Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.2 KB, 5 trang )
Rối cạn
Nghệ thuật rối cạn dân gian truyền thống phát triển rộng khắp cả
nước với nhiều tên gọi:
- Miền Bắc: ổi, Lỗi, ổi lỗi, Khối lỗi, Rối, Múa rối, Trò, Trò máy,
(Việt): Mộc thầu hí (Nùng), Slương pấtlạp (Tày), Mụa rội (Mường),
- Miền Nam: Hát gỗ, Hát hình,
Rối cạn gồm các loại: rối tay, rối que, rối máy, rối dây, rối bóng.
Rối tay ít dùng trên sân khấu, còn gặp nhiều trong trò nghi lễ chùa
chiền. Rối tay thường được chế tạo đầu bằng gỗ, mình khâu vải (không
tay), khi điều khiển nghệ nhân lồng bàn tay vào trong lòng khoét rỗng của
đầu hoặc cầm một đoạn cán nối dài cô.
Rối tay
Rối que rất phổ biến, nhỏ cỡ 30-35 cm. Đầu tạc liền với mình bằng
gỗ, gồm cả tóc, tai, khăn, mũ, bàn tay bằng gỗ gọt liền cổ tay. Điều khiển
bằng que tre, que sắt cắm vào mình và cổ tay luồn trong áo. Không có
chân, cần tạc thêm đính ngoài. Cũng có nơi, có quân tạo hình cỡ lớn, kiểu
hình nhân, đầu mình đang bằng nan dùng diễn thờ, xong đem đốt. Đặc
biệt đồng bào Bana tạc hình nhân khá lớn bằng gỗ dùng trong lễ bỏ mả và
sau lễ bỏ lại trong nhà mồ.
Trên sân khấu, nhiều quân thì dùng thêm dây mềm điều khiển bộ
phận chi tiết phối hợp với que.
Rối que
Rối máy rất thông dụng cả trong đồ chơi, trò chơi và sân khấu.
Toàn thân được tạc bằng gỗ riêng từng bộ phận, nối với nhau bằng khớp
lỏng. Thường dùng sơn vẽ mầu thay trang phục vải. Điều khiển bằng que,
dây. Nhiều quân là trò riêng. Dùng xen với rối tay, rối que. Chuyên dùng
trong rối nước, đồ chơi trẻ em, rối diều, rối gió, rối pháo.