Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.81 KB, 12 trang )

Đề bài: Tư Tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội
MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sang tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,…Tư tưởng Hồ
Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản
tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.Đây là đoạn nói về tư tưởng Hồ Chí Minh
trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu
tồn quốc lần thứ IX.Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ dẫn dắt sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, trong đó tư tưởng của Người về chủ
nghĩa xã hội là một bộ phận hết sức quan trọng.Trong bối cảnh tình hình chính trị
thế giới và trong nước có nhiều biến động đặc biệt là sự kiện về biển Đông trong
thời gian gần đây thì chúng ta càng phải xây dựng vững chắc Chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ tính thời sự của vấn đề mà em đã chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội” để làm bài tiểu luận của mình. Bài tiểu luận ngồi
phần mở đầu và phần kết thúc thì được chia làm 2 phần:
PHẦN I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
PHẦN II: Sự vận dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội của Đảng ta
trong sự nghiệp xây đựng đất nước hiện nay.
PHẦN III: Liên hệ bản thân về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”.

NỘI DUNG
PHẦN I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MỤC TIÊU VÀ ĐỘNG LỰC CỦA
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội




- Về chế độ chính trị: nhân dân làm chủ, quyền lực thuộc về dân, chính phủ là
đầy tớ của dân; dân có quyền và có nghĩa vụ làm chủ. "Nhà nước ta là nhà nước
dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân
lãnh đạo".
- Về kinh tế: Xây dựng kinh tế Xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến; hình thành sở hữu nhà nước-nó
phải lãnh đạo kinh tế quốc dân.Chủ nghĩa xã hội chỉ thắng Chủ nghĩa tư bản khi
nào có năng suất lao động cao hơn hẳn.Cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa là quy luật
tất yếu có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau."Làm trái với Liên Xô cũng là
Mácxít"
- Về văn hóa: Có văn hóa phát triển cao (vừa mang tính chất Xã hội chủ nghĩa,
vừa mang tính chất dân tộc - tức là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc).Đó là nền văn hóa lấy hạnh phúc của đồng bào, dân tộc làm cơ sở để phát
triển, văn hóa "phải sửa đổi được thói tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ".
"Phải làm cho ai cũng có lý tưởng, tự chủ, độc lập, tự do".
- Về mối quan hệ xã hội: Thực hiện công bằng, dân chủ; xây dựng mối quan hệ
tốt đẹp giữa người với người; quan tâm thực hiện chính sách xã hội.
Về con người Xã hội chủ nghĩa, phải có phẩm chất cơ bản sau: Con người có tinh
thần và năng lực làm chủ; có đạo đức Xã hội chủ nghĩa: cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư; có kiến thức khoa học kỹ thuật; có tinh thần sáng tạo, nhạy bén với cái
mới.Đó cũng là động lực quan trọng nhất để xây dựng thành công Chủ nghĩa xã
hội. - Phải quan tâm đến phụ nữ (một nửa của xã hội), phải giải phóng phụ nữ, xây
dựng bình đẳng nam - nữ.
2. Về động lực của Chủ nghĩa xã hội
Phát huy các nguồn động lực cho việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội: vốn, khoa
học công nghệ, con người (năng lực của con người); trong đó lấy con người làm
động lực quyết định: “Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ
đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người”. Phát huy động lực con

người trên cả hai phương diện: cộng đồng và cá nhân.Phát huy động lực của cộng
đồng là phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết- động lực chủ yếu để phát triển
đất nước.Phát huy sức mạnh của cá nhân trên cơ sở kích thích hành động gắn liền
với lợi ích vật chất chính đáng của người lao động.Từ đó tác động cả về chính trị
và tinh thần trên cơ sở phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động và ý thức
làm chủ.Sau vấn đề dân chủ là thực hiện công bằng xã hội, đặc biệt là trong phân
phối phải theo nguyên tắc: "không sợ thiếu, chỉ sợ khơng cơng bằng".Tránh bình


quân,Bác nêu khẩu hiệu ba khoán và một thưởng.Thưởng phạt cơng minh. "Khốn
là một điều kiện của Chủ nghĩa xã hội..." Sử dụng vai trò điều chỉnh các nhân tố
tinh thần khác như: văn hóa, đạo đức, pháp luật đối với hoạt động của con người.
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI
1. Hồn cảnh lịch sử ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX đặt ra yêu cầu khách quan là tìm một ý
thức hệ mới đủ sức vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn đem lại
thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.Cách mạng Việt Nam địi hỏi có một giai cấp
tiên tiến đại diện cho phương thức sản xuất mới, có hệ tư tưởng độc lập, có ý thức
tổ chức và trở thành giai cấp tự giác đứng lên làm cách mạng.Hồ Chí Minh sớm
nhìn thấy phong trào yêu nước Việt Nam đang rơi vào khủng hoảng về đường lối,
vì vậy cách mạng chưa đem lại độc lập dân tộc.Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với Chủ nghĩa xã hội xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cách mạng tháng
mười Nga giành thắng lợi đã mở ra con đường hiện thực cho giải phóng dân tộc ở
phương đơng: độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.Vì vậy Nguyễn Aí
Quốc đã bắt đầu truyền bá tư tưởng Chủ nghĩa xã hội trong dân.
2. Những quan điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa xã hội từ tư duy độc lập sáng tạo tự chủ. Đặc
điểm của định hướng tư duy tự chủ sáng tạo là: định hướng tư duy trên cơ sở thực
tiễn; ln tìm tận gốc của sự vật, hiện tượng; kết hợp lý trí khoa học và tình cảm

cách mạng.Tư duy của Hồ Chí Minh là tư duy rộng mở và văn hóa.Hồ Chí Minh
cịn thấy một điểm rất quan trọng thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội là muốn
đạt tới lý tưởng,mục tiêu xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên chống lại chủ nghĩa
cá nhân.Người nhìn nhận chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội bảo đảm sự phát
triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội.Hồ Chí Minh làm phong phú thêm hướng tiếp
cận chủ nghĩa xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm sáng tỏ
bản chất chủ nghĩa xã hội từ những kiến giải về kinh tế, chính trị và xã hội.Ngồi
những kiến giải ấy, Hồ Chí Minh cịn nhìn nhận bản chất chủ nghĩa xã hội từ
phương diện đạo đức, văn hoá. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội đối lập, xa lạ
với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề phủ nhận cá nhân, trái lại, tôn trọng con
người, phát triển mọi năng lực cá nhân vì phát triển xã hội và hạnh phúc của con
người.Đây là chiều sâu trong tư duy biện chứng, trong nhãn quan văn hoá, đạo đức
của Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng mới mong hồn thành được nhiệm vụ vẻ vang của sự nghiệp


xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội.Để có đạo đức cách mạng thì phải loại trừ
mặt trái của nó là chủ nghĩa cá nhân.Đó là một kẻ thù nguy hiểm ngăn cản chúng ta
đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng, tự mình phá huỷ sự nghiệp của mình.Đây
chính 1à nỗi lo toan thường trực của Người.Từ tác phẩm “Đường Kách mệnh”
(1927) cho đến Di chúc để lại cho toàn Đảng, tồn dân (1969),Hồ Chí Minh khơng
lúc nào xa rời điều quan tâm lớn lao đó. Qua các tác phẩm “Tư cách của người
Kách mệnh”, “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” Người
nhấn mạnh rằng: “Khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được
nhân dân.Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng
việc to tát mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hố, xấu
xa thì cịn làm nổi việc gì”. Từ đó, Người đưa ra lời khẳng định: “tư tưởng xã hội
chủ nghĩa là chống tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần
phải chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân cách, bảo đảm
cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong sự hài hồ giữa cá

nhân và xã hội.Nhìn nhận mặt bản chất quan trọng này, Hồ Chí Minh đưa ra quan
niệm, chủ nghĩa xã hội là xã hội trong đó mình vì mọi người, mọi người vì mình.
Do đó, một trong những nét nổi bật của con người xã hội chủ nghĩa là phải đạt tới
trình độ phát triển cao về đạo đức, về nhân cách, đủ sức chiến thắng chủ nghĩa cá
nhân. Xã hội xã hội chủ nghĩa vừa đòi hỏi, vừa tạo ra những con người như thế và
chăm lo giáo dục, phát triển con người là chiến lược quan trọng bậc nhất của chủ
nghĩa xã hội. Điều cần lưu ý là, mặc dù rất chú trọng nhân tố đạo đức trong sự phát
triển của chủ nghĩa xã hội và coi đạo đức xã hội chủ nghĩa là thuộc về bản chất ưu
việt của chủ nghĩa xã hội, song Hồ Chí Minh khơng bao giờ xem đạo đức là hiện
tượng nằm ngoài tác nhân khác, gây nên sự chia cắt, đối lập giữa kinh tế với đạo
đức.Người đề cao sức mạnh tinh thần đạo đức, nhưng không rơi vào duy ý chí, chủ
quan hoặc chủ nghĩa trừu tượng.Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ln
ln nhất qn tính thống nhất biện chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hố và đạo đức. Từ cách tiếp cận đó về chủ nghĩa xã hội, thông qua hoạt
động lý luận và thực tiễn hết sức phong phú, Hồ Chí Minh đã rút ra những kết luận
rất sâu sắc về bản chất của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội có
khả năng thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đem lại tự do và hạnh phúc cho
nhân dân.Hồ Chí Minh đã nói về chủ nghĩa xã hội một cách sâu sắc và khoa học,
nhưng lại giản dị có sức cảm hố rất lớn đối với nhân dân.Với câu hỏi chủ nghĩa xã
hội là gì? Người trả lời rất sáng tỏ: “Xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng
tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”.Luận đề tổng quát đó được
Người cụ thể thêm “Chủ nghĩa xã hội nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày
càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”;“Chủ nghĩa xã hội là làm


sao cho dân giàu, nước mạnh. Bản chất của chủ nghĩa xã hội cịn được làm sáng tỏ
khi Người nói tới trọng trách của Đảng với nhân dân, nhất là khi Đảng đã trở thành
Đảng cầm quyền.Hồ Chí Minh ln luôn lấy cuộc sống hạnh phúc của nhân dân
làm thước đo hiệu quả, làm căn cứ đánh giá công việc của Đảng và Nhà nước
ta.Bản chất và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội có được bộc lộ ra khơng, có được

phản ánh đúng đắn khơng là ở đó. Người viết: “Chính sách của Đảng và Chính phủ
là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính
phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính
phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Qua đó, chúng ta thấy rằng,
Hồ Chí Minh địi hỏi cao như thế nào sự tận tụy, hy sinh, sự mẫu mực trong sáng
của Đảng và Nhà nước, biểu hiện không những ở tổ chức và thể chế, mà còn ở
từng người, từng cán bộ, đảng viên của Đảng, những công chức của bộ máy chính
quyền, những cơng bộc của dân.Người thấu hiểu sâu sắc rằng, sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội địi hỏi như vậy. Chính điều này làm sáng tỏ biết bao sự nhạy cảm
và tinh tế của Hồ Chí Minh khi Người đặt lý luận về Đảng và Nhà nước của dân,
do dân, vì dân vào vị trí cốt yếu của lý luận về chủ nghĩa xã hội và công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.Cũng như vậy, Người xác định đạo đức và tư cách của
Người cách mạng ở vị trí quan trọng hàng đầu quyết định thành bại của cơng cuộc
kiến thiết chủ nghĩa xã hội.Mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là
khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là
nhân dân lao động.Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là một trong những vấn
đề quan trọng mà Người đặc biệt quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý
báu nhất của nhân dân, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ,
bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân; dân chủ là chìa khố của mọi tiến bộ và phát triển.Quan niệm
này đã đặt nền tảng và giữ vai trò chỉ đạo trong hoạt động của Đảng và Nhà nước
ta.Cùng với chế độ mới, nền kinh tế mới, Hồ Chí Minh cịn nhấn mạnh tới nền văn
hố mới và con người mới xã hội chủ nghĩa trong mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Bao quát mục tiêu đó, Người nhắc nhở chúng ta: “Cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất... chúng ta phải biến một
nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh
phúc”.Về động lực, nhất là động lực bên trong, nguồn nội lực thúc đẩy công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã đưa ra những chỉ dẫn thiết thực và quý
báu.Người khẳng định nhân tố, động lực quan trọng và quyết định nhất là con
người “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội

chủ nghĩa”.Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự cố kết cộng đồng, sức lao động
sáng tạo của nhân dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của chủ


nghĩa xã hội. Người ln ln xây đắp khối đồn kết dân tộc và nhấn mạnh: đoàn
kết, đại đoàn kết tồn dân là nguồn sức mạnh vơ địch.Cùng với động lực tinh thần,
Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi
năng lực sản xuất vì ích nước, lợi nhà.Người cịn chủ trương áp dụng “Tân kinh tế
chính sách” của Lênin khi Người khởi thảo điều lệ “Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội”.Dự cảm và trù tính về tương lai của Người là như vậy.Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh văn hố, giáo dục, khoa học là động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người quan tâm đến vai trị của văn hố
ngày càng tăng trong sự phát triển, văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi; phải
xúc tiến cơng tác văn hố để đào tạo con người mới và cán bộ mới.Đó là nguồn
vốn, là của cải quý báu nhất của quốc gia.Ngoài các động lực bên trong, những
nhân tố nội sinh là hết sức quan trọng, theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội đòi hỏi phải kết hợp được với các nhân tố bên ngoài (ngoại sinh).Một
trong những động lực bên ngoài là sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước gắn liền
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đứng trước một thực tế là trở thành Đảng cầm quyền.Nỗi
quan tâm lớn nhất của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng
khơng trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thối hố, biến chất làm mất lòng tin của
dân.Đây là điều hệ trọng. Hồ Chí Minh đặc biệt lưu tâm tới cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân và thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng đối với cán bộ,
đảng viên.Người coi đó là điểm mấu chốt.Chỉ như vậy, Đảng mới mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức, mới xứng đáng với lịng tin của nhân dân. Hồ Chí Minh đã
nêu lên những chỉ dẫn hết sức sâu sắc: “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho
dân” vì lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết, dân chúng là “nền tảng lực lượng của
Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”.Trong phương thức lãnh đạo của Đảng,Người
nhắc nhở “phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành cái đường lối

để lãnh đạo quần chúng, phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các
vấn đề mà hố nó thành cái chỉ đạo nhân dân”. “Những cán bộ có khuyết điểm
thường sợ dân nói.Nhưng nếu thành thật với dân biết mình có lỗi, xin lỗi dân thì
dân cũng rất vui lịng và sẽ tha thứ cho”.Hồ Chí Minh quan niệm thống nhất lý
luận với thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin.Lý luận hoá tực tiễn từ sự nghiên cứu, tổng kết thực tiễn một cách khoa
học và thực tiễn hoá lý luận từ sự vận dụng và phát triển lý luận trong thực tiễn
một cách sáng tạo - đó là nét nổi bật thuộc về nội dung, phương pháp tư tưởng Hồ
Chí Minh nói chung cũng như tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội nói riêng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn cờ soi sáng con đường cách mạng Việt
Nam đi tới thắng lợi.


PHẦN II: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI CỦA ĐẢNG TA TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC HIỆN
NAY
I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Công cuộc đổi mới ở nước ta diễn ra đã 24 năm (1986-2010), đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.Trong đó, một thành tựu lớn là Đảng và nhân
dân ta nhận thức về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước
ta ngày càng rõ hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội năm 1991 đã phác họa mơ hình Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây
dựng với sáu đặc trưng. Đại hội lần thứ X bổ sung, phát triển, làm cho mơ hình
Chủ nghĩa xã hội đang được xây dựng ở nước ta toàn diện hơn, hồn chỉnh hơn.
Đó là: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, phát triểntoàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình

đẳng, đồn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới".Mơ hình Chủ nghĩa xã hội nêu trên thể hiện quan điểm Mác - Lênin về Chủ
nghĩa xã hội.Một mặt, lấy phục vụ con người làm mục đích, tức là "tất cả vì con
người". Mặt khác, lấy việc phát huy sức mạnh của con người làm động lực chủ yếu
để xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, tức là "tất cả do con người".Đồng thời,
mơ hình trên cũng thể hiện sự qn triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ
nghĩa xã hội.Mơ hình ấy biểu hiện như một kết cấu tổng thể, ổn định tương đối, nó
khơng phải là một mơ hình khép kín và cứng nhắc. Mơ hình Chủ nghĩa xã hội thời
kỳ đổi mới ở nước ta chứa đựng khả năng mở rộng nội hàm, tiếp tục bổ sung
những nét mới là kết quả của việc không ngừng nâng cao trình độ lý luận và tổng
kết thực tiễn phong phú, đa dạng.Nó là kết quả của sự kết hợp hài hòa cái phổ biến
và cái đặc thù, cái chung và cái riêng để tạo nên một mơ hình có tên gọi: mơ hình
Chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Nó thể hiện xu hướng gắn kết hợp lý tiến trình phát
triển của Chủ nghĩa xã hội với sự vận động không ngừng của nhân loại đi lên phía
trước, kế thừa những thành tựu tiến bộ của loài người để xây dựng thành công Chủ
nghĩa xã hội.Thực tế 24 năm qua đã chứng minh, với mơ hình này, chúng ta đã thu
được những thành tựu, to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thời điểm hiện nay đã có yêu cầu


bức thiết và những điều kiện cơ bản đã chín muồi cho việc bổ sung phát triển
Cương lĩnh trong đó có mơ hình Chủ nghĩa xã hội của nước ta. Lãnh đạo công
cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội của
nước ta có những đổi mới sâu sắc. Nếu trước đây thường nói, nước ta quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội "bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa", thì từ Đại hội lần
thứ IX trong các văn kiện chính thức của Đảng, Nhà nước diễn đạt là: Nước ta quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa". Việc "bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa" được giải thích rõ về hai phương diện: Thứ nhất, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa là "bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến

trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa".Thứ hai, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần
"tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học - công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại".Nhận thức trên đây là kết quả của sự đổi mới
tư duy về Chủ nghĩa xã hội, về mối quan hệ giữa Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa tư
bản. Tư duy "cũ" hiểu sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội là kết quả của sự phủ định
triệt để Chủ nghĩa tư bản, từ đó có nơi có lúc cho rằng cái gì càng xa với Chủ nghĩa
tư bản thì càng gần với Chủ nghĩa xã hội. Tư duy mới phân biệt sự khác nhau về
chất giữa Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa tư bản, nhưng đặt Chủ nghĩa xã hội và
Chủ nghĩa tư bản vào lịch trình chung của sự tiến hóa nhân loại qua năm hình thái
kinh tế - xã hội để xác định vị trí của Chủ nghĩa tư bản như là một giai đoạn phát
triển cao của văn minh nhân loại và là nấc thang cận kề để lồi người từ đó bước
sang nấc thang cao hơn là Chủ nghĩa xã hội.Ở nước ta tiến trình của cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân kéo dài 30 năm đã đem lại những thành tựu to lớn,
tạo nên những tiền đề để nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội.Những thành tựu và những tiền đề đó (nhất là những thành tựu trong lĩnh vực
xây dựng kiến trúc thượng tầng và những tiền đề về chính trị, xã hội), không dung
nạp sự thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng Tư bản chủ
nghĩa.Thậm chí, những thành tựu đó sẽ bị hủy hoại, những tiền đề đó sẽ bị phủ
định, nếu đất nước đi theo con đường Tư bản chủ nghĩa.
Nước ta cần "tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ tư bản" bởi vì:
Một là, "bỏ qua" chế độ Tư bản chủ nghĩa nhưng nước ta vẫn phải tơn trọng q
trình lịch sử - tự nhiên của sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang
hình thái kinh tế - xã hội khác, đặc biệt, phải tơn trọng q trình lịch sử tự nhiên
của lực lượng sản xuất, của các nhân tố kinh tế - kỹ thuật mà xét đến cùng là những
nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của chế độ mới.


Hai là, từ một nước chậm phát triển, bằng "con đường rút ngắn" đi lên Chủ

nghĩa xã hội, tất yếu nước ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài trong đó có sự
xen kẽ "những mảnh của chủ nghĩa xã hội" với "những mảnh của Chủ nghĩa tư
bản" (Lênin). Trạng thái xen kẽ ấy làm cho các yếu tố của Chủ nghĩa xã hội và các
yếu tố của Chủ nghĩa tư bản vừa đấu tranh với nhau, vừa "chung sống hịa bình",
vừa bài trừ, vừa nương tựa, thâm nhập vào nhau.
Ba là, nước ta "bỏ qua" chế độ Tư bản chủ nghĩa nhưng không thể bỏ qua q
trình phát triển có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn mà Chủ nghĩa tư
bản đã từng trải qua: sản xuất hàng hóa; tiến hành cách mạng kỹ thuật - theo nhu
cầu phát triển biện chứng của kỹ thuật trong hiệp tác giản đơn, công trường thủ
cơng, đại cơng nghiệp cơ khí - để chuyển lao động thủ cơng thành lao động sử
dụng máy móc; mở rộng giao lưu trong nước và giao lưu quốc tế, khắc phục tâm lý
sản xuất nhỏ và tư tưởng phong kiến...
Bốn là, "bỏ qua" chế độ Tư bản chủ nghĩa nhưng phải kế thừa những thành tựu
tiến bộ mà loài người tạo ra trong chế độ Chủ nghĩa tư bản.Sau khi "bỏ qua" phần
lạc hậu của Chủ nghĩa tư bản (địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng Tư bản chủ nghĩa), chúng ta cần tiếp thu những thành tựu của Chủ
nghĩa tư bản và sử dụng chúng vào mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã hội. "Bỏ qua"
chế độ Tư bản chủ nghĩa, nhưng đồng thời sử dụng những thành quả văn minh
trong Chủ nghĩa tư bản một cách chủ động và tự giác, chọn lọc kỹ lưỡng trong điều
kiện mới - điều kiện có nhà nước Xã hội chủ nghĩa và với chủ thể mới là nhân dân
lao động. Nhận thức mới của Đảng ta về mơ hình Chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên CNXH đã được thể hiện nhất quán. Sự nhất quán đó sẽ tạo nên một nền tảng
vững chắc cho hệ thống quan điểm lý luận về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã bắt đầu hình thành và sẽ từng bước được bổ
sung, hồn thiện.Thành tựu đó có ý nghĩa lớn nhưng vẫn là bước đầu. Vì, một mặt,
nó cần được nâng lên trình độ cao hơn về lý luận để trở thành một triết lý, hay nói
cách khác - một bộ phận chủ đạo trong chủ thuyết chung của công cuộc xây dựng
Chủ nghĩa xã hội ở nước ta; mặt khác, nó phải được mở rộng sang mọi phương
diện và các lĩnh vực quan trọng của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội mà Nghị
quyết của các Đại hội Đảng đã nêu thành nhiệm vụ trực tiếp và đang được quan

tâm sâu sắc. Thí dụ: vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất Xã hội chủ nghĩa chủ yếu
dựa trên chế độ công hữu từ một nền kinh tế đa thành phần, đa sở hữu hiện nay;
vấn đề cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh của thời kỳ khoa học-công
nghệ bùng nổ và xuất hiện kinh tế tri thức, đặc biệt là công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nơng nghiệp và nơng thơn theo con đường xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng


và phát triển nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, trong đó mấu chốt là xây dựng nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội, kết hợp
những giá trị dân tộc truyền thống với những tinh hoa của nền văn minh hiện đại;
vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập và phải đối
mặt với những thách thức từ nhiều phía... Điều kiện tiên quyết cho sự thành công
của việc đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ nói trên là: Kiên định nền tảng tư tưởng
của Đảng, tiếp tục kế thừa và phát triển những kết quả nhận thức về mơ hình và
con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta và luôn bám sát thực tiễn, coi trọng
việc tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước trong bối cảnh thế giới ln có những
thay đổi.
II. QN TRIỆT VÀ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG
Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà
nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo;
thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội; giải quyết đúng mối
quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân
dân, với thị trường.Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo
pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương.Nhà nước
chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân.
- Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo
đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Tiếp tục hoàn thiện
hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực
hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
- Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục xây dựng, từng bước
hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động
và quyết định của các cơ quan công quyền.Những thành tựu quan trọng mà nhân
dân đã đạt được trong thời gian qua, đặc biệt là trong hơn 17 năm đổi mới là một
thực tế khơng ai có thể phủ nhận được. Con đường đi tới của cách mạng nước ta có
nhiều thuận lợi, nhưng khơng ít khó khăn. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với sự lãnh đạo sáng tạo, đúng đắn của Đảng ta,


nhân dân ta sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
PHẦN III: Liên hệ bản thân học tập và làm theo tư tưởng đạo đức phong cách
Hồ Chí Minh.
Từ những nhận thức về tư tưởng, phong cách, đạo đức của Bác mà bản thân đã
được nghiên cứu, tiếp cận và học hỏi, bản thân tự liên hệ như sau: Sẽ không ngừng
rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, tư cách, sống cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư, hồ nhã với mọi người. Trong cuộc sống cũng như trong công tác luôn
thẳng thắn, trung thực bảo vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng,
khiêm tốn, không bao che, giấu khuyết điểm...
Trong cơng việc: Để cơng việc của mình được thực hiện có sự đổi mới, khoa học
thì bản thân phải tích cực tìm tịi, nghiên cứu, cập nhật các văn bản, tài liệu liên
quan đến công tác được giao cũng như luôn học hỏi kinh nghiệm hay từ đồng
nghiệp, từ thực tiễn để làm tốt công việc được giao.Bản thân lập kế hoạch cụ thể,
bố trí thời gian và phương pháp làm việc khoa học, việc gấp thì phải làm trước;
tránh tình trạng cơng việc bề bộn, gặp việc nào làm việc ấy dẫn đến qn việc hoặc
khơng hồn thành công việc được giao.

Trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày và mối quan hệ xã hội: Từ việc học tập
phong cách làm việc khoa học đổi mới của Bác, bản thân đã áp dụng vào cuộc
sống sinh hoạt hàng ngày, chủ động phân bổ sắp xếp thời gian hợp lý giữa công
việc ở cơ quan và công việc trong gia đình, đảm bảo chấp hành nghiêm túc kỷ luật,
giờ giấc lao động của cơ quan, đơn vị. Sắp xếp thời gian để thăm hỏi, động viên
người thân, đồng nghiệp trong những lúc ốm đau, hiếu, hỉ….
Trên đây là nội dung tự liên hệ của bản thân về học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh, tơi rất mong mọi người quan tâm góp ý để hồn
thiện…

KẾT LUẬN
Trong tình hình thế giới phức tạp hiện nay, các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã
hội tiếp lục tìm mọi cách để bài bác, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin.Luận điệu họ
thường nêu lên một cách sai lầm là họ đem đồng nhất sự sụp đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông âu với sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác-Lênin, sự đổ vỡ của
hệ tư tưởng mác xít. Điều cần lưu ý là có một số người vốn là mácxít, nay dao
động do những động cơ sai lầm khác nhau, dẫn tới sự hoài nghi học thuyết MácLênin, hoài nghi con đường đi tới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thậm chí chống lại
đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ định con đường đi tới chủ
nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã lựa chọn.Bởi vậy, chúng ta cần phải kiên định trước
con đường mà Đảng và Hồ Chí Minh đã chọn, vững bước đi theo con đường xã hội


chủ nghĩa.Nhân bài này em xin đề xuất rằng chúng ta nên tổ chức giáo dục tuyên
truyền nhiều hơn nữa ,sâu rộng hơn nữa về tư tưởng Hồ Chí Minh mà đặc biệt là tư
tưởng Hồ Chí Minh trong quần chúng nhân dân để có thể giúp người dân hiểu rõ
hơn về con đường Xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng ,từ đó tích cực
hơn nữa trong công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa sớm tới ngày thắng lợi.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×