Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Kế toán cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.2 KB, 60 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Qua hơn 50 năm xây dựng trưởng thành và phát triển, ngành Ngân hàng
luôn luôn là một ngành quản lý tổng hợp, với chức năng hoạt động là trung tâm tiền
tệ, tín dụng và thanh toán, ngành Ngân hàng đã thực hiện tốt chủ trương chính sách
của Đảng và nhà nước, thực sự trở thành công cụ thúc đẩy nền kinh tế liên tục phát
triển, góp phần đẩy lùi lạm phát, thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo và thực
hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thông qua hoạt động của kế toán Ngân hàng mang tính chất tổng hợp, vì số
liệu của kế toán ngân hàng không chỉ phản ánh tổng hợp các mặt hoạt động của
ngân hàng mà còn phản ánh đại bộ phận hoạt động của nền kinh tế. Xuất phát từ vị
trí, vai trò quan trọng của công tác kế toán cho vay. Trong những năm qua ngành
Ngân hàng đã tập trung cải tiến, đưa công nghệ mới hiện đại như vi tính nối mạng
vào công tác kế toán nên đã đem lại kết quả tốt, góp phần vào sự phát triển và hội
nhập của ngành Ngân hàng cũng như nền kinh tế đất nước.
Hiện nay các Ngân hàng từng bước đổi mới nghiệp vụ tín dụng để hoàn
thiện hơn nữa mặt nghiệp vụ này nhằm đem lại hiệu quả cao cho Ngân hàng.Tuy
nhiên để thực hiện tốt nghiệp vụ tín dụng thì phải tổ chức tốt nghiệp vụ kế toán cho
vay, bởi lẽ kế toán cho vay làm nhiệm vụ ghi chép, phản ánh toàn bộ kế toán cho
vay, thu nợ, theo dõi dư nợ thuộc nghiệp vụ tín dụng.Xuất phát từ tầm quan trọng
của kế toán cho vay nên trong những năm đổi mới, Nhà nước nói chung cũng như
ngành Ngân hàng nói riêng đã tập trung giải quyết, hoàn thiện chế độ kế toán cho
vay đối với nền kinh tế nên kế toán cho vay đã thu được những kết quả bước đầu.
Tuy nhiên kế toán cho vay nói chung và kế toán cho vay hộ sản xuất nói
riêng hiện nay còn một số tồn tại cần phải giải quyết.Qua nghiên cứu thấy rõ được
tầm quan trọng của công tác kế toán cho vay, để phản ánh kết quả trong thời gian
học tập vừa qua tôi đã lựa chọn đề tài :"Một số vấn đề về kế toán cho vay hộ sản
xuất tại NHNo & PTNT huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương"để viết bản chuyên
đề tốt nghiệp.
Trang 1
Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận còn gồm các phần cơ bản như
sau:


Chương I: Những lý luận cơ bản về tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay
trong hoạt động Ngân hàng.
Chương II: Tình hình kế toán cho vay tại Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn huyện Ninh Giang-Hải Dương.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay
đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp huyện Ninh Giang- Hải Dương
Do điều kiện thời gian thực tập ngắn, kinh nghiệm nghiên cứu của bản thân
còn hạn chế, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp
ý của Thầy, Cô và các cô chú trong ban lãnh đạo Ngân hàng để đề tài được hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Trang 2
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ KẾ TOÁN
CHO VAY TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG
I. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, xuất phát từ nhu cầu đi
vay và cho vay giữa người thiếu vốn và người thừa vốn trong cùng một thời điểm đã
hình thành nên quan hệ vay mượn lẫn nhau trong xã hội và trên cơ sở đó hoạt động
tín dụng ra đời.
Khái niệm: Tín dụng Ngân hàng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng
giá trị từ người sở hữu sang cho người sử dụng, sau một thời hạn nhất định được
quay lại người sở hữu với một giá trị lớn hơn ban đầu gồm cả gốc và lãi.
Tín dụng có nghĩa là sự tín nhiệm, tin tưởng, là phạm trù kinh tế có sản xuất
và trao đổi hàng hoá thì ở đó có hoạt động tín dụng.
Tín dụng là quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng và khách hàng có hoàn trả.
Tín dụng Ngân hàng là tín dụng bằng tiền được thể hiện một bên là Ngân hàng với
một bên là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, các thành phần kinh tế.

Trong đó, Ngân hàng đóng vai trò trung gian, vừa là người đi vay vừa là người cho
vay. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là đi vay để cho vay.
Trong nền kinh tế thị trường vốn bằng tiền của các đơn vị, các tổ chức kinh
tế không giống nhau về cả số lượng và thời gian. Trong cùng một thời gian, đơn vị
này thiếu vốn sản xuất kinh doanh nhưng đơn vị khác lại thừa vốn không sử dụng
hết. Trong khi đó các đơn vị hoạt động lại không phụ thuộc vào nhau. Do vậy sự
thiếu vốn của đơn vị này và sự thừa vốn của đơn vị kia cùng một thời gian đều có
ảnh hưởng không tốt đến hoạt động sản xuất kinh doanh.Nếu không có sự điều hoà
vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu thì nền kinh tế không thể phát triển được.
Trang 3
Do vậy cần thiết phải có một tổ chức đứng ra làm nhiệm vụ điều hoà vốn
trong nền kinh tế. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Ngân hàng nói chung và
tín dụng Ngân hàng nói riêng.
Nền kinh tế xã hội phát triển được từ giai đoạn này sang giai đoạn khác và
cho đến ngày nay cũng có phần đóng góp vai trò đáng kể của ngành Ngân hàng nói
chung và tín dụng Ngân hàng nói riêng
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng chủ yếu là đi vay để cho vay, huy
động mọi khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư với lãi suất quy định của Nhà nước để
cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các cá nhân trong xã hội có nhu cầu vay
vốn với lãi suất cao hơn lãi suất huy động. Đây là nghiệp vụ cơ bản và quan trọng
của Ngân hàng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của hệ thống Ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường, vốn cho vay là tài sản chiếm tỷ trọng cao nhất
trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Vì vậy tín dụng Ngân hàng có một vị trí
hết sức quan trọng đối với bản thân Ngân hàng.
Cùng với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá, vai trò của tín dụng
Ngân hàng cũng phát triển và hoàn thiện. Tín dụng Ngân hàng có một vai trò hết sức
quan trọng trong nền kinh tế xã hội.
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân.
Đứng trên góc độ kinh tế học, tín dụng Ngân hàng được hiểu như là quan hệ
kinh tế về sử dụng vốn tạm thời giữa Ngân hàng với các tổ chức, cá nhân theo

nguyên tắc hoàn trả, dựa trên cơ sở tín nhiệm, làm thoả mãn nhu cầu về vốn của các
doanh nghệp và cá nhân trong kinh doanh.Nghĩa là, trong nền kinh tế có nhiều
người có nguồn vốn nhàn rỗi, muốn đầu tư cho người khác vay với mục đích vừa có
lợi nhuận, vừa đảm bảo an toàn đồng vốn.Bên cạnh đó lại có những người đầu tư
trực tiếp vào khâu sản xuất kinh doanh cần có vốn để sản xuất kinh doanh để thu lợi
nhuận.Họ rất muốn vay vốn từ những người tiết kiệm với mức chi phí thấp nhất.Từ
những yêu cầu đó mà các tổ chức tín dụng đã xuất hiện làm trung gian để tập trung
vốn tạm thời nhàn rỗi, rồi trên cơ sở vốn đó sẽ phân phối lại cho người cần vốn,
quan hệ này làm nảy sinh tín dụng ngân hàng.Như vậy, sự xuất hiện của tín dụng
Trang 4
ngân hàng là hết sức cần thiết và có vai trò to lớn trong việc phục vụ phát triển kinh
tế, nó thể hiện như sau :
2.1 - Tín dụng Ngân hàng góp phần thu hút số tiền nhàn rỗi trong xã hội
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng là một hoạt động kinh
doanh chủ yếu của Ngân hàng Thương mại. Để thực hiện quá trình kinh doanh,
Ngân hàng phải có nguồn vốn và trên cơ sở nguồn vốn đó để đáp ứng nhu cầu vay
vốn ngày càng tăng của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
Nói cách khác Ngân hàng phải thực sự trở thành người đi vay để cho vay.
Điều này là một thực tế khách quan.
Mặt khác, trong nền kinh tế thường xuyên xuất hiện những nguồn vốn bằng
tiền tạm thời chưa sử dụng thuộc các thành phần kinh tế. Đồng thời, ở các thành
phần kinh tế khác lại xuất hiện, hiện tượng thiếu vốn tạm thời cần được giải quyết.
Sự tham gia của tín dụng Ngân hàng được coi như một công cụ để giải quyết mâu
thuẫn trên đây về cung - cầu vốn tiền tệ như vậy, vốn tiền tệ trong nền kinh tế có
điều kiện mang đầy đủ nội dung kinh tế của phạm trù tư bản hoá giá trị thặng dư.
Lợi tức đi vay và cho vay của Ngân hàng luôn luôn là công cụ điều chỉnh quan hệ
cung - cầu vốn tín dụng. Gắn liền với nền kinh tế thị trường là kinh doanh và lợi
nhuận. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng là đi vay để cho vay và như
vậy nếu xảy ra điều rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp, các thành phần kinh

tế sẽ dẫn đến rủi ro của Ngân hàng, ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán.
Chính vì lẽ đó mà trong nền kinh tế thị trường, mỗi Ngân hàng trong môi
trường cạnh tranh phải dựa vào nghệ thuật quản trị kinh doanh vào việc đổi mới
công nghệ và nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng, thông qua hoạt động Marketting Ngân
hàng và việc nhanh chóng sử dụng thành tựu khoa học kỹ thuật... nhằm thu hút tối
đa nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế để thực hiện kinh doanh đáp ứng yêu cầu
vốn cho tăng trưởng kinh tế, tạo lợi nhuận cho Ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh các chính sách tài chính tiền tệ, sự
hoạt động của thị trường tài chính, thị trường vốn, thị trường tiền tệ... tín dụng ngân
Trang 5
hàng góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. Điều đó vừa
làm tăng trưởng khả năng tích luỹ tư bản (trong đó phần lợi nhuận) của các ngân
hàng, vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng kinh tế làm cho hệ
thống Ngân hàng ngày càng lớn mạnh.
2.2 - Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá
trình mở rộng quan hệ lưu thông hàng hoá quốc tế:
Ngày nay, trong mối quan hệ kinh tế, sự hợp tác bình đẳng đôi bên cùng có
lợi giữa các nước trên thế giới và khu vực đang được phát triển rất đa dạng cả về nội
dung và hình thức, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đó là nhân tố hết sức quan trọng
tạo điều kiện cho sự phát triển của mỗi nước, nhất là các nước đang phát triển như
Việt Nam.
Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là lĩnh
vực hợp tác kinh tế quốc tế thông dụng. Thông qua quá trình nhận và cho vay tài trợ
xuất nhập khẩu của các nước. Cấp tín dụng cũng như các tổ chức tín dụng, cùng với
sự tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán quốc tế, tín dụng ngân hàng đã làm
tăng mối quan hệ tốt đẹp giữa các nước, đồng thời thúc đẩy hoạt động xuất nhập
khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy
tín dụng sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất khẩu hàng
hoá.
Gần đây với chủ trương nền kinh tế nhiều thành phần, với việc thực hiện hệ

thống ngân hàng hai cấp, với môi trường pháp luật ngày càng hoàn thiện và đi vào
đời sống kinh tế - xã hội và nhất là từ khi có luật Ngân hàng ra đời, vai trò của tín
dụng ngân hàng đang phát triển mạnh mẽ hơn nhằm góp phần tích cực vào mối quan
hệ kinh tế giữa nước ta và các nước trên thế giới.
2.3 - Tín dụng Ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi
động thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ là công cụ kinh tế - xã hội. Trong lĩnh
vực sản xuất và kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, mọi chu kỳ đều bắt đầu bằng tiền tệ
và kết thúc bằng khối lượng tiền tệ lớn hơn, tạo điều kiện để tái mở rộng hoạt động.
Trang 6
Trong chu trình này, tăng nhanh vòng quay vốn tiền tệ là một trong các yếu
tố quyết định thành công trong sản xuất kinh doanh. Để rút ngắn thời gian nhằm
tăng nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải chủ động tìm kiếm và thực
hiện nhiều biện pháp như: Ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, đổi mới
công nghệ, hoàn thiện nghệ thuật quản trị kinh doanh, tìm kiếm thị trường mới...
những việc làm này đòi hỏi một khối lượng lớn về vốn, tín dụng Ngân hàng sẽ là
người đáp ứng nhu cầu đó.
Những quan hệ tín dụng nảy sinh việc vay vốn phải được hoàn trả đầy đủ
với một khoản lãi kèm theo (theo lãi suất quy định), trong thời hạn thoả thuận đã
được cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Trường hợp nguyên tắc tín dụng trên đây bị vi phạm tổ chức kinh tế phải
chịu phạt lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất thông thường hoặc bị tước quyền vay vốn
hoặc thanh lý tài sản đã thế chấp để trả nợ Ngân hàng.
Khi vay vốn các chủ thể kinh doanh phải tìm mọi biện pháp để tăng nhanh
vòng quay vốn, kinh doanh có lãi, thu hồi vốn để trả nợ và lãi vay Ngân hàng đúng
hạn.
2.4 - Tín dụng Ngân hàng với việc điều chỉnh chiến lược kinh tế, góp
phần chống lạm phát tiền tệ:
Nền kinh tế hàng hoá luôn luôn chuyển động theo hai chiều hướng: Phát
triển theo nhịp độ tăng trưởng hoặc giảm sút theo quy luật lạm phát. Cả hai trường

hợp đó đều có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngân hàng tạo nguồn vốn từ huy động các đồng tiền nhàn rỗi trong
nền kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt và phù hợp với chỉ số giá cả đánh giá hàng
hoá để thu hút được nguồn vốn đủ lớn cho việc đầu tư vào các công trình trọng
điểm mà chiến lược kinh tế đã đề ra. Nếu không dùng công cụ tín dụng ngân hàng
để huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới các hình thức thì có lúc Nhà
nước phải huy động trái phiếu, kỳ phiếu, thậm trí phải phát hành giấy bạc.
Hình thức huy động vốn bằng nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng có ý nghĩa
kinh tế to lớn nó không làm tăng thêm khối lượng tiền lưu thông nên không ảnh
Trang 7
hưởng đến lưu thông tiền tệ và giá cả. Ngược lại, nếu Nhà nước phát hành tiền giấy
cho ngân sách dù có đưa vào đầu tư phát triển các chương trình kinh tế mang tính
chiến lược cũng dẫn đến tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, gây lên lạm phát
ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và đời sống xã hội.
Trong thời gian qua trọng tâm của công tác tín dụng là tích cực huy động
vốn để cho vay. Theo định hướng của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
là: "Ngân hàng phải đi vay để cho vay". Tập trung vốn vào các công trình trọng
điểm, các ngành sản xuất như: Nông nghiệp, sản xuất hàng hoá xuất khẩu... Ngân
hàng cũng như Kho bạc Nhà nước tích cực đa dạng hoá các hình thức huy động vốn,
chính vì vậy đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Như vậy tín dụng Ngân hàng không chỉ là đòn bẩy kinh tế mà còn là công
cụ để Nhà nước điều tiết sản xuất, điều chỉnh chiến lược kinh tế, phân công lao
động xã hội, tiết kiệm phát hành tiền vào lưu thông, sử dụng có hiệu quả vốn tiền tệ
tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, góp phần kiềm chế lạm pháp, ổn định sức mua của
đồng tiền. Rõ ràng thông qua vai trò tín dụng với hoạt động của các Ngân hàng
Thương mại và các tổ chức tín dụng theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của
Nhà nước, tín dụng ngân hàng đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần kiềm chế
lạm phát.
Thông qua tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị, các
tổ chức kinh tế, các cá nhân có vốn sản xuất kinh doanh thu được hiệu quả, góp

phần phát triển nền kinh tế xã hội.
Đối với Ngân hàng tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản quan
trọng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nhằm bổ sung vốn cho các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội để sản xuất kinh doanh. Đây là
nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của Ngân hàng thương mại.
II. VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA KẾ TOÁN CHO VAY.
Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng nhằm bổ sung vốn cho các đơn vị, tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp và cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đây là nghiệp vụ
Trang 8
sinh lời chủ yếu của Ngân hàng thương mại, nó quyết định sự sống còn của Ngân
hàng thương mại nó quyết định việc mở rộng hay thu hẹp chức năng trung gian tín
dụng.Từ đó quyết định đến phạm vi, quy mô hoạt động của một ngân hàng thương
mại và cũng là nghiệp vụ chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có của ngân
hàng. Đối với nền kinh tế nó thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển,
tăng tốc độ lưu thông tiền tệ.
1.Vai trò của kế toán cho vay
- Kế toán cho vay giữ một vị trí quan trọng trong toàn bộ nghiệp vụ kế toán
của Ngân hàng, vì thế kế toán cho vay tham gia trực tiếp vào quá trình cho vay vốn,
nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
- Thông qua số liệu của kế toán cho vay, Lãnh đạo ngân hàng biết được tình
hình sử dụng vốn, sự biến động vốn hàng ngày. Từ đó, làm tham mưu cho lãnh đạo
điều hành hoạt động tín dung của Ngân hàng một cách nhịp nhàng, đồng bộ, kịp
thời để có chính sách phù hợp cho việc quản trị kinh doanh của Ngân hàng như mục
tiêu đề ra: an toàn, lợi nhuận, và lành mạnh trong hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng.
- Kế toán cho vay được xác định là một bộ phận kế toán rất quan trọng bởi kế
toán cho vay phục vụ và hỗ trợ đắc lực cho nghiệp vụ tín dụng nó quyết định sự tồn
tại của các Ngân hàng thương mại.
- Đứng ở góc độ kế toán khi thu nợ, thu lãi kế toán cho vay đã giúp cho Ngân

hàng thu nợ gốc, lãi đầy đủ, chính xác, kịp thời.
- Thông qua kế toán cho vay, Ngân hàng cũng như bạn hàng của doanh
nghiệp đánh giá được khả năng hấp thụ của doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả
không? Để từ đó đánh giá xu thế vận động của doanh nghiệp trên thị trường, giúp
cho ngân hàng và bạn hàng của các doanh nghiệp có chiến lược đầu tư phù hợp, có
hiệu quả.
- Kế toán cho vay là công cụ để đảm bảo an toàn tài khoản vốn vay của Ngân
hàng, đồng thời hạn chế rủi ro, góp phần ổn định nguồn thu nhập của Ngân hàng.
Thông qua việc ghi chép quá trình cho vay, thu nợ, theo dõi kỳ hạn nợ hàng ngày,
Trang 9
lưu hồ sơ vay vốn... thể hiện kế toán cho vay bảo vệ an toàn một khối lượng tài sản
lớn của bản thân Ngân hàng và khách hàng.
2. Nhiệm vụ của kế toán cho vay
- Xác lập chứng từ kế toán cho vay một cách hợp lệ, hợp pháp nhằm tạo
cơ sở hành lang pháp lý giữa Ngân hàng và khách hàng.
- Mở đầy đủ các loại sổ sách (nội ngoại bảng) để hạch toán ghi chép, phản
ánh một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác toàn bộ các khoản cho vay, thu nợ, theo
dõi kỳ hạn nợ để thu nợ và hỗ trợ thu nợ kịp thời các món vay đến hạn, tính thu lãi
đúng lãi suất, đúng thời gian quy định, theo dõi dư nợ thuộc nghiệp vụ tín dụng của
Ngân hàng thương mại. Trên cơ sở đó giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng tiền vay
và tổ chức quản lý lưu trữ hồ sơ theo qui định đảm bảo an toàn tài sản của Ngân
hàng.
- Kế toán cho vay phối hợp với bộ phận tín dụng quản lý các khoản cho vay
đem lại hiệu quả cao của mỗi món vay cụ thể: kế toán cho vay cung cấp thông tin
chính xác, kịp thời về số liệu những món vay đã quá hạn, sắp đến hạn để cán bộ tín
dụng có kế hoạch đôn đốc thu nợ kịp thời, đồng thời cung cấp cho Lãnh đạo quản
lý, điều hành có hiệu quả.
-Như vậy, kế toán cho vay cùng với các nghiệp vụ kế toán Ngân hàng khác
thông qua các hoạt động của mình giúp cho Ngân hàng vừa thực hiện được chức
năng kinh doanh, vừa cung ứng vốn cho nền kinh tế, với vai trò quan trọng đó, hệ

thống kế toán Ngân hàng nói chung và kế toán cho vay nói riêng cần phải được hoàn
thiện hơn nữa để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của ngành Ngân hàng và nền kinh
tế thị trường.
III. CÁC PHƯƠNG THỨC CHO VAY, CHỨNG TỪ TÀI KHOẢN KẾ
TOÁN CHO VAY, THU NỢ
1.Các phương thức cho vay:
Theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước: Có 9 phương thức cho vay.
Trang 10
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng của từng khoản vay của khách hàng và khả
năng kiểm tra, giám sát của Ngân hàng, NHNo nơi cho vay thoả thuận với khách
hàng vay về việc lựa chọn phương thức cho vay sau đây:
1.1 -Phương thức cho vay theo từng lần (theo món):
Áp dụng phương thức tín dụng cho vay từng lần, khách hàng phải lập
giấy đề nghị vay vốn theo từng lần, nộp vào Ngân hàng cùng với các thủ tục cần
thiết khác để chứng minh cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh của khách
hàng, cũng như ước tính hiệu quả kinh tế đối với khoản tín dụng đó.
Trong trường hợp Ngân hàng chấp nhận cho vay, Ngân hàng cùng khách
hàng ký kết hợp đồng tín dụng, thoả thuận với các điều kiện, yếu tố về số tiền, mục
đối tượng, vốn vay, thời hạn trả nợ, lãi suất...
Trên cơ sở hợp đồng tín dụng đã được ký kết, kế toán cho vay giải ngân
phát tiền vay đồng thời hạch toán:
Nợ: TK cho vay khách hàng.
Có: TK tiền mặt
Có: TK tiền gửi khách hàng
Mỗi khoản vay đều được xác định thời hạn trả nợ cụ thể trên hợp đồng tín
dụng. Vì vậy để theo dõi thời hạn trả nợ, kế toán cho vay phải sắp xếp hồ sơ, khế
ước sao cho khoa học gọn gàng theo kỳ hạn trả nợ của khách hàng.
Để tiện lợi cho việc đôn đốc trả nợ, một khoản nợ có thể chia ra nhiều kỳ
hạn trả nợ khác nhau về nguyên tắc khi đến hạn khách hàng phải có nhiệm vụ trả nợ

cho Ngân hàng đúng hạn.
Khi khách hàng trả nợ hạch toán ghi:
Nợ :TK tiền mặt
Nợ :TK tiền gửi (nếu trả bằng chuyển khoản).
Có :TK cho vay khách hàng.
Trang 11
Nếu đến hạn trả gốc và lãi mà khách hàng không trả được cho Ngân hàng
thì khách hàng phải làm đơn xin điều chỉnh kỳ hạn hoặc xin gia hạn số tiền gốc và
lãi đó.
+ Nếu được Ngân hàng chấp thuận cho gia hạn hoặc điều chỉnh kỳ
hạn nợ thì kế toán cho vay điều chỉnh kỳ hạn nợ trong máy tính và lưu đơn gia
hạn hoặc điều chỉnh của khách hàng vào hồ sơ vay vốn.
+ Nếu không được ngân hàng chấp thuận việc khách hàng xin điều
chỉnh kỳ hạn nợ hoặc gia hạn nợ của khách hàng thì kế toán căn cứ vào hồ sơ
khế ước của khách hàng chuyển nợ quá hạn (sau 10 ngày) đối với món vay.
Kế toán hạch toán ghi:
Nợ: TK nợ quá hạn
Có: TK cho vay trong hạn.
Các hồ sơ chuyển sang nợ quá hạn được lưu ở một cặp riêng để làm căn cứ
cho việc đôn đốc thu hồi nợ trong việc phân tích hoạt động tín dụng cũng như phân
tích phòng ngừa rủi ro.
1.2 - Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng (Cho vay bổ xung vốn
lưu động):
Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng là khách hàng cùng với Ngân
hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng trong một thời hạn nhất định hoặc theo chu
kỳ sản xuất kinh doanh trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh và nhu cầu về vốn
của đơn vị.
Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng thường áp dụng cho những
doanh nghiệp có khả năng tài chính lành mạnh, sản xuất, kinh doanh ổn định và nhu
cầu vốn vay, trả thường xuyên, có uy tín trong quan hệ tín dụng với Ngân hàng.

Ngân hàng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng, thoả thuận hạn mức tín dụng
duy trì trong thời hạn nhất định, điều kiện vay trả, mức lãi suất, cách thức trả
nợ cũng như quyền hạn, nghĩa vụ của mỗi bên làm căn cứ.
Trang 12
Từng lần vay khách hàng không cần phải làm lại các thủ tục mà chỉ cần,
lập một giấy nhận nợ cùng với hợp đồng tín dụng đã lập lần đầu. Khi phát tiền
vay hạch toán ghi:
Nợ: TK cho vay khách hàng.
Có: TK tiền mặt
Có: TK tiền gửi (nếu cho vay bằng chuyển khoản).
Kế toán cho vay phải quản lý chặt chẽ hạn mức tín dụng, đảm bảo không
vượt quá hạn mức tín dụng đã ký kết.
Thu nợ theo thoả thuận trên hợp đồng tín dụng: áp dụng phương thức này
Ngân hàng không xác định được thời hạn trả nợ cụ thể theo từng khoản vay. Mà
thoả thuận một kế hoạch nợ dựa trên cơ sở kỳ luân chuyển vốn của doanh nghiệp
và việc tính toán quản lý thời hạn trả nợ, có thể thông qua kế hoạch trả nợ từng
tháng, từng định kỳ hoặc xác định vòng quay của vốn tín dụng.
Việc trả nợ của khách hàng được thực hiện trong suốt thời hạn giá trị của
hợp đồng tín dụng, có thể trả trực tiếp bằng tiền từ bán hàng hoặc thoả thuận với
Ngân hàng trích từ tài khoản tiền gửi để thu nợ theo định kỳ.
Kế toán hạch toán khi thu nợ ghi
Nợ TK tiền mặt.
Nợ TK tiền gửi (Nếu trả bằng chuyển khoản).
Có TK cho vay khách hàng.
Thu lãi cho vay thường được áp dụng thông qua việc thoả thuận giữa khách
hàng và Ngân hàng để thu theo món, thu theo tích số hàng tháng hoặc theo định kỳ.
Việc tính thu lãi phải đảm bảo chính xác và phù hợp với mức lãi suất ghi
trên hợp đồng tín dụng và tuỳ theo phương thức cho vay sự thoả thuận giữa Ngân
hàng và khách hàng để thực hiện việc tính các khoản lãi chưa đến hạn phải thu hoặc
thời hạn thoả thuận.

Trong quá trình vay vốn, trả nợ: nếu việc sản xuất, kinh doanh có thay đổi
và doanh nghiệp có nhu cầu, khách hàng phải làm giấy đề nghị bổ xung hạn mức tín
Trang 13
dụng, Ngân hàng xem xét nếu thấy hợp lý thì chấp thuận điều chỉnh hạn mức tín
dụng và cùng khách hàng ký bổ sung hợp đồng tín dụng.
Việc ký kết hợp đồng tín dụng mới được thực hiện trước 10 ngày hạn mức
tín dụng cũ hết hạn khách hàng gửi cho Ngân hàng kế hoạch vay vốn kỳ tiếp theo.
Căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng và chu kỳ sản xuất, kinh doanh
kế tiếp, Ngân hàng xác định hạn mức tín dụng và thời hạn cho vay mới
1.3. Cho vay theo dự án đầu tư:
• Ngân hàng nông nghiệp cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự
án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư
phục vụ đời sống.
• Ngân hàng nông nghiệp nơi cho vay cùng khách hàng ký hợp đồng tín
dụng và thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của
dự án, phân định các kỳ hạn trả nợ.
• Ngân hàng thực hiện giải ngân theo tiến độ thực hiện dự án.
• Mỗi lần rút vốn, khách hàng lập giấy nhận nợ tiền vay trong phạm vi
mức vốn đầu tư đã thoả thuận; kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp
với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng.
• Trường hợp khách hàng đã dùng nguồn vốn huy động tạm thời khác để
chi phí cho dự án duyệt trong thời gian chưa vay được vốn
1.4. Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với
một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng: trong đó, có một tổ
chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc
cho vay hợp đồng vốn thực hiện theo quy định của Quy chế này và Quy chế đồng
tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng ban hành.
1.5. Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác
định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả
nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.

Trang 14
1.6. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết
đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất
định.Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức
tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
1.7. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:
Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong
phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền
mặt tại máy4/14/2003ha minh quan rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là
đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ
chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
1.8. Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng
thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài
khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và
Ngân hàng nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán.
1.9. Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với
quy định tại quy chế này và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng
và đặc điểm của khách hàng vay.
2.Chứng từ kế toán cho vay
Chứng từ kế toán là những chứng minh bằng giấy tờ về nghiệp vụ kinh tế tài
chính đã phát sinh và thực sự hoàn thành. Phân loại chứng từ kế toán được thực hiện
theo qui định 127/QĐ-NHNo - 04, ngày 13/03/2001 của NHNo&PTNT Việt Nam.
* Phân loại theo tính chất pháp lý chứng từ kế toán bao gồm:
+ Chứng từ gốc và chứng từ ghi sổ.
- Chứng từ gốc là những chứng từ được lập ngay sau khi nghiệp vụ kinh tế
phát sinh đã hoàn thành. Chứng từ gốc là căn cứ pháp lý để chứng minh 1 nghiệp vụ
kinh tế phát sinh đã hoàn thành.
Trang 15

- Chứng từ ghi sổ là chứng từ phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào sổ
sách kế toán, chứng từ ghi sổ được lập trên cơ sở chứng từ gốc hoặc kiêm chứng từ
ghi sổ.
* Phân loại theo nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh bao gồm:
- Chứng từ tiền mặt gồm: Phiếu thu, phiếu chi, séc, giấy gửi tiền, giấy rút
tiền, giấy nộp tiền, giấy lĩnh tiền.
- Chứng từ chuyển khoản gồm: Phiếu chuyển khoản, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm
thu, séc, TTD.
- Bảng kê các loại gồm: Bảng kê nộp séc, bảng kê số dư tính lãi, bảng kê
quyết toán lãi cho vay, bảng kê thanh toán các loại:
Giấy báo chuyển tiền nội, ngoại tỉnh.
Lệnh chuyển tiền trong chuyển tiền điện tử.
Các chứng từ hạch toán tài sản và chứng từ ngoại bảng (như phiếu xuất tài sản,
phiếu nhập tài sản).
Về nguyên tắc thì tất cả các chứng từ kế toán Ngân hàng (bao gồm chứng từ do
Ngân hàng lập và chứng từ do khách hàng lập) đều phải lập đúng mẫu và ghi đầy đủ
các yếu tố theo quy định. Chứng từ có thể lập trên máy tính (danh mục chứng từ
được phép lập trên máy tính theo quy trình giao dịch trực tiếp do tổng giám đốc quy
định). Các chứng từ có nhiều liên phải được lập một lần trên tất cả các liên bằng
máy chữ, máy tính hoặc viết lồng lót giấy than. Phải ghi đầy đủ các yếu tố theo quy
định sau:
- Các yếu tố trên chứng từ phải viết bằng bút mực hoặc bút bi mầu tím, xanh,
đen, không được viết bằng mực đỏ (trừ các chứng từ kế toán lập để điều chỉnh sai
sót). Không được viết bằng bút chì trên các loại chứng từ và không được viết bằng
hai loại bút hai mâù mực khác nhau trên cùng một chứng từ, chữ viết trên chứng từ
phải rõ ràng, trung thực, chính xác không viết tắt, viết mờ hoặc nhoè chữ. Không
được tẩy xoá, sửa chữa bằng bất kỳ hình thức nào đối với các yếu tố trên chứng từ.
Trang 16
- Số tiền trên chứng từ bắt buộc phải ghi số tiền bằng số (căn cứ mẫu chứng
từ). Chữ đầu của số tiền bằng chữ phải viết hoa và sát đầu dòng của dòng đầu tiên,

không được viết cách dòng, cách quãng giữa các chữ, không được viết thêm chữ vào
giữa hai chữ viết liền kề nhau trên chứng từ. Nội dung nghiệp vụ ghi trên chứng từ
phải rõ ràng, rễ hiểu, chữ ký của khách hàng và cán bộ Ngân hàng trên tất cả các
loại chứng từ kế toán đều bắt buộc phải ký tay từng tờ bằng bút tím, đen...
3.Tài khoản dùng trong kế toán cho vay
Tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay thuộc tài sản có của Ngân hàng, tài
khoản dùng để ghi chép, phản ánh toàn bộ số tiền vay của Ngân hàng đối với người
đi vay, đồng thời cũng ghi chép, phản ánh số tiền vay trả nợ Ngân hàng theo kỳ hạn
nhất định.
Ứng với phương thức cho vay từng lần có tài khoản cho vay thông thường.
Ứng với phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng có tài khoản cho vay theo hạn
mức tín dụng.
3.1 Tài khoản cho vay từng lần
Khi các đơn vị tổ chức cá nhân, các doanh nghiệp tư nhân có đủ điều kiện
vay vốn và được Ngân hàng cho vay thì kế toán Ngân hàng sẽ mở cho mỗi người
vay một tài khoản cho vay thích hợp.
Tài khoản cho vay từng lần kết cấu như sau:
Bên nợ: Ghi có số tiền Ngân hàng cho khách hàng vay.
Bên có: - Ghi số tiền khách hàng đã trả nợ Ngân hàng.
- Ghi số tiền chuyển nợ quá hạn (nếu có).
Dư nơ: Phản ánh số tiền người vay còn nơ Ngân hàng đến một thời điểm nào
đó.
3.2 Tài khoản cho vay theo hạn mức
Trang 17
Tuỳ theo sự thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho
khách hàng vay theo 2 tài khoản (tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng và tài
khoản tiền gửi thanh toán).
Kết cấu của từng hình thức tài khoản trong cho vay theo hạn mức tín dụng
như sau:
- Đối với những khách hàng mở 2 tài khoản: tài khoản cho vay theo hạn mức

và tiền gửi thanh toán. Quá trình hạch toán cho vay, thu nợ được thực hiện trên tài
khoản cho vay theo hạn mức có kết cấu:
Bên nợ: Ghi số tiền cho vay theo hạn mức tín dụng dã ký kết.
Bên có: Ghi số tiền Ngân hàng thu nợ trên cơ sở tiền bán hàng hay các khoản
thu nhập khác nộp vào.
Dư nợ: Phản ánh số tiền khách hàng còn nợ Ngân hàng.
Trường hợp hết số dư mà khách hàng vẫn nộp tiếp các khoản thu của mình
cho Ngân hàng thì kế toán sẽ hạch toán vào tiền gửi thanh toán.
Trong quan hệ tín dụng giữa người vay và Ngân hàng không phải bao giờ
người vay cũng trả nợ Ngân hàng đúng kỳ hạn.
Trường hợp đến hạn trả người vay không trả được nợ, cũng không được
Ngân hàng cho gia hạn nợ thì số nợ đó được chuyển sang tài khoản “Nợ quá hạn“
để theo dõi thu hồi với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất vay bình thường.
Kết cấu tài khoản nợ quá hạn:
Bên nợ: Ghi số tiền chuyển sang nợ quá hạn.
Bên có: Ghi số tiền thu nợ quá hạn.
Dư nợ: Thể hiện số dư nợ quá hạn chưa trả.
Các tài khoản cho vay, nợ quá hạn đều được mở theo từng loại nợ và theo
từng đơn vị vay để theo dõi.
Trang 18
IV. QUI TRÌNH KẾ TOÁN CHO VAY – THU NỢ
1. Qui trình kế toán cho vay từng lần.
1.1. Kế toán giai đoạn cho vay
Mỗi lần vay người vay làm giấy đề nghị vay vốn gửi tới Ngân hàng để trình
bày lý do xin vay. Đây là căn cứ để Ngân hàng xem xét, tính toán, quyết định cho
vay và lập hợp đồng tín dụng.Nếu khoản vay được giám đốc ký duyệt cho vay thì bộ
phận kế toán thực hiện việc hạch toán cho vay. Bộ phận kế toán kiểm soát lại và
hướng dẫn khách hàng lập các chứng từ kế toán, nhận tiền vay theo qui định và ghi
đầy đủ các yếu tố trên chứng từ.
Căn cứ vào chứng từ như giấy lĩnh tiền mặt (nếu giải ngân bằng tiền mặt)

hoặc uỷ nhiệm chi (nêú giải ngân bằng chuyển khoản) kế toán vào sổ chi tiết hoặc
nhập dữ liệu vào máy tính.
Nợ: - TK cho vay ngắn hạn của người vay
Có: - Tài khoản tiền mặt ( nếu giải ngân bằng tiền mặt )
-Tài khoản tiền gửi của người thụ hưởng (nếu cho vay bằng chuyển
khoản)
- Liên hàng đi - chuyển tiền điện tử (nếu người thụ huởng có tài
khoản ở các Ngân hàng khác).
Riêng các món vay có tài khoản thế chấp, cầm cố kế toán phải ghi nhập, xuất
vào tài khoản ngoại bảng “ Tài sản thế chấp, cầm cố”.
1.2. Kế toán thu nợ, thu lãi
* Kế toán thu nợ
Sổ chi tiết của tài khoản cho vay của từng đon vị vay vốn do kế toán viên giữ
và theo dõi. Hợp đồng tín dụng sau khi hoàn thành phát tiền vay sẽ được lưu trữ
trong hồ sơ vay vốn của người đi vay để theo dõi thu hồi nợ.hợp đồng tín dụng
trong hồ sơ vay vốn phải được sắp xếp một cách khoa học nhằm theo dõi một cách
chặt chẽ kỳ hạn thu nợ, thu lãi kịp thời khi đến hạn.
Trang 19
Một trong những đặc điểm của phương thức cho vay từng lần là mỗi lần cho
vay đều phải xác định được thời hạn trả.Đến hạn người vay phải có trách nhiệm trả
nợ Ngân hàng.Nếu đến kỳ hạn trả nợ người vay không đủ trả nợ cho Ngân hàng thì
kế toán chủ động trích tài khoản tiền gửi của người vay để thu hồi nợ.
Nếu tài khoản của người vay đã hết số dư và tài khoản vay đó không được
Ngân hàng gia hạn thì kế toán làm thủ tục chuyển nợ quá hạn.
- Nếu thu nợ bằng tiền mặt: kế toán căn cứ vào giấy nộp tiền của người
vayđể vào sổ chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy tính, ghi:
Nợ: TK tiền mặt
Có: Tài khoản cho vay - tiểu khoản của ngưòi vay
- Nếu thu nợ bằng chuyển khoản: kế toán căn cứ uỷ nhiệm chi của người vay,
hoặc lập phiếu chuyên khoản để vào sổ chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy tính, ghi:

Nợ: TK tiền gửi - của người vay
Có: TK cho vay - tiểu khoản người vay
Đồng thời với việc hạch toán, kế toán xoá nợ trên hợp đồng tín dụng bằng
cách ghi số tiền thu nợ vào cột "số tiền trả nợ", rút số dư.Hợp đồng tín dụng thu
hết nợ (số dư bằng 0) được xuất khỏi hồ sơ tín dụng để đóng thành tập riêng,
hoặc đóng vào tập nhật ký chứng từ nếu số lượng hợp đồng tín dụng ít.
Đối với những khoản vay có thế chấp, kế toán làm thủ tục dể ghi xuất ngoại
bảng, trả lại giấy tờ thế chấp tài sản cho người vay.
* Kế toán thu lãi
Tính thu lãi cho vay từng lần theo phương pháp tính lãi đơn... Tiền lãi tính
một lần khi thu nợ gốc. Hàng tháng Ngân hàng vẫn tính lãi để hạch toán vào tài
khoản " tiền lãi tính dồn dự thu ", khi người vay trả nợ gốc và lãi sẽ tất toán tài
khoản này.
Công thức tính lãi:
Trang 20
Số tiền lãi = Số tiền vay (gốc) x Lãi suất cho vay x thời gian vay
Tính thu lãi theo kỳ hạn tháng hoặc năm thì chỉ tính ngày vay, không tính ngày trả
nợ, tức là chỉ tính ngày đầu tiên chứ không tính ngày cuối trả nợ.
Hạch toán thu lãi cho vay: hàng tháng kế toán tính và hạch toán dự thu lãi,
ghi:
Nợ: TK Tiền lãi tính dồn dự thu
Có: TK Thu nhập - thu lãi cho vay
• Khi khách hàng vay trả lãi, Ngân hàng hạch toán:
Nợ: -TK Tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt)
-TK Tiền gửi (nếu trích từ tài khoản tiền gửi của người vay)
Có: TK Tiền lãi tính dồn dự thu.
Trường hợp số lãi phải thu đã hạch toán vào tài khoản của "tiền lãi tính
dồn dự thu" đối với những khoản cho vay trung hạn nhưng người vay không
thanh toán được đúng hạn ghi trong hợp đồng tín dụng thì sau 90 ngày kể từ ngày
đến hạn ghi trong hợp đồng; hoặc chưa đến 90 ngày nhưng khoản vay đã chuyển

sang nợ quá hạn, nợ khó đòi thì kế toán lập phiếu chuyển khoản để ghi giảm thu
toàn bộ số tiền lãi dự thu, ghi:
Nợ: TK Thu nhập - thu lãi cho vay
Có: TK Tiền lãi cộng dồn dự thu
Đồng thời hạch toán ngoại bảng:
Ghi nhập: TK lãi cho vay chưa thu được
Sau khi hạch toán ngoại bảng kế toán phối hợp với cán bộ tín dụng đôn đốc
người vay tiếp tục trả lãi Ngân hàng. Khi người vay trả lãi hạch toán ghi :
Nợ: TK Tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt)
TK Tiền gửi (nếu tính TK tiền gửi)
Có: TK Thu lãi cho vay.
Trang 21
Ghi xuất ngoại bảng: Lãi cho vay chưa thu được.
Đồng thời tính phạt chậm trả lãi (tối đa bằng 5 % số lãi chậm trả)
1.3. Kế toán chuyển nợ quá hạn
Đến hạn trả nợ nếu người vay không trả được Ngân hàng và cũng không
được Ngân hàng gia hạn nợ thì kế toán lập phiếu chuyển khoản để chuyển sang tài
khoản nợ quá hạn.
Hạch toán:
Nợ: TK nợ quá hạn thích hợp
Có: TK cho vay của người vay.
(Áp dụng lãi suất quá hạn bằng 150% lần lãi suất cho vay thông thường).
Các hhồ sơ đã được chuyển sang nợ quá hạn được lưu riêng.
-Khi người vay trả nợ quá hạn kế toán ghi:
Nợ: TK Tiền mặt (nếu trả bằng tiền mặt)
TK Tiền gửi của người vay
Có: TK Nợ quá hạn thích hợp
Trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ do kinh doanh thua lỗ
hoặc bị phá sản thì Ngân hàng có thể thanh lý tài sản của người vay để thu nợ.
2. Quy trình kế toán cho vay theo hạn mức tín dụng

Cho vay theo hạn mức tín dụng thường được sử dụng dưới hình thức "thấu
chi". Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt được thực hiện dựa trên
cơ sở hạn mức tín dụng ghi trong hợp đồng tín dụng.
Áp dụng cho người vay có nhu cầu vay vốn, trả nợ thường xuyên, có khả
năng tài chính mạnh và có uy tín.
2.1. Kế toán cho vay
Trang 22
Hợp đồng tín dụng sau khi được ký kết để xác định hạn mức tín dụng và các
điều kiện khác được chuyển cho kế toán để kiểm soát lại và theo dõi giải ngân. Mỗi
lần giải ngân để đáp ứng yêu cầu chi trả của người vay, người vay lập các chứng từ
như séc, uỷ nhiệm chi gửi kế toán giữ tài khoản vãng lai của người vay.
Nếu chứng từ giải ngân thoả mãn các điều kiện thì kế toán vào sổ chi tiết
hoặc nhập dữ liệu vào máy:
Nợ: TK Cho vay – TK vãng lai của người vay
Có: TK thích hợp
- TK Tiền mặt (nếu chi trả bằng tiền mặt)
- Hoặc TK thanh toán của người thụ hưởng (nếu chi trả bằng chuyển khoản).
2.2. Kế toán thu nợ, thu lãi
Trong phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng việc trả nợ của khách
hàng dựa trên cơ sở vòng quay vốn tín dụng hoặc khách hàng trả nợ theo từng tháng
như thoả thuận trong hợp đòng tín dụng. Đơn vị vay phải nộp tiền bán hàng cũng
như các khoản thu khác vào bên có của tài khoản cho vay để trả nợ Ngân hàng. Nếu
hết tháng đơn vị không hoàn thành kế hoạch trả nợ Ngân hàng và cũng không được
xem xét để chuyển sang thu tiếp ở tháng kế tiếp thì kế toán chuyển số tiền còn nợ đó
sang tài khoản nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn.
*Thu nợ gốc: Hạch toán thu nợ gốc theo số tiền bán hàng của đơn vị nộp vào
Ngân hàng hằng ngày:
- Nếu thu bằng tiền mặt hạch toán:
Nợ: TK Tiền mặt tại quỹ
Có: TK Cho vay theo hạn mức tín dụng

- Nếu nộp bằng chuyển khoản hạch toán:
Nợ: -TK Tiền gửi của người chi trả (nếu thanh toán cùng NH)
-TK Thanh toán qua lại giữa các Ngân hàng (nếu thanh toán các NH)
Có: TK Cho vay theo hạn mức.
Trang 23
Về nguyên tắc Ngân hàng chỉ thu nợ trong phạm vi số tiền Ngân hàng đã cho
vay. Nên đối với đơn vị vay theo hai tài khoản thì Ngân hàng chỉ thu nợ trong phạm
vi dư nợ của tài khoản cho vay này..Nếu đơn vị trả hết nợ rồi thì số tiền bán hàng
của đơn vị sẽ ghi vào bên tiền gửi thanh toán của đơn vị. Khi tài khoản vốn lưu
động dư có tức là đơn vị kinh tế gửi vốn lưu động vào Ngân hàng, lúc này Ngân
hàng sẽ tính trả lãi cho dơn vị theo lãi suất phù hợp.
* Kế toán thu lãi:
Do tài khoản vãng lai có thể dư Nợ cũng có thể dư Có nên việc tính lãi của
tài khoản này cũng phải xử lý một cách phù hợp:
- Nếu tài khoản vãng lai dư Nợ, Ngân hàng thu lãi theo lãi suất thấu chi. Việc
thu lãi tiến hành hàng tháng theo phương pháp tích số.
- Việc tính lãi được dựa trên bảng số dư tính lãi. Bảng kê tính lãi được dùng
làm chứng từ để hạch toán thu lãi, ghi:
Nợ: TK Cho vay - TK vãng lai của người vay.
Có: TK Thu nhập - Thu lãi cho vay.
- Nếu tài khoản vãng lai dư Có thì có thể ngân hàng không trả lãi hoặc trả với
mức lãi suất thấp. Nếu trả lãi kế toán lập bảng kê tính lãi, hạch toán:
Nợ: TK Chi phí - chi trả lãi.
Có: TK Cho vay - TK vãng lai của người vay.
2.3. Kế toán chuyển nợ quá hạn
Đến kỳ hạn, đơn vị vay không hoàn thành kế hoạch trả nợ ngân hàng và cũng
không được xem xét để chuyển sang thu tiếp theo ở tháng kê tiếp, kế toán lập phiếu
chuyển khoản số tiền đơn vị còn nợ Ngân hàng sang tài khoản nợ quá hạn.
Nợ: Tk nợ quá hạn
Có: TK cho vay theo hạn mức

Số tiền đơn vị còn nợ Ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn từ thời điểm nào
thì kế toán tính lãi suất nợ quá hạn từ thời điểm đó.
Trang 24
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH KẾ TOÁN CHO VAY TẠI NHNO HUYỆN NINH GIANG –
HẢI DƯƠNG
I . KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHNO NINH
GIANG
1. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Ninh Giang là huyện cửa ngõ phía Nam của thành phố Hải Dương. Trung
tâm huyện lỵ cách thành phố Hải Dương 30 km; phía bắc giáp huyện Gia Lộc; phía
đông giáp huyện Tứ Kỳ; phía nam giáp huyện Quỳnh Phụ (Tỉnh Thái Bình), phía
tây giáp huyện Thanh Miện. Chiều dài của huyện là 15 km, chiều ngang ở phía Bắc
rộng 12 km. Diện tích tự nhiên toàn huyện là 13.543,7 ha, dân số 143.794 người,
sống trong 36.624 hộ gia đình.
Năm 2001, năm đầu của thiên niên kỷ mới, trên cơ sở quán triệt nghị
quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết tỉnh Đảng bộ lần thứ
XIII và Nghị quyết huyện Đảng bộ lần thứ XXII. Dưới sự lãnh đạo của các cấp
uỷ Đảng, chính quyền, các ngành, sự phấn đấu nỗ lực vượt qua khó khăn của
nhận dân trong huyện, tình hình kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng huyện
Ninh Giang tiếp tục phát triển, đạt vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Cơ cấu kinh
tế nông thôn tiếp tục chuyển đổi theo hướng tích cực, giảm tỉ trọng ngành nông
nghiệp, tăng tỉ trọng ngành tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản và dịch vụ
(nông nghiệp từ 67,3% giảm còn 62,5%; tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản
từ 13,5% lên 17%; dịch vụ từ 17,4% lên 20,5%. Giá trị sản xuất bình quân đầu
người đạt 5,46 triệu đồng, tăng 6,6% so với năm 2000). Kết quả trên đã tạo ra
bước chuyển biến mạnh mẽ về phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, giải quyết
những vấn đề xã hội bức xúc đặc biệt là vấn đề giải quyết việc làm, cải thiện đời
sống vật chất và văn hoá tinh thần của các tầng lớp dân cư, đảm bảo ổn định
chính trị xã hội, tạo đà phát triển cho những năm sau.

Bên cạnh những kết quả đạt được huyện Ninh Giang còn một số tồn tại:
Trang 25

×