. Tác giả rất mong
nhận được sự góp ý, phê bình của các thầy cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp để lần
sau nếu có dịp trở lại tôi sẽ cố gắng hoàn thiện đề tài của mình một cách tốt hơn.
2.Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng đại đoàn kết nói chung và đoàn kết tôn giáo nói riêng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là đề tài lớn đang được nhiều người quan tâm nghiên cứu,
chẳng hạn như: “Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh” do Phó giáo sư Phùng
Hữu Phú chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. “Hồ Chí Minh về vấn
đề tôn giáo, tín ngưỡng” của Viện nghiên cứu tôn giáo thuộc trung tâm khoa
học xã hội và nhân văn Quốc gia, do Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản, năm
3
1998. Đây là công trình đầu tiên của một tập thể tác giả đã sưu tầm và tuyển
chọn những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh về tôn giáo tín ngưỡng. Công
trình này còn có phần biên niên sự kiện Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng
(tr.359 - 442) và bảng tra cứu. Công trình đã cung cấp nguồn tư liệu quý, đáng
tin cậy đối với bạn đọc và các nhà khoa học khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và đoàn kết tôn giáo nói riêng.
Một công trình quan trọng khác là kỷ yếu đề tài “Chủ nghĩa Mác - Lênin
về vấn đề tôn giáo” của Trung tâm khoa học về tín ngưỡng tôn giáo, thuộc Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998. Đây là tài liệu tham khảo tốt
cho những người đang nghiên cứu đề tài này. Các tác giả của công trình đã giới
thiệu tổng quát những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo.
Trong cuốn “Thêm những hiểu biết về Hồ Chí Minh”, Nxb Lao động, Hà
Nội, năm 1999, tác giả Đỗ Quang Hưng đã đề cập đến “Vấn đề tôn giáo tín
ngưỡng trong tư tưởng Hồ Chí Minh”. Hoăc cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo và công tác tôn giáo”, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, năm 2003 do Lê Hữu
Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ đồng chủ biên đã đề cập tới rất nhiều khía cạnh, góc
độ khác nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo.
Ngoài ra, có thể kể đến các bài nghiên cứu đăng trên các báo và tạp chí
sau đây: Đỗ Quang Hưng (1999), “Vấn đề tôn giáo tín ngưỡng trong tư tưởng
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1/1999; Nguyễn Đức Lữ
(3/1995), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đoàn kết lương - giáo”, Tạp chí Lịch sử
Đảng; Nguyễn Ngọc Hà (1/1996) “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
tôn giáo”, Tạp chí Lịch sử Đảng; Lê Đại Nghĩa (2001), “Về tư tưởng đoàn kết
lương giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số
1/2001
4
Các công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tài liệu quý giá giúp tôi kế
thừa được những thành quả cả về nội dung và phương pháp. Tuy nhiên, đó cũng
chỉ là những ý kiến đơn lẻ trong các bài viết ngắn và phân tán; hoặc là những ý
kiến đánh giá, nhìn nhận vấn đề dưới góc độ hẹp riêng của từng tác giả mà thôi.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề này vẫn cần phải tiếp tục mở rộng và đi sâu hơn nữa.
Đặc biệt là sự vận dụng tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay vẫn còn là một vấn đề đòi hỏi phải được quan tâm và làm sáng tỏ
toàn diện. Vì thế, tôi tiếp tục nghiên cứu”Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn
giáo và sự vận dụng tư tưởng đó vào công cuộc đổi mới hiện nay”, đề tài luận
văn không trùng lặp với các công trình đã công bố trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết tôn giáo ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp, nội
dung nhằm quán triệt và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn
giáo.
- Nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết tôn giáo ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn
giáo ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm quán triệt và phát huy tư tưởng đoàn kết
tôn giáo của Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề tôn giáo tín ngưỡng là một lĩnh vực
rộng, đề cập tới nhiều nội dung. Ở đây, luận văn chỉ tập trung vào tìm hiểu nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo (chủ yếu là giai đoạn 1945-
1969), các giá trị tích cực của tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh và rút ra các
giải pháp nhằm quán triệt và phát huy tư tưởng này trong sư nghiệp đổi mới hiện
nay ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước ta về
tôn giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và logic,
phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối chiếu - so sánh phương pháp
văn bản học và phân tích tình huống để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của
luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đã trình bày một cách tương đối có hệ thống và toàn diện
những nội dung cơ bản về đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái
quát những sáng tạo lý luận đó của Người trong lĩnh vực này.
- Đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6
Luận văn góp phần khẳng định tính cách mạng và khoa học của tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo và ý nghĩa chỉ đạo của tư tưởng này trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay ở Việt Nam.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng
dạy và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo của các trường Chính trị và các
cơ quan chuyên ngành tôn giáo hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 02 chương, 07 tiết.
7
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo ở
Việt Nam
1.1.1.Cơ sở lý luận
Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc
Việt Nam trong lịch sử. Truyền thống đó là kinh nghiệm, là tư tưởng để người
Việt Nam tổ chức, tập hợp lực lượng nhằm dựng nước và giữ nước trong suốt
chiều dài lịch sử dân tộc.
Việt Nam là một quốc gia có lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước hết sức vẻ vang, có đặc trưng vị trí địa lý là một dải đất hẹp, chạy
dài theo bờ biển, khí hậu, tài nguyên nhiệt đới có ý nghĩa chiến lược cả về kinh
tế và an ninh quốc phòng. Bên cạnh nhiều mặt thuận lợi do thiên nhiên ưu đãi,
người Việt cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách, đó là sự khắc nghiệt
do tự nhiên mang lại như hạn hán, bão lụt và các cuộc xâm lược của các thế lực
ngoại bang lớn mạnh. Cuộc đấu tranh chinh phục cải tạo tự nhiên như đắp đê, trị
thủy và đấu tranh chống ngoại xâm đã tạo nên những giá trị tinh thần cao quý.
Đó là lòng yêu nước nồng nàn, tính cố kết cộng đồng chặt chẽ, ý chí độc lập tự
chủ, lòng dũng cảm, đức tính cần cù, sáng tạo, năng động và lạc quan.
Trong các giá trị truyền thống đó, truyền thống đoàn kết gắn bó của dân
tộc được thể hiện một cách tập trung và nổi bật nhất, nó trở thành giá trị bền
8
vững nhất của dân tộc, luôn luôn được gìn giữ và phát triển từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Nó ăn sâu vào tiềm thức và trở thành tình cảm tự nhiên.
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng”
Đã trở thành triết lý nhân sinh:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao”
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa truyền thống quý báu đó của dân tộc.
Người đã khái quát: “Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần
yêu nước lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước” 39,171. Bên cạnh việc tiếp thu truyền thống đấu tranh của dân tộc Việt
Nam, trên con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp thu nhiều giá trị tinh hoa
của các nền văn hóa Đông - Tây. Người đã tiếp thu những giá trị tích cực của
đạo đức Nho giáo. Người đã nhắc đến tư tưởng “thế giới đại đồng” của Khổng
Tử và gọi ông là “Ông Khổng Tử vĩ đại”. Bên cạnh những giá trị nhân văn tích
cực của Nho giáo, Hồ Chí Minh còn kế thừa những tư tưởng từ bi, hỷ xả, vô ngã
vị tha và tư tưởng “ lục hòa” của nhà Phật. Người tiếp thu tư tưởng về tập hợp
lực lượng cách mạng nổi tiếng đương thời như Mahatma Gandhi, Tôn Trung Sơn
và nhất là những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về đoàn kết tập hợp lực
lượng cách mạng với những khẩu hiệu nổi tiếng, có tính chất chiến lược như:
“Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại” (C. Mác). “Vô sản tất cả các nước và các
dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại” (Lênin).
Đặc điểm khoan dung trong tôn giáo Việt Nam cũng là cơ sở quan trọng
để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo. Có rất nhiều cách hiểu
khác nhau về khái niệm khoan dung. Song, về bản chất khoan dung là thái độ tôn
9
trọng, cách nhìn rộng lượng đối với những giá trị khác biệt giữa các quốc gia,
dân tộc (về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, các quan điểm chính trị, triết học ).
Nói cách khác, khoan dung là thái độ hài hòa trong khác biệt để cùng nhau tồn
tại và phát triển trong hòa bình.
Do hoàn cảnh địa lý, lịch sử, văn hóa cũng như phương thức sản xuát khác
nhau đã quy định tâm thức tôn giáo của người Việt Nam khác tâm thức của
người phương Tây. “Người An Nam không có linh mục, không có tôn giáo theo
cách nghĩ của châu Âu”. Ở đấy không có ranh giới rõ rệt như Đạo và Đời, trái
lại có sự khoan dung hòa quện giữa các tôn giáo theo phương châm hòa nhi bất
đồng. Người cũng đã chỉ ra rất chính xác: “Việc cúng bái tổ tiên hoàn toàn là
một hiện tượng xã hội những người già trong gia đình hay các già làng là
những người thực hiện nghi lễ tưởng niệm” 38,479.
Người Việt Nam có khả năng tiếp biến rất cao văn hóa ngoại sinh. Từ Nho
giao, Phật giáo đến Thiên chúa giáo khi vào Việt Nam đều bị bản địa hóa
thông qua lăng kính của chủ nghĩa yêu nước truyền thống.
Sự khoan dung tôn giáo đã quy định cách tiếp cận tôn giáo ở Việt nam
không theo con đường cạnh tranh hoặc đối kháng. Giữa các tôn giáo, tín ngưỡng
có tính đan xen, hòa đồng và thường diễn ra thông qua sự tồn tại để thích ứng,
tích lũy và đào thải dần dần những cái không phù hợp. Đó là sự khoan dung giữa
tôn giáo dân tộc với tôn giáo ngoại nhập. Đặc điểm đó đã phản ánh đúng tâm
thức tôn giáo của người Việt Nam, đồng thời là cơ sở để nước ta tồn tại nhiều tôn
giáo, tín ngưỡng khác nhau. Trong bối cảnh ấy, việc thắt chặt mối quan hệ, đoàn
kết các tôn giáo lại với nhau để cùng phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là
cực kỳ quan trọng và cần thiết, trở thành nhu cầu tồn tại và chấn hưng đất nước.
Qua nhiều thế kỷ, Việt Nam đã có “Tam giáo đồng nguyên” (đó là Nho
giáo, Phật giáo, Lão giáo). Ba tôn giáo này không mâu thuẫn, đối chọi mà bổ
10
sung, hỗ trợ cho nhau. Nho giáo lo tổ chức trật tự xã hội; Đạo giáo chăm lo thể
xác con người thư thái, khỏe mạnh; Phật giáo lo cứu khổ và những chiêm
nghiệm tâm linh. Ba tôn giáo này đều được người Việt Nam tôn trọng vì giáo lý
không đi ngược lại đạo đức căn bản của dân tộc, trái với thuần phong mỹ tục của
nhân dân, không trái với lợi ích của cộng đồng, của đất nước. Có thể nói, tính
bao dung tín ngưỡng, tư tưởng tự do tín ngưỡng thuộc nếp nghĩ, nếp sống bình
thường của người Việt Nam là cơ sở của sự đoàn kết lương - giáo trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước
Như vậy truyền thống khoan dung trong tôn giáo Việt nam là một trong
những cơ sở hình thành tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Người đã tiếp thu sâu sắc tư tưởng khoan dung tôn giáo của dân tộc trên một tầm
cao mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời Người xử lý một cách sáng tạo và
linh hoạt vấn đề tôn giáo để đảm bảo đoàn kết tôn giáo, thực hiện mục tiêu cao
cả của cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, kiên quyết chống lại
mọi âm mưu của các thế lực thù địch chia rẽ tôn giáo hòng phá hoại cách mạng.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Các giai cấp thống trị phản động không chỉ ở Việt Nam mà ở cả trên thế
giới đều lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng. Chức năng của tôn giáo là
đền bù hư ảo, khỏa lấp sự thiếu hụt về nhận thức và là nhu cầu về tinh thần của
một bộ phận đông đảo nhân dân trong xã hội. Giai cấp thống trị đã lợi dụng các
tổ chức tôn giáo để “ru ngủ” phong trào đấu tranh của quần chúng hoặc mê hoặc
quần chúng để dễ bề cai trị. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen: tôn giáo “ngày càng
trở thành vật sở hữu độc quyền của các giai cấp thống trị, chúng dùng nó làm
phương tiện cai trị đơn giản nhằm đàn áp các giai cấp lớp dưới. Hơn nữa, mỗi
giai cấp thống trị đều sử dụng tôn giáo phù hợp với mình” 78, 448.
11
Ở Việt Nam, tôn giáo tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh đất nước trải
qua những chặng đường dài phải chiến đấu chống lại các thế lực đế quốc xâm
lược cực kỳ hung bạo. Do đó, tôn giáo không thể tách rời chính trị, càng không
thể đứng ngoài chính trị. Tín đồ các tôn giáo là một bộ phận trong quần chúng
nhân dân, đã cùng với cộng đồng dân tộc đấu tranh để dựng nước và giữ nước.
Những kẻ thù xâm lược đã cấu kết chặt chẽ với bè lũ tay sai trong nước, dùng
mọi thủ đoạn lợi dụng tôn giáo để thực hiện âm mưu chia rẽ khối đoàn kết dân
tộc, phục vụ cho mục đích chính trị của chúng.
Khi xâm lược Việt Nam, các thế lực đế quốc đều tìm mọi thủ đoạn lợi
dụng các tôn giáo, hòng biến các tôn giáo Việt Nam thành lực lượng đối lập với
dân tộc, chống lại cách mạng. Đạo Phật, đạo Công giáo, đạo Cao đài, đạo Hòa
hảo, đạo Tin lành ít nhiều ở mức độ khác nhau đều có một bộ phận bị lôi kéo
mua chuộc.
Đạo Phật được du nhập rất sớm vào Việt Nam và từng có một vai trò nhất
định trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng từ khi thực dân Pháp vào
xâm lược nước ta, chúng tìm mọi cách để thực hiện âm mưu chia rẽ, lôi kéo Phật
giáo vào cuộc chiến tranh chống lại dân tộc, phản lại cách mạng.
Thực dân Pháp đã điều chỉnh chính sách kỳ thị tôn giáo, cổ xúy phong trào
“chấn hưng Phật giáo” với ý đồ khai thác và phát triển các khuynh hướng tiêu
cực lẫn lộn trong tư tưởng, giáo lý Phật như hữu thần, định mệnh để ru ngủ
nhân dân.
Thực dân Pháp đã thực hiện mưu đồ chia rẽ Phật giáo và lôi kéo phật tử
bằng thủ đoạn tinh vi, sử dụng những tên tay sai trung thành đứng ra thành lập
nhiều tổ chức Phật giáo. Ngay từ năm 1922, chúng đưa Hoàng Trọng Phu và
Nguyễn Năng Quốc ra lập “Hội chấn hưng Phật giáo” ở Bắc kỳ, đăt trụ sở ở chùa
Quán sứ. Ở Trung bộ, năm 1933, chúng đưa anh em Quang Thiệt, Lê Quang
12
Phước ở Sở mật tham Trung kỳ ra lập “Hội chấn hưng Phật giáo Trung kỳ”, đặt
trụ sở ở chùa Từ Đàm Thực dân Pháp muốn thông qua các tổ chức Phật giáo do
chúng lập ra để vừa xoa dịu các phong trào đấu tranh của quần chúng, vừa lợi
dụng tổ chức này để chống phá lực lượng cách mạng.
Khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ đã tìm cách đưa hàng triệu tín đồ
đồng bào công giáo di cư do Thích Tâm Chân đứng đầu
Trong các tôn giáo ở Việt Nam, đạo công giáo là một trong những tôn
giáo có nhiều vấn đề phức tạp nhất. Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
quá trình truyền bá, phát triển và tồn tại, đạo Công giáo ở Việt Nam bao giờ
cũng hàm chứa những yếu tố chính trị, xã hội rất quan trọng đòi hỏi phải tập
trung giải quyết. Có thể nói rằng, giải quyết vấn đề kẻ thù lợi dụng đạo Công
giáo nhằm phá hoại lưc lượng cách mạng của nhân dân là nhiệm vụ khó khăn
nhất trong toàn bộ qúa trình giải quyết vấn dề tôn giáo ở nước ta.
Điều này đã được chứng minh qua các giai đoạn lịch sử của dân tộc trước
đây:
Ngay từ giữa thế kỷ XVII, để thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam, thực
dân Pháp đã cấu kết với hội Thiên chúa giáo ở Pháp, cử nhiều giáo sỹ đến Việt
Nam để truyền giáo. Các giáo sỹ này là “đội quân tiên phong” của các binh đoàn
viễn chinh đã sẵn sàng hiến thân vì lợi ích của nhà nước thực dân, hòng phục vụ
đắc lực cho âm mưu và hoạt động xâm lược nước ta của thực dân Pháp. Athomai
đã dẫn lời của giáo sỹ AlexangĐrot kêu gọi rằng: “Đây là vị trí cần phải chiếm
lấy và chiếm được vị trí này, thương gia Châu Âu sẽ tìm được một nguồn tài
nguyên và lợi nhuận dồi dào” 79, 13. “Sự gắn bó giữa truyền giáo và thực dân
ở Việt Nam từ giữa thế kỷ XVII trở đi cho đến hết thế kỷ XIX, tuy có lúc chặt
chẽ, có lúc lỏng lẻo, song xét đến cùng chỉ là hai động thái thể hiện một xu thế
duy nhất, xu thế bành trướng của chủ nghĩa tư bản đến Việt Nam, trong đó
13
truyền giáo đóng vai trò đắc lực để thực dân Pháp chiếm Việt Nam làm thuộc
địa” 56,59.
Như vậy, rõ ràng trong từng thời kỳ lịch sử, đặc biệt là thời kỳ chống Pháp
và chống Mỹ, các thế lực thực dân đế quốc luôn lợi dụng tôn giáo dưới mọi hình
thức, thủ đoạn tinh vi xảo quyệt nhằm chia rẽ khối đoàn kết dân tộc và tôn giáo;
gây hiềm khích kỳ thị, chia rẽ giữa các tôn giáo để tiến tới mục tiêu chống phá
sự nghiệp cach mạng của nhân dân ta.
Bên cạnh đó, thực tiễn các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp những
năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam do các sỹ phu, văn thân yêu
nước và các phong trào đấu tranh do các trí thức mới tổ chức lãnh đạo nổi lên
nhưng cuối cùng đều thất bại. Trong rất nhiều nguyên nhân thất bại, có một
nguyên nhân cực kỳ quan trọng là do chưa đoàn kết được đông đảo mọi lực
lượng trong xã hội (trong đó có đồng bào theo tôn giáo) tham gia ủng hộ các
cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giữ gìn giang sơn, gấm vóc của tổ tiên.
Trước thực trạng đó, việc đoàn kết đồng bào các tôn giáo, đoàn kết giữa
đồng bào theo đạo và không theo đạo vì sự nghiệp giải phóng dân tộc là một
nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Đó cũng chính là cơ sở thực tiễn để hình thành tư
tưởng đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã kế thừa một cách sáng tạo quan điểm
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề tôn giáo vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh có hiểu biết sâu sắc về vấn đề tôn giáo
cùng với tính phức tạp và nhạy cảm của nó. Người cho rằng hoạt động lợi dung
tôn giáo của giai cấp thống trị để áp bức nhân dân để bảo vệ lợi ích của chúng là
vấn đề mang tính phổ biến trong xã hội có giai cấp ở những thời kỳ lịch sử khác
nhau. Người đã khẳng định: “Những ông vua tôn sùng Khổng Tử không phải vì
ông không tôn sùng cách mạng, mà còn vì ông tiến hành một cuộc tuyên truyền
14
mạnh mẽ có lợi cho họ. Họ khai thác Khổng giáo như bọn đế quốc khai thác Kitô
giáo” 37, 425.
Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ vấn đề kẻ địch lợi dụng tôn giáo để phá
hoại cách mạng nước ta. Trên cở sở vạch ra những hành vi lợi dụng tôn giáo của
thực dân, đế quốc và các thế lực phản động dưới nhiều hình thức rất tinh vi khác
nhau, Người đã lý giải những nguyên nhân cơ bản của tình hình đó. Đồng thời,
đề ra đường lối chính sách và phương pháp giải quyết vấn đề tôn giáo theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người đã thực hiện một cách sáng tạo tư tưởng
sau đây của Lênin: “Đấu tranh chống các hành vi tôn giáo phải cực kỳ thận
trọng, trong cuộc đấu tranh này, ai làm tổn hại đến tình cảm tôn giáo, người đó
sẽ bị thiệt hại lớn. Cần phải đấu tranh bằng tuyên truyền, bằng giáo dục. Nếu
hành động thô bạo, chúng ta sẽ làm cho quần chúng tức giận; hành động như vậy
sẽ gây thêm chia rẽ trong quần chúng về vấn đề tôn giáo, mà sức mạnh của
chúng ta là sức mạnh đoàn kết” 77, 521.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc âm mưu thâm độc của thực dân, đế quốc và
bọn tay sai phản động trong việc lợi dụng tôn giáo phá hoại sự nghiệp cách mạng
ở nước ta, Hồ Chí Minh đã đề ra một chiến lược cách mạng đúng đắn - chiến
lược đại đoàn kết toàn dân trong đó đoàn kết tôn giáo giữ một vị trí đặc biệt quan
trọng.
Qua sự trình bày trên ta thấy: tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
ở Việt Nam được hình thành từ những nhân tố cơ bản: Truyền thống đoàn kết,
khoan dung tôn giáo của dân tộc; thực tiễn lịch sử đấu tranh của nhân dân chống
lai âm mưu lợi dụng tôn giáo, chia rẽ tôn giáo để chống phá cách mạng của các
lực lượng bè lũ tay sai. Đồng thời trên nền tảng tư tưởng chủ nghia Mác - Lênin,
căn cứ vào tình hình thực tiễn quốc tế và cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
đề ra tư tưởng đoàn kết tôn giáo trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình.
15
Đây là một tư tưởng sâu sắc, khoa học, giàu tính cách mạng và thực tiễn của
Người trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chống lại mọi sự kỳ thị tôn giáo,
củng cố khối đoàn kết toàn dân, tăng cường nguồn lực nội sinh của dân tộc
trong cuộc cách mạng vĩ đại nhất của lịch sử dân tộc. Vì thế, đoàn kết tôn giáo
làm thành một nội dung không thể thiếu được của chủ nghĩa nhân văn và tinh
thần khoan dung Hồ Chí Minh - những giá trị làm nên sức hấp dẫn, sức sống và
năng lực phát sáng trong tư tưởng của Người.
1.2. Nội dung đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1. Đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo
Đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo khac nhau về
quan niệm tâm linh, đức tin và hoạt động theo những thể chế và thiết chế văn
hóa - xã hội khác nhau. Nhưng dưới ách thống trị của thực dân và đế quốc, họ
đều bị bóc lột và chia rẽ sâu sắc. Chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã để lại hậu quả nghiêm trọng, làm suy yếu khối đoàn
kết cộng đồng, trong đó có vấn đề đoàn kết tôn giáo. Trong vấn đề đoàn kết tôn
giáo thì vấn đề đoàn kết lương giáo là vấn đề trọng tâm được Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm và kiên trì thực hiện.
Theo quan niệm quen thuộc của nhân dân, lương nghĩa là lương thiện,
nhằm chỉ bộ phận theo “đạo nhà” như Nguyễn Đình Chiểu đã viết, để phân biệt
với bộ phận Công giáo. Theo các sách xuất bản của Viện nghiên cứu tôn giáo,
gần đây, lương được thay bằng bộ phận không công giáo hay Kitô giáo, bao hàm
cả những người theo đạo Phật, đạo tổ tiên. Như vậy, đoàn kết lương giáo là đoàn
kết giữa các tầng lớp nhân dân với đồng bào công giáo.
Trong lịch sử cận hiện đại của dân tộc, thời kỳ cuối thế kỷ XIX, vấn đề
đoàn kết lương giáo đã được các sỹ phu yêu nước đề cập đến. Tiêu biểu trong số
đó là Phan Bội Châu. Khác với các phong trào chống Pháp thời kỳ Văn Thân,
16
Cần Vương trước kia, Phan Bội Châu đã đặt vấn đề tôn giáo trong vấn đề dân
tộc. Ông cho rằng: “Đồng bào công giáo đều anh em ta cả”. Vì vậy, giáo cũng
như lương, ai cũng có lòng yêu nước. Ngay từ thời đó, ông đã nhận thức được
“yêu nước và kính Chúa” gắn liền với nhau. Phan Bội Châu đã kêu gọi lương
giáo đoàn kết và tin tưởng ở khối đoàn kết đó.
“Bởi vì ta lại với ta
Lẽ đâu lương giáo toan là hại nhau
Suy một bụng đồng bào tương ái
Người cùng người ai dại gì đâu
Đã là đồng chủng đồng cừu
Yêu nhau thì quyết cứu nhau phen này” 64, 57 - 58.
Tuy nhiên, do hạn chế tầm nhìn của thời đại và nhãn quan chính trị, tư
tưởng đoàn kết của Phan Bội Châu không tránh khỏi những điều bất cập. Ông
không đặt ra vấn đề phải phân biệt rõ ràng giữa người dân Công giáo yêu nước
chân chính với kẻ đội lốt thiên chúa giáo cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp.
Trong vấn đề đoàn kết lương giáo có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người dầu tiên thực hiện thành công chủ trương, chính sách đoàn kết lương giáo.
Người kêu gọi đoàn kết lương giáo không chỉ nhằm xóa đi nhiều thành kiến vốn
có trong quá khứ mà còn nhằm chống lại chính sách chia rẽ lương giáo nguy
hiểm của bọn thực dân, phong kiến; nhằm tăng cường lực luợng đáp ứng những
yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, không chỉ kháng chiến mà cả kiến quốc,
không chỉ trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà cả trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Để phát huy sức mạnh của đoàn kết lương giáo chống lại âm mưu chia rẽ
phá hoại cách mạng của kẻ thù, ngay tại cuộc họp đầu tiên của hội đồng Chính
phủ cách mạng lâm thời ngày 3/ 9/1945, khi đề cập đến nhiệm vụ cấp bách của
17
Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ quyết tâm và
lập trường của Chính phủ đối với vấn đề tôn giáo. Người nói: “Thực dân và
phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào công giáo và đồng bào lương để
dễ bề thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và lương giáo
đoàn kết” 39, 9.
Xuất phát từ nhiệm vụ bức xúc của cách mạng dân tộc dân chủ, Hồ Chí
Minh đã đưa ra lời kêu gọi toàn thể đồng bào các dân tộc Việt Nam, trong đó có
đồng bào các tôn giáo hãy đoàn kết lại để cùng nhau thực hiện cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc. Ngày 19/12/1946, trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Hỡi đồng bào
Chúng ta phải đứng lên
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo,
đảng phái dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ quốc ” 39, 480.
Đối xử bình đẳng, dân chủ về các quyền và nghĩa vụ của người theo tôn
giáo và không theo tôn giáo cũng là một biểu hiện quan trọng của đoàn kết lương
giáo. Trong cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, Hồ Chí Minh
khẳng định:
“Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền bầu cử, không phân biệt
giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống” 39, 8.
Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện Việt Nam, để cách mạng thắng lợi,
phải đoàn kết tất cả những người Việt Nam yêu nước, phải đoàn kết lương giáo
trong một mặt trận dân tộc thống nhất để giành cho được độc lập của dân tộc.
Theo Người, những người Việt Nam yêu nước, mặc dù có thế giới quan khác
nhau, có lợi ích cơ bản khác nhau, thậm chí đối lập nhau vẫn phải tiến hành
18
chiến lược đoàn kết và có thể đoàn kết được. Có thể thực hiện thắng lợi chiến
lược đó bởi mọi người Việt Nam đều yêu nước, mọi tín đồ tôn giáo chân chính
đều có chung mong muốn mình được tự do, hạnh phúc, đều muốn nước nhà
được độc lập.
Ưu tiên giải quyết lợi ích dân tộc, kết hợp hài hòa với việc giải quyết lợi
ích giai cấp bằng cách tăng cường sức mạnh dân tộc, giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng cả trong kinh tế, chính trị và xã hội - có thể nói là quan điểm cơ bản
của Hồ Chí Minh. Đối với vấn đề tôn giáo, tình hình cũng tương tự. Hồ Chí
Minh luôn tôn trong quyền tự do tín ngưỡng của bà con giáo dân, tạo điều kiện
để đồng bào giáo dân được sinh hoạt tôn giáo theo giáo lý của mình. Đồng thời,
Người cũng nhấn mạnh đến nghĩa vụ công dân của đồng bào giáo dân đối với Tổ
quốc. Theo Người, thế giới quan của những người theo tôn giáo và không theo
tôn giáo là khác nhau nhưng tất cả đều phải yêu nước, có trách nhiệm đối với đất
nước. Vì thế mà việc thực hiện đoànn kết lương giáo trong khối đại đoàn kết dân
tộc nhằm mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là cực kỳ quan trong.
Như vậy, so với tư tưởng của C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin, về nguyên
tắc, Hồ Chí Minh không có gì khác biệt nhưng mục tiêu cũng như chiến lược
đoàn kết đã được cụ thể hóa cho phù hợp với tình hình và hoàn cảnh Việt Nam.
Nếu ở C. Mác, Ph. Ăng ghen, V.I. Lênin, mục đích là chủ nghĩa xã hội thì ở Hồ
Chí Minh là nước độc lập, dân tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc và học
hành. Đối tượng đoàn kết của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin là công - nông
thì ở Hồ Chí Minh là mọi người Việt Nam yêu nước, là đồng bào giáo và đồng
bào lương
Do đối tượng của chiến lược đoàn kết được mở rộng nên nội dung và hình
thức của nó cũng được mở rộng. Có thể nói, ở Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo,
đoàn kết dân tộc được khái quát trong 6 chữ: “Rộng rãi -Toàn diện - Lâu dài”.
19
Đoàn kết được thể hiện cả trong kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội. Đoàn kết
không phải là một thủ đoạn chính trị mà là một chiến lược nhất quán. Người nói:
“Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng
nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc” 39, 606.
Trung thành với nguyên tắc mác xít là muốn thay đổi ý thức xã hội thì
phải thay đổi tồn tại xã hội, Hồ Chí Minh đã khéo vận dụng nguyên tắc ấy vào
thực tế Việt nam. Người chủ trương “ý dân là ý chúa”, vì vậy “dân muốn gì ta
phải làm ấy”. Người nói: “Nguyện vọng của đồng bào giáo dân là: phần xác ấm
no, phần hồn thong dong. Muốn đuợc như thế thì phải ra sức củng cố hợp tác xã,
phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho xã viên” 44, 606.
Nhờ am tường đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam, am tường đặc
điểm của đức tin tôn giáo mà Hồ Chí Minh đã có cách giải quyết đúng đắn, cũng
nhờ đó xung đột tư tưởng giữa người có đạo và người không có đạo không
những không bị khơi dậy, ngược lại có thể hòa hợp với nhau trong một mục tiêu
thống nhất - vì Tổ quốc, vì đồng bào. Theo Người, đồng bào có đạo cơ bản cũng
là người lao động, yêu nước. Họ cũng cần sung sướng và hạnh phúc, cũng cần có
cơm ăn, áo mặc và được học hành. Đó là điểm chung giữa tôn giáo và cách
mạng, giữa con người tín đồ với con người công dân trong một tín đồ. Trong lời
phát biểu nhân phiên bế mạc Hội nghị lần thứ 12 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa III, Người nói “ có đồng bào theo đạo Thiên chúa đã nói: sống theo
Đảng, chết theo Chúa. Câu nói ấy là tổng kết một nhận thức rất đúng tâm trạng
của những người đồng bào theo đạo có tinh thần yêu nước, họ theo Đảng nhưng
vẫn tin chúa. Chúng ta cần phải biến câu nói ấy thành khẩu hiệu để giáo dục và
động viên đồng bào có đạo hăng hái tham gia sản xuất và chiến đấu” 45, 575.
Theo Hồ Chí Minh, trong tín ngưỡng tôn giáo có nội dung mang tính nhân
nghĩa, nhân văn. Những nội dung đó phù hợp với chế độ ta, bởi vậy theo Người:
20
“Nếu các Giáo chủ sinh ra trong hoàn cảnh hiện nay thì chắc các ngài cũng sẽ
đấu tranh vì người nghèo như người Cộng sản” 59, 79.
Đặt tư tưởng tôn trọng, khoan dung, mềm dẻo, linh hoạt, thoáng rộng,
không định kiến với tôn giáo tín ngưỡng của Người vào bối cảnh lúc đó, khi còn
nhiều người cộng sản chống tôn giáo, hoặc không chấp nhận tôn giáo; ở các
nước chủ nghĩa xã hội, tư tưởng vô thần cực đoan đang khá thịnh hành: chỉ thấy
tôn giáo tín ngưỡng là “duy tâm”, “lạc hậu”, “phản khoa học”, “phản động” ,
chúng ta mới thấy tầm trí tuệ cao, tính độc lập, sáng tạo chiều sâu nhân văn trong
ứng xử khoan dung của Người.
C. Mác, Ph. Ăngghen phải trực tiếp đấu tranh vạch rõ thế giới quan sai
lầm của tôn giáo và sự lợi dụng tôn giáo của các giai cấp thống trị nhằm xác lập
ý thức hệ, thế giới quan mới dẫn đường giai cấp vô sản. Còn ở Việt Nam, trước
nguy cơ mất còn của dân tộc, quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, cuộc đấu tranh
về mặt thần học, giáo lý chưa phải là vấn đề bức thiết mà vấn đề nổi lên là vấn
đề đấu tranh giữa tôn giáo và dân tộc, giữa các cộng đồng tôn giáo với toàn thể
cộng động dân tộc để tạo lực lượng cách mạng, đem sức ta giải phóng cho ta.
Cho nên, ở tư tưởng Hồ Chí Minh không có sự đấu tranh trực diện với thần học,
giáo lý các tôn giáo mà chủ yếu là cố gắng chỉ ra sự thống nhất giữa mục tiêu
của cách mạng với lý tưởng của các tin ngưỡng tôn giáo, bỏ qua “tiểu dị” tìm ra
điểm “đại đồng” giữa tín ngưỡng tôn giáo với sự nghiệp cách mạng. Như vậy,
do hoàn cảnh lịch sử khác nhau mà C. Mác, Ph. Ăngghen và Hồ Chí Minh có sự
ứng xử khác nhau, và trong hai trường hợp đó đều đúng. Đây là sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác của Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Và thực tế lịch sử Việt Nam đã chứng minh sự vận dụng đó là đúng đắn và sáng
tạo. Hồ Chí Minh, trong giải quyết vấn đề tôn giáo, học ở chủ nghĩa Mác - Lênin
tinh thần đổi mới và sáng tạo, chứ không câu nệ vào câu chữ.
21
Hồ Chí Minh là người am hiểu sâu sắc bản chất niềm tin tôn giáo của tín
đồ. Đó là niềm tin thiêng liêng cao cả, giữ vị trí trung tâm trong đới sống tinh
thần của các tín đồ các tôn giáo, chi phối tâm tư, tình cảm, hành vi của họ. Xúc
phạm niềm tin tôn giáo là xúc phạm tín đồ, là làm tổn thất, chia rẽ khối đoàn kết,
là mắc mưu thâm độc của kẻ thù. Bởi vậy, tôn trọng bảo đảm tự do tín ngưỡng,
đoàn kết Lương - Giáo là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Người. Hồ chí Minh
đã kết hợp khéo léo niềm tin tôn giáo vào cách mạng, vào tương lai của dân tộc.
Kính chúa và yêu nước phải kết hợp với nhau; Tốt đời đẹp đạo phải đi liền với
nhau, không thể phân chia. Bản thân Người, trong mỗi cử chỉ, lời nói, việc làm
đều thể hiện sự thông hiểu, thái độ tôn trọng, tình cảm chân thành, sự thông cảm
sâu sắc đối với đồng bào các tôn giáo. Đúng như lời nhận xét của một linh mục
khi phân tích các sự kiện liên quan đến giám mục Lê Hữu Từ: “Các lời lẽ của cụ
phê phán giáo hội không bao giờ phạm đến khía cạnh đức tin, mà chỉ nằm ở
phạm vi các vấn đề cơ chế và chính trị” 59, 76. Với những người lầm đường
lạc lối, Người kiên trì thuyết phục, cảm hóa với thái độ khoan dung, độ lượng
bằng những lời lẽ chân tình. Theo Người, họ đều là “ruột thịt”, đều là “con Lạc
cháu Hồng”, đều có lòng yêu nước nhưng do mắc mưu kẻ địch nên chưa nhận ra
lẽ phải mà thôi. Vì thế, Người luôn “mong những đồng bào đó mau giác ngộ và
quay về với kháng chiến để phụng sự Chúa, phụng sự Tổ quốc”. Chính phủ luôn
“hoan nghênh rộng rãi những con người đi lạc mới về” 41, 215. Khi nhận xét
thái độ Hồ Chí Minh với tôn giáo, Xanhtơni - một quan chức cấp cao ở Đông
Dương đã từng gặp, làm việc với Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Về phần tôi, phải
nói rằng chưa bao giờ tôi có cơ sở để nhận thấy trong các chương trình của cụ
Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù rất nhỏ của sự công kích đa nghi, hoặc chế
diễu đối với một tôn giáo bất kỳ nào” 59, 80.
22
Hồ Chí Minh luôn phân biệt tự do tín ngưỡng tôn giáo và việc lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo của các thế lực thù địch. Người ý thức sâu sắc thủ đoạn thâm
độc của kẻ thù chia rẽ nhân dân ta bằng cách kích động mâu thuẫn Lương - Giáo.
Chúng nêu hai chủ đề lớn Quốc gia - Cộng sản, Cộng sản - Tôn giáo để hù dọa,
kích động, chia rẽ giáo dân. Chúng tuyên truyền: “Cộng sản là vô thần sẽ tiêu
diệt tôn giáo”, “Thà mất nước còn hơn mất chúa” Trước âm mưu đó, Người
vạch rõ sự lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo của kẻ thù để chức sắc, tin đồ tôn giáo
khỏi ngộ nhận. Ngay từ “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Người đã lên án mạnh
mẽ thực dân Pháp cấu kết với các giáo sỹ, chức sắc công giáo để xâm lược Việt
Nam. Người tố cáo giáo sỹ Pháp làm gián điệp, trực tiếp bắn giết đồng bào ta, cả
giáo và lương. Người vạch rõ, thực dân Pháp là bọn đốt nhà thờ, hiếp đàn bà,
giết tín đồ chức sắc, giết dân ngoại đạo
Không chỉ giải tỏa về nhận thức, Hồ Chí Minh còn quan tâm sâu sắc đến
đời sống đồng bào các tôn giáo, quan tâm xây dựng lực lượng cốt cán trong các
tôn giáo và cán bộ làm công tác tôn giáo. Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ:
“Nước độc lập mà dân không được ấm no hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì, đồng bào các tôn giáo theo cách mạng mà Đảng, Nhà nước không
quan tâm đến lợi ích thiết thân cho đồng bào thì không thể đoàn kết được Ta
quan tâm quần chúng thì quần chúng sẽ theo ta. Ta được lòng dân thì không sợ
gì cả Nếu giáo dục tốt thì giáo dân có thể đấu tranh sống theo Đảng, chết theo
Chúa” 44, 385.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, cách mạng Việt
Nam bước sang thời kỳ thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Để
thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, Hồ Chí Minh quan tâm ngay
tới việc xây dựng lực lượng đoàn kết lương giáo. Người tiếp tục kêu gọi: “Phải