MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết
1.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã dành cơng sức của cả cuộc đời hoạt động cách mạng cho việc xây dựng
Đảng thành Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh. Với Người, Đảng cầm
quyền phải có lý luận cách mạng tiên phong là chủ nghĩa Mác – Lênin; phải
vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân, có quan
hệ máu thịt với nhân dân; Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân làm chủ. Xây dựng
Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, Đảng phải lấy tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức; lấy tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách làm nguyên
tắc lãnh đạo; lấy tự phê bình và phê bình làm nguyên tắc sinh hoạt; lấy kỷ
luật nghiêm minh và tự giác để tạo nên sức mạnh cho Đảng; lấy đoàn kết nội
bộ để xây dựng Đảng thành một khối thống nhất; lấy việc thường xuyên
chỉnh đốn, tự đổi mới làm quy luật phát triển; và lấy công tác cán bộ là khâu
then
chốt.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua, nhất là từ khi Đảng
Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện giữ vị trí
cầm quyền và nắm vai trị lãnh đạo cách mạng, đã cho chúng ta thấy rõ, sự
lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu, xây dựng Đảng là nhiệm
vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta. Trong
cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Tại Đại hội XI, khi đề ra tám nhiệm
vụ cơ bản có tính hệ thống, toàn diện về xây dựng Đảng, một lần nữa, Đảng
ta tiếp tục yêu cầu xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương đã thông qua Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng trong tình hình hiện nay” với ba vấn đề đang thực sự cấp bách,
1
1
cần làm ngay nhằm tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng
Đảng để Đảng ta thực sự là Đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong
sạch, vững mạnh
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề học viên chọn đề tài “ Tư
tưởng HỒ CHÍ MINH về Đảng cộng sản và phương thức nâng cao năng
lực cầm quyền của Đảng” làm đề tài kết thúc môn học.
Mục tiêu và nhệm vụ nghiên cứu
2.
Mục tiêu:
+ Làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản cầm quyền.
+ Trình bày một số phương thức nâng cao năng lực lãnh đạo của
đảng cầm quyền
+ Trên cơ sở nghiên cứu gợi mở một số luận điểm áp dụng vào
việc xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong điều kiện mới.
Nhiệm vụ:
+ Phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản
cầm quyền và phương thức nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền.
+ Đề ra một số điểm vận dụng vào xây dựng Đảng côgnj sant
Việt Nam trong điều kiện mới.
+ Đề xuất giải pháp giải quyết xung đột.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản cầm quyên và phương thức
nần cao năng lực lãnh đạo của đảng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài dựa vào phương pháp luận duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng một số phương pháp
như: diễn dịch - quy nạp, lơgích - lịch sử, phân tích - tổng hợp, thu thập tài
liệu, phân loại tài liệu, đọc nhanh,….
5. Kết cấu của tác phẩm
Ngoài phần mở đầu, kết luận tiểu luận gồm 2 chương.
2
2
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản cầm
quyền
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản cầm
quyền
1.1.1 Cơ sở lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển trên cơ sở chủ nghĩa
Mác Lê Nin, trong đó có tư tưởng của Người về Đảng Cộng Sản cầm quyền.
Mác Ăngen đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
gắn với sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Để hoàn thành sứ mệnh
lịch sử giai cấp cơng nhân cần phải tổ chức ra chính đảng cách mạng của
mình. Tuy nhiên thời kỳ đó chưa có một Đảng Cộng sản nào được thành lập.
Kế tục sự nghiệp của Mác Ăngghen, Lê Nin đã nêu lên những quan
điểm cơ bản về Đảng cộng sản và xây dựng Đảng cộng sản, Đảng của giai
cấp công nhân.
Đặc biệt Lê Nin đã đề ra những quan điểm về cách mạng giải phóng
dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản, trong đó có vai trị lãnh đạo của
đảng cộng sản ở những nước thuộc địa.
Hồ Chí Minh tiếp thu Chủ Nghĩa Mác Lê Nin , trong đó có lý luận về
xây dựng Đảng cộng sản ở những nước thuộc địa để lãnh đạo giai cấp công
nhân.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Năm 1918, Hồ Chí Minh đã giác ngộ cách mạng và gia nhập Đảng xã
hội Pháp.
Tháng 12/1920 Đảng xã hội Pháp họp ở Tua ( Pháp), Hồ Chí Minh bỏ
phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và trở thành Đảng viên Đảng
Cộng sản và lãnh tụ sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Điều này chứng tỏ Hồ
Chí Minh đã giác ngộ sâu sắc và thấu hiểu những vấn đề lý luận của Chủ
Nghĩa Mác-Lê Nin về Đảng Cộng sản.
3
3
Sau khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lê Nin về Việt Nam và các nước thuộc địa, chuẩn bị cho việc ra
đời của Đảng Cộng sảnViệt Nam, một Đảng ở một nước thuộc địa nữa phong
kiến, kinh tế lạc hậu, giai cấp CN còn non trẻ, số lượng chưa nhiều.
Cách mạng tháng 8 thành công, Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng
cầm quyền, Hồ Chí Minh là lãnh tụ Đảng 24 năm. Người hiểu sâu sắc yêu
cầu và đề ra những quyết định đúng đắn về xây dựng Đảng cầm quyền.
Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn lý luận và thực tiễn trong sáng
lập và lãnh đạo Đảng cầm quyền ở Việt Nam.
1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản cầm quyền
1.2.1. Tư tưởng về Đảng Cộng sản cầm quyền
Trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” Hồ Chí Minh nêu: Để làm Cách
Mệnh trước hết phải có cái gì? Người khẳng định: phải có Đảng Cách Mệnh
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với các dân tộc
bị áp bức và vô sản mọi nơi, Đảng có vững thì cách mạng mới thành cơng,
cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Trong Báo cáo chính trị tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Ðảng, năm 1951, khi nói về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, Bác
viết: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự
hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể
tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc
thuộc địa và nửa thuộc địa, một Ðảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành cơng, đã nắm chính quyền toàn quốc".
Và trong Di chúc để lại, tác phẩm cuối cùng của đời mình, khi nói về
Ðảng, một lần nữa Bác viết: "Ðảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải
4
4
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân".
Khái niệm về "Ðảng cầm quyền" thật ra khơng có gì xa lạ đối với các
nước tư bản chủ nghĩa với nền chính trị đa đảng. Ở đấy, Ðảng nào giành
thắng lợi trong tranh cử thì đứng ra lập chính phủ của mình và trở thành
"đảng cầm quyền". Cũng có nước, một số thế lực chính trị (hay qn sự)
giành lấy chính quyền thơng qua đảo chính hay lật đổ.
Ðối với Ðảng ta, vấn đề chính quyền đã được giải quyết thông qua con
đường cách mạng, phù hợp với những điều kiện lịch sử của nước mình.
Trước kia, khi nhân dân ta cịn sống trong vịng nơ lệ thì nhiệm vụ hàng đầu
của Ðảng là lãnh đạo nhân dân làm cách mạng lật đổ ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Và sau khi
đã giành được chính quyền rồi thì trọng trách của Ðảng là lãnh đạo gìn giữ
chính quyền, bảo vệ Tổ quốc, làm cho chính quyền ấy thực hiện tốt các
nhiệm vụ của cách mạng, trước hết và trên hết là vì lợi ích của Tổ quốc, của
nhân dân.
Theo tư tưởng của Bác Hồ và của Ðảng ta từ trước đến nay, khái niệm
Ðảng "nắm chính quyền" hay "cầm quyền" là đồng nghĩa với Ðảng lãnh đạo
chính quyền.
Năm 1947, trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Bác Hồ viết: "Ðảng
không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm trịn nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng".
Năm 1960, trong bài nói tại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Ðảng,
Người nhấn mạnh: "Ðảng ta vĩ đại, vì ngồi lợi ích của giai cấp, của nhân
dân, của dân tộc, Ðảng ta không có lợi ích gì khác".
Quan điểm xun suốt trong các tác phẩm của Bác là Ðảng (nói
chung) và cán bộ, đảng viên (nói riêng) "phải xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Muốn vậy, Ðảng và cán bộ,
5
5
đảng viên phải không ngừng rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân.
Năm 1953, trong thư gửi Lớp chỉnh Ðảng Liên khu 5, Bác viết: "Mục
đích chỉnh Ðảng là để dùi mài cán bộ và đảng viên thành những chiến sĩ
xứng đáng là người đầy tớ của nhân dân".
Năm 1968, làm việc với một số cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương
Ðảng về việc xuất bản loại sách "Người tốt, việc tốt", Bác nói: "Một dân tộc,
một Ðảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
khơng nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Ðảng, nói chung và về Ðảng cầm
quyền nói riêng ln được Ðảng ta trung thành, vận dụng sáng tạo và phát
triển. Nói Ðảng cầm quyền hồn tồn khơng có nghĩa là Ðảng tự biến mình
thành chính quyền, một mình mình nắm giữ chính quyền và làm chức năng
của chính quyền. "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" là
cơ chế vận hành của chế độ ta. Theo cơ chế ấy, Ðảng, Nhà nước và nhân dân
đều là những chủ thể của quyền lực, nhưng quyền lực của mỗi chủ thể ấy lại
không giống nhau. Quyền lực của Ðảng là quyền lãnh đạo, bao gồm cả
quyền lãnh đạo chính quyền, nhưng bản thân Ðảng lại khơng phải là chính
quyền nhà nước, khơng làm thay cho Nhà nước. Quyền lực nhà nước bao
gồm các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng quyền lực ấy khơng
phải do Nhà nước tự có mà là do nhân dân giao phó cho những cơ quan
quyền lực do mình cử ra. Quyền lực của nhân dân là quyền của người làm
chủ đất nước và quyền làm chủ ấy được thực hiện thơng qua các hình thức
dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, kể cả dân chủ tự quản ở cơ sở. Mẫu số
chung của ba loại quyền lực nêu trên (lãnh đạo, quản lý và làm chủ), xét cho
cùng, là tư tưởng Bác Hồ từng nêu lên trong bài báo "Dân vận" viết năm
1949 cách đây đúng 61 năm: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính
6
6
phủ Trung ương đều do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân".
Đảng cầm quyền là một vấn đề hết sức hệ trọng của cách mạng. Bởi
lẽ, theo Hồ Chí Minh cách mệnh “ trước hết phải có Đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt…Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng
có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam.” ( Hồ Chí Minh Tồn tập, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tập2, tr267-268 ). Chính vì lẽ đó, qua
q trình ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã tiếp
cận được chân lý của thời đại – đó là ngọn cờ tư tưởng của Chủ nghĩa Mác –
Lênin và Người đã đưa ánh sáng đó trở về Việt Nam, quyết tâm lãnh đạo
cách mạng Việt Nam theo ngọn cờ tư tưởng ấy. Bởi theo Người “ bây giờ
học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, dưới ánh
sáng tư tưởng Mác- Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành được quyền
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trở thành nhân tố chủ yếu đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sở dĩ Đảng có vinh dự giữ trọng trách to lớn đó là bởi mục đích của
Đảng khơng có gì khác là “ lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh
đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng
sản” ( Sđd tập 3, tr5). Vì vậy, “ Đảng không phải là một tổ chức để làm
quan phát tài. Nó phải làm trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho tổ
quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” ( Sđd, tập 5, tr 249) và “ Đảng ta chỉ
có một điều là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội chủ nghĩa
7
7
và cộng sản chủ nghĩa. Ngồi ra, khơng cịn có lợi ích nào khác”. Do đó
Đảng được “dân tin, dân phục, dân yêu”.
Để hoàn thành được sứ mệnh cao cả đó, Đảng phải có được sức mạnh
tương ứng. Như chúng ta biết, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước
nông nghiệp lạc hậu, trong bão táp của cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân và của cả dân tộc, nên sức mạnh của Đảng không phải là sức mạnh của
tiềm lực quân sự hùng mạnh hay tiềm năng kinh tế giàu có mà sức mạnh của
Đảng lúc này chỉ có thể là sức mạnh ý chí, tinh thần – sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Hồ Chí minh chỉ rõ: “Cái sức mạnh vơ địch mà ta có thể thắng quân
địch giành độc lập thống nhất là sự đồn kết”, “ Bất kỳ khó khăn gì, bất kỳ
cơng việc to mấy ta đồn kết đều làm được hết cả”, “ Đoàn kết là sức mạnh,
là then chốt của thành cơng”. Vì vậy, Đảng phải trở thành trung tâm của khối
đại đoàn kết để đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế.
Trong Sách lược vắn tắt của Đảng Hồ chí Minh chỉ rõ: “Đảng là đội
tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”.
Để hiện thực hóa tư tưởng đó, làm cho nó có sức mạnh vật chất, thành
lực lượng vật chất có tổ chức – Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập
và Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là
lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng
vững chắc. Quyền lãnh đạo Mặt trận không phải Đảng tự phong cho mình,
mà là được nhân dân tự giác thừa nhận. Điều này đã được Hồ Chí Minh phân
tích rất cặn kẽ: “Đảng khơng thể địi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo
của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và
chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng
rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì
Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo” (Sđd, Tập 3, tr.138).
8
8
Thực tế cho thấy Đảng đã xác định được chính sách Mặt trận đúng đắn
nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ vang của dân
tộc ta và Đảng cũng đã thể hiện được năng lực lãnh đạo trong thực tế. Hồ
Chí Minh căn dặn cán bộ, đảng viên về công tác Mặt trận: “Phải thành thực
lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ và đảng viên không được tự
cao tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người,trái lại phải học hỏi điều hay,
điều tốt ở mọi người”
Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết toàn dân,
Đảng phải thực sự đồn kết nhất trí. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Đảng ta là một
Đảng lãnh đạo. Tất cả cán bộ và đảng viên dù ở cương vị khác nhau, cũng
đều phải đồn kết nhất trí để làm tròn nhiệm vụ của Đảng giao cho” ( Sđd,
Tập 11 tr154)
Không chỉ dừng lại ở việc xây dựng và phát huy sức mạnh bên trong
của đoàn kết bằng việc xây dựng khối đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn
dân mà còn phải tranh thủ và huy động sức mạnh bên ngồi của đồn kết
bằng chính sách đại đồn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế.
Nghĩa là, Đảng phải biết cách giải quyết các vấn đề dân tộc theo giá trị và
chuẩn mực nhân loại; cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành thắng lợi khi
đồn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Vì vậy, Hồ Chí Minh
trong suốt q trình ra đi tìm đường cứu nước đã hướng về nhân loại và tìm
thấy “hình của nước” trong tấm gương nhân loại. Nhờ vậy Người được nhân
loại
yêu
mến,
khâm
phục,
giúp
đỡ.
Như vậy là từ đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn kết quốc tế; đại đoàn
kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đại đồn két quốc tế. Đó là bài
học của đại đồn kết vì thế, nó là bài học của đại thành cơng.
Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng ta và nhân dân ta rằng:
“Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân
dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên ngay từ ngày thành lập đến nay Đảng ta đã
đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng
9
9
lợi này đến thắng lợi khác”. Do đó, “phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Khi đã trở thành Đảng cầm quyền – lãnh đạo chính quyền, Đảng có
thêm sức mạnh vật chất nữa đó là nhà nước.
Về vấn đề này, ngay từ năm 1925 trong tác phẩm “Đường Kách
mệnh” khi đề cập đến mơ hình nhà nước trong tương lai và nhiệm vụ của nó,
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra Chính
phủ cơng - nông - binh, phát đất cho dân cày, giao công xưởng cho thợ
thuyền… ra sức tổ chức kinh tế mới để thực hành thế giới đại đồng”(Sđd tập
6 tr162). Đến trước khi vĩnh biệt đồng bào, đồng chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cịn căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm, liêm, chính,
chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” (Di chúc).
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các tổ chức đảng và đảng viên:
Đảng cầm quyền chứ không phải đảng trị, mọi cán bộ đảng viên của Đảng
phải biết tôn trọng nhà nước dân chủ nhân dân, gương mẫu chấp hành Hiến
pháp và pháp luật của nhà nước.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức nâng cao năng lực
cầm quyền của Đảng:
Hồ Chí Minh đã khái quát những yêu cầu xây dựng đảng kiểu mới
thành các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, tập trung dân chủ:
Đây là nguyên tắc cơ bản. Tập trung, dân chủ có quan hệ chặt chẽ với
nhau: Tập trung nền tảng dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo và tập trung.
Đối với tập trung thì thiểu số phải phục tùng vào đa số, cấp dưới phục tùng
cấp trên, toàn Đảng phục tùng trung ương
10
10
Đối với dân chủ thì mọi người phải bày tỏ hết ý kiến của mình, trong
Đảng phải thực hiện dân chủ rộng rãi. Thực hiện tập trung dân chủ thì “Đảng
ta tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người thôi. Mọi Đảng
viên phải tuyệt đối chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thực hiện dân chủ trong Đảng là cơ sở để thực hiện dân chủ ngoài xã
hội. Muốn thực hiện dân chủ tốt thì tổ chức Đảng phải trong sạch, vững
mạnh, nếu không sẽ dẫn đến tập trung quan liêu và dân chủ quá trớn.
Thứ hai, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách là tập trung dân chủ. Tại sao phải tập thể lãnh
đạo? Vì một người dù khôn ngoan, tài giỏi mấy cũng không thể thấy hết mọi
mặt của vấn đề. Vì thế cần phải có nhiều người, người thấy mặt này, người
thấy mặt khác sẽ tránh được sai lầm.
Vì sao phải có người phụ trách? việc gì bàn kỹ rồi phải giao cho 1
hoặc vài người chun trách, có chun trách cơng việc mới chạy. Nếu
không sẽ sinh ra dựa dẫm, ỷ lại giống như kiểu là nhiều sãi nhưng khơng ai
đóng cửa chùa.Thực hiện nguyên tắc này phải chống lại bệnh độc đoán,
chuyên quyền, vi phạm dân chủ, dựa dẫm tập thể, không dám quyết đốn,
khơng dám chịu trách nhiệm, hoặc bao biện, ôm đồm.
Thứ ba, tự phê bình và phê bình
Đây là quy luật phát triển Đảng. Bởi vì Đảng ta cũng ở trong xã hội.
Con người không phải thần thánh, ai cũng phải có khuyết điểm cả, nên phải
tự phê bình và phê bình như rửa mặt hàng ngày làm cho phần tốt ngày càng
nảy nở, phần xấu ngày càng ít đi. Một Đảng mà dấu khuyết điểm là một
Đảng hỏng, có gan thừa nhận những khuyết điểm, tìm cách sửa chữa để tiến
bộ sẽ là một Đảng chân chính.
11
11
Thái độ tự phê bình và phê bình là phải chân thành, thẳng thắng,
không nể nang, không giấu giếm, không thêm bớt, phải có tình đồng chí
thương u lẫn nhau.
Thứ tư, kỷ luật nghiêm minh tự giác
Kỷ luật Đảng là kỷ luật sắt, nghiêm minh tự giác. Việc coi thường kỷ
luật Đảng, không tự giác chấp hành kỷ luật sẽ làm suy yếu và tan rã Đảng.
Thứ năm, đoàn kết thống nhất trong Đảng
Người nhấn mạnh: Đảng viên phải biết giữ gìn sự đồn kết thống nhất
trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Đảng khơng thống nhất sẽ
rơi vào bè phái, chia rẽ và tan rã. Muốn đoàn kết phải thực hành dân chủ
rộng rãi, thường xuyên tự phê bình và phê bình, tu dưỡng đạo đức, chống
chủ nghĩa cá nhân.
Thứ sáu, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân
Sức mạnh của Đảng là ở nơi dân, Đảng lãnh đạo nhưng dân là chủ nên
Đảng phải biết lắng nghe học hỏi thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của dân,
phải vận động nhân dân xây dựng Đảng. Đảng phải chăm lo nâng cao dân trí,
khơng được theo đuôi quần chúng. Đảng là người đầy tớ nhưng là người lãnh
đạo người dân. Nếu có chức vụ thì đó là do sự uỷ thác của dân, cần phải làm
tốt như người lính vâng mệnh quốc dân ra mặt trận.
Thứ bẩy, thường xuyên chăm lo xây dựng chỉnh đốn Đảng
Theo Hồ Chí Minh . “xây dựng” và “chỉnh đốn” là hai vấn đề có mối
quan hệ biện chứng. Phải trên cơ sở xây dựng mà chỉnh đốn, chỉnh đốn cũng
nhằm mục tiêu xây dựng Đảng vững mạnh hơn, năng lực lãnh đạo được tăng
cường. Mục tiêu, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng đòi hỏi mỗi cán bộ,
đảng viên phấn đấu không ngừng để tiến kịp bước đi của cách mạng.
12
12
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ chí Minh vào qua trình
xây dựng Đảng cộng sản cầm quyền ở Việt Nam trong điều
kiện mới.
2.1 Quyền mà Đảng Cộng sản Việt Nam ''cầm'' là được chế định
bởi sự ủy thác của nhân dân.
13
13
Vai trò cầm quyền của Đảng ta là kết quả tất yếu của cả quá trình phấn
đấu kiên cường, bền bỉ của Đảng cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, ấm no,
hạnh phúc của nhân dân. Trải qua bao nhiêu cam go, thử thách, nhân dân đã
tin yêu Đảng, trao cho Đảng vai trò dẫn đường sự phát triển của dân tộc. Và
điều này cũng đúng như sự khẳng định ngay từ đầu thời dựng Đảng, khi
Đảng nêu mục đích sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng là vì quyền lợi
của Tổ quốc, của nhân dân, ngồi ra Đảng khơng có mục đích gì khác. Chính
vì vậy Đảng ta khơng những là Đảng của giai cấp cơng nhân mà đồng thời
cịn là Đảng nhân dân lao động và toàn dân tộc, đại diện cho lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Những đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng ta gần đây, trong đó có Đại hội XI, đã trở lại khẳng định
quan điểm này theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh nêu trong Đại hội II của
Đảng (2 -1951). Nguồn gốc ''cầm quyền” của Đảng ta là như vậy. Đây là
điểm đầu tiên, quan trọng nhất, trong cả lý luận và thực tiễn, về Đảng cầm
quyền. Do vậy, trong điều kiện mới, cần thực hiện tốt các nguyên tắc xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền như sau:
a) Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chi nam cho hành
động.
b) Đảng tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ.
c) Đảng thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
d) Đảng thực hiện thường xuyên tự phê bình và phê bình.
đ) Đảng tuân thủ kỷ luật tự giác.
e) Đảng luôn luôn chăm lo đến sự thống nhất, đồn kết trong Đảng.
f) Đảng ln ln kết nạp những người tích cực và thải loại những
người khơng cịn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
g) Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
h) Đảng phải luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân.
i) Đảng có mối liên hệ quốc tế trong sáng.
14
14
Các nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trên đây làm thành
một thể thống nhất và đã gọi là ngun tắc thì khơng thể có ngun tắc nào
kém quan trọng hơn nguyên tắc nào, nhưng trong thời kỳ đảng cầm quyền
nếu Đảng xa dân, dân xa Đảng thì Đảng sẽ bị mất hết sức sống nội tại. Chính
vì thế một vấn đề cơ bản nhất trở thành tâm điểm sống còn của Đảng ta là
Đảng phải gắn chặt với dân, quyền của Đảng được cầm luôn luôn phải dựa
trên sự ủy thác của chính nhân dân.
2.2. Đảng phải ln ln nâng cao tầm trí tuệ của mình; kiên
định, kiên định hơn nữa, sáng tạo, sáng tạo hơn nữa chủ nghiã Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khơng ở đâu như trong lĩnh vực xây dựng chủ nghĩa xã hội lại có sự
địi hỏi rất cấp thiết của cả hai yếu tố đó. Hồ Chí Minh, trong Di chúc đã gọi
đó là cuộc ''chiến đấu khổng lồ'' ''chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để
tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi''. Đảng cầm quyền không được phép chệch
hướng, nghĩa là không được phép sai lầm về đường lối chính trị. Mà muốn
thế, như Nghị quyết Đại hội XI đã chỉ rõ: phải ''kiên định chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với
thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của tồn Đảng và của mỗi cán
bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; khơng dao
động trong bất cứ tình huống nào''. Đảng ln ln phải có tư tuởng đổi
mới, kiên định đường lối đổi mới, ln ln tìm tịi, sáng tạo vì cuộc sống vơ
cùng phong phú, phát triển rất mau lẹ; điều đó khơng cho phép Đảng giáo
điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc. Thực
tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Đảng phải sống trong lòng thực tiễn, tổng kết
thực tiễn cả ở trong nước và ngoài nước, đảng trên tầm cao của nhận thức lý
luận-thực tiễn để tìm ra và vận dụng quy luật nhằm đưa dân tộc Việt Nam
chấn hưng trên con đường xã hội chủ nghĩa. Phải tránh bảo thủ, trì trệ, đồng
thời phải tránh hấp tấp, vội vàng trong xây dựng đường lối, chủ trương của
15
15
Đảng. Trong đổi mới, vừa phải chú ý đến những vấn đề mới nảy sinh, kịp
thời nghiên cứu, tổng kết để mạnh dạn bổ sung, phát triển kịp thời cương
lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng; vừa phải cẩn trọng. Bảo thủ, trì trệ,
khơng chịu bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối, chủ trương khi tình
hình trong nước và quốc tế có sự biến chuyển, thay đổi là khơng xứng đáng
với một đảng tiên phong, một đảng năng động, sáng tạo, một chủ thể khởi
xướng đổi mới toàn diện đất nước. Nhưng, hấp tấp, vội vàng, không chịu
nghiên cứu, tổng kết mà đã sửa đổi đường lối, chủ trương, chính sách thì
nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa sẽ trở thành hiện thực. Ở đây, việc
''thiết kế'' nội dung đường lối có tầm quan trọng đặc biệt, vì ''sai một ly đi
một dặm”. Phải tính tốn cẩn trọng trên cơ sở nghiên cứu khoa học lý luận
chính trị, quy tụ và phát huy được trí tuệ của tập thể, phải có bản lĩnh chính
trị vững vàng kết hợp tính khoa học với tình hình thực tế nhạy cảm của đất
nước và của thế giới để đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách đúng đắn,
phù hợp. Có thể có những vấn đề được coi là đúng, nhưng đối với giai đoạn
này, thời kỳ này, lúc này chưa thể hoặc khơng thể thực hiện, vì hồn cảnh
chưa cho phép; do vậy, đây thuộc về bản lĩnh chính trị, thuộc về nghệ thuật
cầm quyền, lãnh đạo.
2.3. Đảng cầm quyền phải trong sạch, vững mạnh để giữ vững và
phát huy vai trị của mình.
Vai trị cầm quyền của Đảng sẽ bị suy yếu và thậm chí bị mất đi nếu
Đảng bị thối hóa, biến chất. Hồ Chí Minh đã cảnh báo rằng: ''Một dân tộc,
một đảng và mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn
khơng nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người u mến và ca
ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân''. Do
đó Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Sự cầm
quyền của Đảng và việc Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để
bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh của bản thân mình đều là hai vế tất yếu
16
16
như nhau trong lơgíc phát triển nội tại của một đảng chính trị như Đảng
Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
82 năm đã qua, Đảng ta đã trưởng thành qua bao thử thách, đã đạt
được nhiều thành tựu rất quan trọng có ý nghĩa lịch sử, nhưng vẫn còn một
số hạn chế như Đại hội XI đã chỉ ra, đó là: ''Tình trạng suy thối về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã
hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng
với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của
nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và
Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước''.
Với những mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn và ngày càng có thêm
những biểu hiện tiêu cực mới trong một Đảng cầm quyền thì đó là sự báo
động lớn cho sự tồn vong của chính bản thân sự cầm quyền của Đảng ta. Mà
một khi Đảng Cộng sản Việt Nam mất vai trò cầm quyền thì điều gì sẽ xảy ra
thì chắc chắn ai cũng biết.
Để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ trong giai đoạn mới, có rất nhiều
giải pháp, biện pháp, nhưng cần tập trung thực hiện mấy điểm sau đây:
- Đề phòng và khắc phục những biểu hiện tiêu cực: đặc quyền, đặc lợi,
xa rời nhân dân, quan liêu, tham nhũng (ngay trong cả cơ chế, chính sách,
chế độ đãi ngộ về vật chất cho cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước); khắc
phục tình trạng một số cán bộ, đảng viên thối hóa, biến chất, suy thối tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống...không để đến Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ XII của Đảng lại có nhận định tiêu cực trên đây nghiêm trọng hơn.
Tiêu cực ở trong Đảng cầm quyền, mỗi khi cứ được nhắc đi nhắc lại ở những
giai đoạn sau, mà ở những giai đoạn sau lại trầm trọng hơn so với những giai
đoạn trước thì càng thể hiện Đảng đang lún sâu vào một qúa trình suy thối
và do vậy, sự cầm quyền đó của Đảng là không vững chắc; cái điều cầm
17
17
quyền của Đảng dù có được ghi trong Hiến pháp đi chăng nữa cũng chỉ là
hình thức mà thơi.
- Bảo đảm và phát huy dân chủ trong điều kiện một Đảng. Dân chủ
trong Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm dân chủ ngoài xã hội. Vấn đề dân
chủ của một xã hội không phụ thuộc vào số lượng của các chính đảng, mà
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chủ yếu là phụ thuộc vào bản thân chất lượng
của đảng cầm quyền. Phải thực hiện tốt nguyên tắc cơ bản là tập trung dân
chủ. Dân chủ một mặt được bảo đảm bằng thể chế đồng thời rất quan trọng
là phải được bảo đảm và phát huy trong thực tế. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh việc thực hành dân chủ một cách thực sự ở trong Đảng chứ
không phải nói sng. Muốn thực hiện tốt điều này, trên thực tế Đảng cầm
quyền cần nghiêm khắc kiểm điểm và thực hiện thật tốt nguyên tắc ''Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật'' điều mà trong bản Hiến
pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã ghi. Đảng cầm quyền, Đảng
lãnh đạo nhưng trong điều kiện xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng phải tự khép mình
vào khn khổ Hiến pháp và pháp luật, khơng đưa ra bất kỳ quyết định nào
trái luật, đứng trên luật.
- Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh
đạo các cơ quan quản lý nhà nước. Trong điều kiện mới, sự lãnh đạo của
Đảng quan trọng nhất là thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân. Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan
lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế
độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm cá nhân nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân,
tơn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
mặt trận. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp
ủy viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
18
18
thể nhân dân. Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà,
bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực tế cơ sở; nói đi
đơi vời làm.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần dựa trên nguyên tắc:
Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, bằng thể chế hóa; bằng hệ thống
tổ chức; bằng sự hoạt động tích cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các
cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đồn thể chính trị-xã hội; bằng quản lý
công tác cán bộ; bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, bằng sự kiểm tra
thường xuyên trong các tổ chức đó…
- Quy định thật cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu
trong cơ quan, bộ máy Đảng, khơng để tình trạng vừa khơng thể hiện rõ vai
trị của mình, vừa thể hiện độc đốn, chun quyền. Có nhiều nơi, nhiều tình
huống cần có sự quyết đốn của người đứng đầu thì lại bị ''trói'' bởi cơ chế
người đứng đầu cũng chỉ một phiếu biểu quyết như những người khác.
Ngược lại bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, có nơi người đứng đầu tìm cách áp
đặt ý kiến của mình trong sinh hoạt đảng, điều này chỉ lộ rõ sự nguy hiểm
khi ý kiến đó là sai lầm gây tác hại lớn cho tổ chức Đảng, làm mất thanh
danh của Đảng, làm giảm lòng tin của dân đối với Đảng.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có
tính chất ''động'', rất linh hoạt, ngay cả ở mỗi cấp đều có sự linh hoạt khác
nhau. Ở cấp cơ sở mà cực đoan, máy móc khi có tình huống xảy ra mà cứ
ngồi bàn với nhau việc đó thuộc về ''sân'' của Đảng, việc kia thuộc về ''sân''
của chính quyền thì có khi công việc không được giải quyết đúng đắn, kịp
thời. Nhiều khi, một việc nào đó, vẫn thường có tâm lý cần ''đóng dấu'' của
bên Đảng thì mới ''oai'', do đó mới dẫn đến tình trạng có khơng ít việc chỉ
cần chính quyền ký ban hành để thực thi mới đúng thì người ta lại đưa sang
cho bên Đảng, thành thử cơng việc của Đảng có nhiều khi rất vụn vặt, vừa
19
19
không đúng tầm của một đảng cầm quyền vừa không đúng nguyên tắc vận
hành của một nhà nước pháp quyền. Về điểm này, cần có sự nghiên cứu,
khảo sát thực tế, tổng kết thực tiễn nhiều hơn.
20
20
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là một nguồn tài sản vô
giá của Đảng ta và của cả dân tộc ta, đã soi sáng và chỉ đạo Đảng ta vượt qua
muôn vàn thử thách hơn 82 năm qua, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành
được nhiều thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Tư tưởng của Người về
Đảng tiếp tục là bó đuốc soi đường cho Đảng ta trưởng thành, phát huy được
thời cơ, khắc phục được nguy cơ trong thời kỳ mới, để đưa nước ta phát triển
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong thời đại hội nhập hóa việc nghiên cứu lai tư tưởng của Hồ Chí
Minh về đảng cộng sản cầm quyền càng có ý nghĩ quan trọng cả về mặt lý
luận và thực tiễn. Việc đánh giá đúng năgn lục và vai trò của đảng cầm
quyền là hết sức quan trọng, việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng cầm
quyền càng quan trọng hơn nữa. Bởi lẽ, đảng cầm quyền có vững mạnh mới
đưa ra được đương lối đúng đắn mọi mục tiêu mới đưuojc hoàn thành, sựu
nghiệp cách mạng mới vững chắc.
21
21
22
22