Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tiểu luận cao học_môn an ninh truyền thông tội phạm công nghệ cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.59 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT...............................................................4
1. Khái niệm “tội phạm công nghệ cao”...........................................................4
1.1 Khái niệm “tội phạm”.................................................................................4
1.2 Khái niệm “công nghệ cao”.......................................................................4
2. Đặc điểm của tội phạm công nghệ cao..........................................................5
2.1. Phân biệt tội phạm sử dụng công nghệ cao và tội phạm truyền thống.............5
2.2. Phân nhóm tội phạm sử dụng công nghệ cao............................................5
2.3. Phương thức, thủ đoạn của Tội phạm công nghệ cao................................6
3. Nguyên nhân, điều kiện khách quan chủ quan của tội phạm công nghệ cao
11
3.1. Nhóm nguyên nhân và điều kiện khách quan..........................................11
3.2. Nhóm nguyên nhân và điều kiện chủ quan.............................................12
CHƯƠNG II: DIỄN BIẾN TÌNH HÌNH VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ
TỘI PHẠM SỬ DỤNG CƠNG NGHỆ CAO..............................................14
1. Trên thế giới................................................................................................14
2. Tại Việt Nam...............................................................................................14
3. Các vụ việc điển hình tại Việt Nam.............................................................16
CHƯƠNG III: NHỮNG KHĨ KHĂN VƯỚNG MẮC VÀ CÁC GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH VỚI TỘI
PHẠM SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ CAO......................................................20
1. Những khó khăn, vướng mắc trong đấu tranh phịng, chống tội phạm sử
dụng cơng nghệ cao.........................................................................................20
2. Cục Cảnh sát phịng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (C50) và các
chiến công đã lập được....................................................................................22
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh với tội phạm sử
dụng công nghệ cao.........................................................................................23
PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................27



TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................28


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong vài thập kỷ qua, mạng Internet không có bất cứ thời điểm nào
ngừng vận động và tiến hóa. Bên cạnh những mặt tiến bộ, những lợi ích to lớn
khơng thể phủ nhận thì sự phát triển nhanh chóng của khoa học, cơng nghệ
nhất là của cơng nghệ thông tin - truyền thông, mạng internet cũng đã làm
xuất hiện những mối đe dọa mới từ không gian mạng. Khi công nghệ thông
tin đi vào đời sống xã hội thì giống như một quy luật tất yếu, sẽ lập tức xuất
hiện loại tội phạm sử dụng công nghệ thông tin để phạm tội. Thông tin về các
vụ gián điệp mạng, tấn cơng mạng máy tính của các quốc gia, tổ chức 23 ở
nhiều nước bị tiết lộ thời gian qua cho thấy, rất nhiều mối hiểm họa lớn, có tác
động lan truyền trên phạm vi toàn cầu là do hiệu ứng của công nghệ thông tin,
mạng internet mang lại.
Việc kết nối các mạng máy tính trên tồn cầu đã tạo điều kiện cho
hacker có thể tấn cơng từ bất cứ nơi nào trên thế giới. Số lượng hacker cả
trong nước và ngồi nước gia tăng nhanh chóng và số lượng các vụ tấn công
cũng như giá trị thiệt hại ngày càng tăng nhanh. Trên thế giới, tin tức về các
vụ rò rỉ dữ liệu cá nhân ngày một nhiều. Ví dụ: ngân hàng HSBC đã mất dữ
liệu cá nhân của 370.000 khách hàng; Trung tâm quản lý dân cư của Anh đã
mất dữ liệu cá nhân của 25 triệu dân; Trung tâm quản lý thẻ (Gc Monney Mỹ) làm mất thông tin cá nhân của 650. 000 khách hàng của công ty bán hàng
trực tuyến J.C. Penney và hơn 100 hãng bán lẻ. Việc mất thông tin cá nhân
khiến những thơng tin này có thể bị lộ bất cứ lúc nào và hồn tồn có thể bị
lợi dụng vào mục đích xấu. Các con số trên cảnh báo các cơ quan chức năng
và các cá nhân, tổ chức phải bảo mật dữ liệu cá nhân và An ninh thông tin trên
mạng Internet. Thời gian gần đây các loại tội phạm công nghệ cao tại Việt
Nam đã tăng nhanh về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Tội phạm này
không chỉ nhắm tới cơ sở dữ liệu của các công ty tài chính, ngân hàng, thương
mại điện tử mà các hacker cịn tấn cơng hệ thống thơng tin của các cơ quan

1


nhà nước, kể cả các cơ quan an ninh, quốc phịng, các cơ sở dữ liệu về tài
chính, ngân hàng, giao thông, năng lượng, thông tin liên lạc, các công ty
thương mại điện tử (E- Commercial, E- Business), các ngân hàng cung cấp
dịch vụ thanh toán qua mạng, các ATM, bán hàng tự động. Ngày càng hình
thành rõ nét hơn sự phối hợp của bọn tội phạm trong nước và quốc tế tấn cơng
vào mạng máy tính, trộm cắp thơng tin thẻ tín dụng, sử dụng thơng tin thẻ tín
dụng làm thẻ "trắng giả" để rút tiền ở máy ATM, thẻ "màu giả" để mua hàng,
mua vé máy bay, thanh tốn tiền khách sạn... Tại Việt Nam, tuy chưa có tổ
chức nào công bố công khai việc mất dữ liệu về thông tin khách hàng, đối tác
nhưng năm 2008 đã có ngân hàng bị tin tặc tống tiền bằng thư điện tử, yêu
cầu ngân hàng phải trả tiền để chuộc lại các thông tin cá nhân của khách hàng
(tài khoản, mật khẩu của thẻ ATM). Có rất nhiều các diễn đàn rao bán các
thơng tin về các thẻ thanh tốn ATM đã được bẻ khóa. Do mục đích của tội
phạm công nghệ cao là tiền nên số lượng các vụ hacker "nội địa" bẻ khóa, đột
nhập vào các website, máy chủ lấy cắp thông tin cá nhân, thông tin thẻ tín
dụng để mua bán xuyên quốc gia trên mạng ngày càng trở nên phổ biến. Đáng
chú ý, đối tượng tấn công của các loại tội phạm này là cơ sở dữ liệu hạ tầng
thông tin quốc gia, ngân hàng và các doanh nghiệp lớn.
Có lẽ chưa khi nào tội phạm sử dụng mạng Internet để thực hiện hành vi
phạm tội lại nhiều như hiện nay. Cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học
- cơng nghệ, thì các thủ đoạn của tội phạm lại càng đa dạng và tinh vi hơn;
thâm nhập vào đời sống dân sinh để lừa đảo dưới mọi hình thức - chiêu trị mánh khóe trên tất cả bình diện. Từ “ơng chú Viettel”; giả danh lực lượng
chức năng gọi điện thoại kiểm tra tài khoản ngân hàng để chiếm đoạt tiền;
hack facebook để nhờ mua thẻ cào; lừa tin nhắn trúng thưởng, nợ cước điện
thoại… Chưa hết, thơng qua mạng Internet, tội phạm cịn quảng cáo, mua bán
hàng cấm; nhận làm giả các loại giấy tờ miễn sao thu được lợi nhuận bất
chính.


2


Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, trong khn khổ tiểu luận,
học viên sẽ tìm hiểu các khái niệm liên quan, đặc điểm, phương thức thủ đoạn
của nhóm tội phạm cơng nghệ cao; thực trạng tình hình tội phạm công nghệ
cao và các biện pháp đấu tranh phịng chống, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm
cho người làm truyền thông.

3


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Khái niệm “tội phạm cơng nghệ cao”
1.1 Khái niệm “tội phạm”
Hiện nay có rất nhiều cách định nghĩa về tội phạm. Khoản 1 Điều 8 Bộ
luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 định nghĩa về tội phạm
như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an
ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa”
Từ quy định trên, có thể rút ra một định nghĩa ngắn gọn, khái quát thể
hiện đầy đủ đặc điểm của tội phạm mà khoa học pháp lý Hình sự thường sử
dụng: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật Hình
sự và phải chịu hình phạt.

I.2 Khái niệm “cơng nghệ cao”
Theo Luật Cơng nghệ cao - Luật số 21/2008/QH12 của Quốc hội,
“Công nghệ cao” được định nghĩa là cơng nghệ có hàm lượng cao về nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu khoa học và
cơng nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị
gia tăng cao, thân thiện với mơi trường; có vai trị quan trọng đối với việc
hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất,
dịch vụ hiện có.
Theo Tổ chức Cảnh sát hình sự Quốc tế (Interpol): Tội phạm cơng nghệ
cao là loại tội phạm sử dụng, lạm dụng những thiết bị kỹ thuật, dây chuyền
cơng nghệ có trình độ cơng nghệ cao như một công cụ để thực hiện hành vi
phạm tội.
4


Trong các dạng của tội phạm công nghệ cao, nổi lên hai dạng chính, đó
là tội phạm máy tính (computer crime) và tội phạm công nghệ thông tin - điều
khiển học (cyber crime)
Theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, có 3 điều luật điều chỉnh
những hành vi vi phạm trong lĩnh vực tội phạm công nghệ cao:
Điều 224: Tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình virus tin học.
Điều 225: Tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng
mạng máy tính điện tử.
Điều 226: Tội sử dụng trái phép thơng tin trên mạng và trong máy vi tính.
Như vậy có thể hiểu rằng: Tội phạm sử dụng cơng nghệ cao là tội phạm
sử dụng những thành tựu công nghệ cao làm công cụ, phương tiện để thực
hiện hành vi phạm tội
2. Đặc điểm của tội phạm công nghệ cao
2.1. Phân biệt tội phạm sử dụng công nghệ cao và tội phạm truyền thống
Điểm giống nhau:

+ Nhằm mục đích tư lợi
+ Chiếm hưởng trái phép tài sản của người khác.
+ Thủ đoạn gian dối
Điểm khác biệt:
+ Phương tiện phạm tội: Tội phạm thường sử dụng sự tiến bộ của
CNTT để thực hiện hành vi phạm tội.
+ Hành vi, cách thức phạm tội: tấn công trái phép vào Website để lấy đi
những thơng tin bí mật, lấy cắp thơng tin tài khoản cá nhân, tổ chức, làm thẻ
ATM giả…
+ Đối tượng phạm tội: nhất thiết phải có hiểu biết về cơng nghệ thơng tin
2.2. Phân nhóm tội phạm sử dụng cơng nghệ cao
Nhóm thứ nhất: Tội phạm tấn cơng vào mạng máy tính, cở sở dữ liệu.
Khách thể của tội phạm là sự toàn vẹn dữ liệu, là sự hoạt động ổn định của

5


mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng Internet, các thiết bị kỹ thuật số của
cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Tội phạm sử dụng kiến thức tin học để thực hiện các hành vi phạm tội,
như: tạo ra, lan truyền, phát tán các chương trình virus vào mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng Internet gây rối loạn hoạt động của các mạng này; sử
dụng mạng máy tính, mạng Internet để gây rối loạn hoạt động của các mạng
này, phong toả hoặc làm biến dạng, làm huỷ hoại các dữ liệu của máy tính;
truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet
nhằm khai thác, sử dụng thông tin trái phép trên máy tính...
Nhóm thứ hai: Tội phạm sử dụng máy tính làm cơng cụ phạm tội.
Khách thể của tội phạm là hầu hết những khách thể mà Bộ Luật Hình sự bảo
vệ, đó là khách thể trong các nhóm sau: độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc; chế độ chính trị; chế độ kinh tế; nền văn hố, quốc

phịng, an ninh; trật tự, an tồn xã hội; quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức;
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân…
2.3. Phương thức, thủ đoạn của Tội phạm công nghệ cao
- Phát triển mạng Botnet để lấy cắp thông tin, tấn cơng các website của
Chính phủ, ngân hàng, hàng không, lưới điện quốc gia; phát tán tin nhắn rác,
quảng cáo.
- Phát tán các loại vi rút, phần mềm gián điệp, mã độc ngày một phức tạp
và tinh vi. Đã xuất hiện nhiều biến thể các loại vi rút nhằm quét, tìm và khai
thác lỗ hổng bảo mật, điều khiển từ xa, phá hủy dữ liệu, thu thập, trộm cắp các
thông tin quan trọng như tài khoản ngân hàng, dữ liệu khách hàng, dữ liệu về
các giao dịch, hoạt động kinh doanh, sản xuất thuộc bí mật kinh doanh của các
doanh nghiệp. Các đối tượng cũng mở rộng các hình thức phát tán các loại phần
mềm độc hại qua thư điện tử, website khiêu dâm, diễn đàn trên mạng,… Đặc
biệt, với sự phổ biến rộng rãi của mạng xã hội, blog cá nhân và các loại điện
thoại thông minh, ngày càng xuất hiện nhiều loại vi rút, phần mềm độc hại ẩn
6


trong các ứng dụng thông dụng, phổ biến. Trong thời gian tới, đây sẽ là một
trong những mục tiêu chủ yếu của tin tặc. Một số vụ các đối tượng mua bán các
thiết bị, phần mềm gián điệp để cài đặt trên điện thoại thơng minh, máy tính
với quy mơ, phạm vi rộng lớn, xâm phạm nghiêm trọng quyền riêng tư của
công dân, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với ANQG, TTATXH.
- Hiện đang tồn tại nhiều diễn đàn trên mạng Internet với hàng trăm
nghìn thành viên là người Việt Nam, nếu buông lỏng quản lý sẽ tiềm ẩn nguy
cơ to lớn đối với ANQG, TTATXH. Đặc biệt, xuất hiện nhiều diễn đàn tin tặc
được xây dựng để các đối tượng xấu tiến hành các giao dịch bất hợp pháp,
trao đổi kinh nghiệm, cách thức, công cụ, thủ đoạn phạm tội và che giấu tội
phạm (Vụ diễn đàn HkvFamily.info, diễn đàn VietExpert.info với hàng nghìn

thành viên tham gia mua bán, trao đổi thơng tin thẻ tín dụng bị trộm cắp).
- Tình trạng trộm cắp, trao đổi, mua bán, sử dụng trái phép làm giả thẻ
tín dụng để mua hàng ở nước ngoài chuyển về Việt Nam tiêu thụ diễn ra phức
tạp. Đã hình thành những đường dây gồm nhiều đối tượng cả trong lẫn ngồi
nước và có sự phân cơng thực hiện từng giai đoạn trong quá trình phạm tội.
Tội phạm thường xâm nhập bất họp pháp vào các website bán hàng, thanh
tốn trực tuyến để trộm cắp thơng tin thẻ tín dụng của người nước ngồi, sau
đó sử dụng trái phép thơng tin thẻ tín dụng đó để đặt mua hàng hóa trực tuyến
có giá trị cao (Iphone, Ipad, laptop, máy ảnh...) chuyển về Việt Nam tiêu thụ,
gây thiệt hại nghiêm trọng cho các chủ thẻ.
- Tội phạm lừa đảo trong thương mại điện tử dưới hình thức huy động
tài chính, kinh doanh đa cấp. Lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của thương mại
điện tử tại Việt Nam và tâm lý hám tiền, tham lợi, tham giàu nhanh mà không
muốn bỏ công sức lao động của nhiều người dân, các đối tượng đã lập lên
những trang web với vỏ bọc là các trang thương mại điện tử, nhưng thực chất
là một tổ chức lừa đảo, huy động vốn theo kiểu kinh doanh đa cấp.
- Lừa đảo lấy cắp thông tin cá nhân bằng phần mềm gián điệp để chiếm
đoạt tài sản. Với thủ đoạn sử dụng phần mềm gửi thư rác (spam) có nội dung
7


khuyến mại, trúng thưởng… gửi đến các các địa chỉ thư điện tử của nhiều
người. Khi người sử dụng nhận được thơng báo chúc mừng đã trúng thưởng
một chương trình khuyến mãi chăm sóc khách hàng của một ngân hàng, cùng
với nhiều phần tiền thưởng hấp dẫn, kèm theo đó người dùng phải đăng nhập
tài khoản ngân hàng của mình và cung cấp mã xác thực OTP (One Time
Password - loại mật khẩu dùng một lần được ngân hàng cung cấp cho chủ tài
khoản trước mỗi lần thực hiện giao dịch) để nhận được phần thưởng. Vì chủ
quan, người dùng đã làm theo hướng dẫn. Từ đây, đối tượng sẽ chiếm tồn
quyền quản trị, kiểm sốt mọi hoạt động của người sử dụng máy tính. Loại

virus được cài vào máy sẽ tự động theo dõi người sử dụng qua webcam, xem
tồn bộ giao diện màn hình máy tính, thu tồn bộ thao tác trên bàn phím rồi
gửi lại cho đối tượng. Khi phát hiện người sử dụng máy tính thực hiện giao
dịch liên quan đến tài khoản ngân hàng, đối tượng dùng phương thức này để
trộm cắp tài khoản, mật khẩu ngân hàng và mã xác thực OTP, sau đó thực
hiện việc chuyển tiền từ tài khoản người sử dụng sang các tài khoản khác.
- Tình trạng lừa đảo trên đầu số dịch vụ giá trị gia tăng (GTGT) trên
Internet, viễn thơng: Một số hình thức lừa đảo trên đầu số GTGT đang khá
phổ biến là: Tin nhắn gài bẫy: Gửi tin nhắn “rác” để lừa đảo người dùng nhắn
tin, gọi điện đến đầu số GTGT. Nếu như một tin nhắn bình thường chỉ có giá
cước khoảng 300 đồng thì tin nhắn cho các đầu số này thường từ 3.000 15.000 đồng /tin. Theo tính tốn, chỉ cần một ngày nhận được khoảng 100 tin
nhắn có giá 15.000 đồng thì chủ nhân sở hữu dịch vụ giá trị nội dung kia sẽ
thu được khoản lợi nhuận lên tới 1.500.000 đồng (trong đó 50% chia cho nhà
mạng, 50% cịn lại của kẻ lừa đảo).
+ Phần mềm lừa đảo: Sử dụng phần mềm gián điệp cài trên điện thoại
smat phone tự động gửi tin nhắn đến đầu số GTGT (wap charging). Nếu như
với tin nhắn gài bẫy, kẻ gian phải tốn công gửi tin đi để dụ người khác nhắn
tin lại thì các phần mềm lừa đảo sẽ tự động thực hiện việc đó. Vì thế, sự nguy
hiểm cũng như tác hại còn lớn hơn rất nhiều lần.
8


+ Hack SIM: Nếu như tin nhắn gài bẫy mang lại số tiền tối đa là 15.000
đồng /tin và có thể bị phát hiện tức thời thì phần mềm lừa đảo có thể lấy được
hết tiền trong tài khoản mà nạn nhân khơng hề hay biết. Tuy thế, “trị” phần
mềm lừa đảo thì là “cỏn con” so với “chiêu” hack SIM bởi hack SIM có thể
giúp kẻ gian trộm được khơng chỉ tiền trong tài khoản mà cịn có thể bán lại
tài khoản ấy cho người khác hoặc lấy hết tiền trong ngân hàng khi SIM đó
được liên kết với tài khoản ngân hàng của khổ chủ.
- Tội phạm lừa đảo tài sản bằng hình thức làm quen, giả yêu đương trên

mạng. Với thủ đoạn làm quen, trò chuyện, kết bạn qua mạng internet. Các đối
tượng, chủ yếu là người nước ngoài cấu kết với một số đối tượng trong nước
(thường xảy ra ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và cá tỉnh phía Nam) giả
làm người của những nước như Mỹ, Đức, Úc… sử dụng tiếng Anh làm quen,
đặt vấn đề yêu đương với bị hại. Đối tượng sử dụng ảnh giả, video giả để tạo
lòng tin cho bị hại, chúng thường có kịch bản là đã ly dị và có một khối tài
sản lớn muốn tặng cho người yêu mình và sẽ tổ chức lễ cưới tại Việt Nam.
Sau khi “con mồi” bị khối tài sản hàng triệu đơ la làm hoa mắt và phát sinh
lịng tham, đối tượng yêu cầu bị hại chuyển một số tiền đến tài khoản (tại
ngân hàng Việt Nam) mà chúng cho trước để làm thủ tục hải quan, phí vận
chuyển… Chúng bày ra rất nhiều chiêu trò để người bị hại phải chuyển tiền
nhiều lần cho chúng như phí chuyển tiền tăng, tiền đang bị Cảnh sát nước
ngoài tạm giữ, tiền đã về đến Việt Nam nhưng bị Hải quan giữ nên phải đưa
tiền để hối lộ… Bởi vậy, mỗi bị hại thường đã phải chuyển cho đối tượng lừa
đảo 2-3 lần, mỗi lần trung bình hàng trăm triệu đồng. Khi nhận được tiền của
“con mồi” chuyển đến tài khoản, ngay lập tức bọn chúng đưa thẻ tín dụng cho
những đối tượng người Việt Nam đi rút tiền tại các cây ATM và chuyển lại
cho chúng.
- Tội phạm tấn công hộp thư điện tử, chiếm quyền điều khiển, lừa đảo
chuyển tiền đến tài khoản của tội phạm. Các băng nhóm hacker là người nước
ngoài (chủ yếu là người Nigeria) sinh sống tại nước ngoài và Việt Nam, với thủ
9


đoạn tấn cơng vào các hịm thư điện tử của các doanh nghiệp, cá nhân có quan
hệ kinh doanh, thanh tốn tiền với nước ngồi. Chúng chiếm quyền điều khiển
hộp thư, giả danh doanh nghiệp, cá nhân viết thư cho đối tác, thay đổi các nội
dung của hợp đồng mua bán hàng hóa xuất nhập khẩu. Đối tượng thay đổi tài
khoản thanh toán tiền trong hợp đồng bằng tài khoản do chúng lập lên để khách
hành chuyển tiền vào. Đối tượng cấu kết với các đối tượng trong nước, tìm thuê

những người Việt Nam lập tài khoản ngân hàng, chuyển cho chúng để thực
hiện hành vi lừa đảo. Sau khi nhận được tiền lừa đảo, chúng chỉ đạo người
được thuê rút tiền tại ngân hàng và chia nhau theo tỷ lệ đã thỏa thuận (thường
người được thuê hưởng 10 - 20%). Với hình thức này, thời gian qua rất nhiều
các doanh nghiệp cá nhân Việt Nam có hợp đồng kinh tế với nước ngoài và
ngược lại bị các đối tượng lừa đảo chiếm đoạt số lượng tiền rất lớn, vụ ít nhất
là 2 - 3 nghìn USD, vụ nhiều có thể lên đến hàng trăm nghìn USD.
- Đánh bạc trực tuyến và cá độ bóng đá qua mạng Internet trở nên phổ
biến, lan rộng trên cả nước với nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Các
website chuyên tổ chức đánh bạc, cá độ trong và ngoài nước thường đặt máy
chủ tại nước ngoài và cấu kết với người Việt Nam hình thành các đường dây
đánh bạc, cá độ có quy mô lớn, được tổ chức thành mạng lưới nhiều tầng. Số
lượng người chơi lên đến hàng trăm nghìn người, lượng tiền đánh bạc lên đến
hàng chục ngàn tỷ đồng. Bằng những thủ đoạn tinh vi, các đối tượng trong
nước câu kết với các chủ cờ bạc lớn ở nước ngoài xây dựng mạng lưới hoạt
động đánh bạc rộng khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước. Với mạng
Internet, chưa bao giờ việc đánh bạc, cá độ bóng đá lại dễ dàng, thuận lợi như
hiện nay. Các con bạc có thể đánh bạc, cá độ vào mọi thời điểm, nhiều lần
trong ngày và số tiền đánh bạc không giới hạn. Do đó, với số lượng con bạc
hàng ngày đơng đảo, qua các giao dịch đánh bạc, hàng nghìn tỉ đồng đã bị
chuyển ra nước ngoài, hậu quả đối với đời sống kinh tế - xã hội của đất nước
là vô cùng nặng nề.

10


3. Nguyên nhân, điều kiện khách quan chủ quan của tội phạm cơng
nghệ cao
3.1. Nhóm ngun nhân và điều kiện khách quan
- Tính “ẩn danh” và phương thức hoạt động “phi truyền thống” của tội

phạm mạng máy tính làm cho các đối tượng phạm tội khó bị phát hiện là một
trong những yếu tố kích thích đối tượng hoạt động phạm tội với niềm tin
khơng thể hoặc rất khó bị phát hiện. Thực tế cho thấy, trong quá trình thực
hiện hành vi phạm tội, đối tượng phạm tội không cần có một giao tiếp trực
tiếp nào với người hoặc cơ quan tổ chức bị hại, nhiều trường hợp, người bị
hại khơng xác định được máy tính, hệ thống thơng tin của mình đã bị tấn
cơng, thâm nhập, sao chép dữ liệu... do đó, đối tượng phạm tội thường che
dấu được tung tích với người bị hại.
- Khác với các dấu vết truyền thống của các vụ án hình sự, các dấu vết
quan trọng phản ánh về hoạt động phạm tội về mạng máy tính thường tồn tại
dưới dạng dữ liệu điện tử, ẩn trong các thiết bị lưu trữ và rất dễ bị xóa bỏ, thay
đổi, làm ẩn, mã hóa. Với chủ ý phạm tội, bằng kiến thức chuyên ngành và sự
hỗ trợ của các phần mềm được cung cấp rất phổ biến trên các trang mạng, các
thiết bị phần cứng sẵn có trên thị trường, các đối tượng khơng khó khăn để thay
đổi, xóa bỏ ngay từ đầu các dữ liệu điện tử liên quan đến quá trình phạm tội
như thay đổi địa chỉ IP (fake IP), giả địa chỉ thư điện tử (fake email)... Đối
tượng, cũng có thể dễ dàng tiêu hủy các thiết bị lưu trữ, đặc biệt gây ra những
hỏng hóc về mặt vật lý làm cho việc phục hồi dữ liệu trở lên vô cùng khó khăn
và hoặc nếu có phục hồi thì cũng cần có những phương tiện chuyên dụng kỹ
thuật cao và tốn nhiều thời gian với những kỹ sư, chuyên gia giỏi.
- Các chương trình phần mềm thường có những lỗ hổng bảo mật
nghiêm trọng và các đối tượng phạm các tội về mạng máy tính thường tập
trung khai thác các lỗ hổng bảo mật này để thực hiện các hoạt động phạm tội.
Phạm vi ảnh hưởng rộng, tính chất quốc tế của tội phạm sử mạng máy tính
cũng gây ra khó khăn cho các hoạt động phát hiện, điều tra, xử lý, tạo thêm cơ

11


hội cho các đối tượng phạm tội. Sự khác biệt trong hệ thống luật pháp và sự

hợp tác quốc tế hạn chế là rào cản làm cho hoạt động đấu tranh phịng, chống
tội phạm sử dụng cơng nghệ cao nói chung và tội phạm mạng máy tính nói
riêng cịn hạn chế, là điều kiện để tội phạm mạng máy tính trên phạm vi toàn
thế giới tiếp tục tồn tại, hoạt động.
3.2. Nhóm nguyên nhân và điều kiện chủ quan
- Ý thức của người sử dụng máy tính, thiết bị số, mạng thông tin ở Việt
Nam đối với việc đảm bảo an tồn cho thiết bị và hệ thống thơng tin cịn
thấp,biểu hiện cụ thể: Tình trạng sử dụng các phần mềm khơng có bản quyền,
phần mềm đã được “bẻ khóa” (crack) rất phổ biến ở Việt Nam, dẫn đến làm
tăng nguy cơ mất an toàn đối với các thiết bị và hệ thống thơng tin của chính
người sử dụng.
- Phần lớn các máy tính, thiết bị số khơng cài đặt, sử dụng các phần mềm
bảo vệ (phần mềm diệt vi rút) hoặc thiết lập tường lửa (firewall) để bảo vệ. Chi
phí cho việc mua và sử dụng các phần mềm bảo vệ thường không lớn nhưng do
ý thức bảo mật kém nên số lượng người sử dụng vẫn thấp. Đây là nguyên nhân
dẫn đến việc lây lan các phần mềm độc hại trở lên nhanh chóng, là tiền đề để
đối tượng phạm tội thực hiện các hành vi phạm tội về mạng máy tính.
- Các tổ chức, doanh nghiệp có các trang mạng hoặc các hoạt động kinh
doanh trên mạng chưa quan tâm đúng mức đến giải pháp bảo mật một cách
tổng thể. Công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực về cơng nghệ thơng tin
và truyền thơng cịn có những bất cập.
- Cơng tác quản lý nhà nước về cơng nghệ thơng tin, viễn thơng ở nước
ta cịn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót nhất là trong một số lĩnh vực như: kinh
doanh như game online, kinh doanh dịch vụ giá trị gia tăng, thương mại điện
tử quản lý còn lỏng lẻo, phát triển tự phát tiềm ẩn nhiều rủi ro.
- Lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm sử dụng cơng nghệ
cao cịn mỏng, hiện mới chỉ được thành lập ở cấp Bộ (Cục Cảnh sát PCTPSD
cơng nghệ cao và 01 Phịng PC50 Hà Nội, cùng với 08 Đội Cảnh sát PCTP sử
12



dụng CNC thuộc PC45 và PC46 tại Công an Hải Phịng, Quảng Ninh, Thanh
Hóa, Thừa Thiên Huế, Khánh Hịa, Đồng Nai, Cần Thơ, Tây Ninh). Mặt khác,
do chưa có chế độ chính sách đãi ngộ nên thiếu chuyên gia giỏi về cơng nghệ
thơng tin, viễn thơng. Phương tiện, máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động
điều tra, khám phá tội phạm còn hạn chế. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức
năng và giữa các cơ quan chức năng với các tổ chức, cá nhân liên quan chưa
tốt.

13


CHƯƠNG II: DIỄN BIẾN TÌNH HÌNH VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ
TỘI PHẠM SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ CAO
1. Trên thế giới
Theo thống kê của Interpol, số lượng vụ việc liên quan đến tội phạm
cơngnghệ cao ngày càng tăng một cách chóng mặt. Trong những năm đầu
thập niên 90 của thế kỷ XX, số lượng vụ việc xảy ra trên thế giới liên quan
đến tội phạm công nghệ cao là khoảng 250 - 300 vụ mỗi năm. Những năm
2000 và 2001, con số này là gần 22.000 vụ. Từ năm 2002 đến nay, con số này
là từ 75.000 đến 100.000 vụ một năm.
Như Singapore, mỗi năm có tới hàng chục vụ tấn cơng, đột nhập vào
các mạng máy tính của chính phủ cũng như của các tổ chức thương mại, gây
thiệt hại đáng kể. Theo thơng báo của cảnh sát, rất ít trong số các vụ
tấn công bị phát hiện kịp thời, và mỗi năm chỉ có khoảng 7 - 10 đối tượng bị
phát hiện, bắt giữ.
Còn ở Mỹ, hầu như ngày nào cũng có hàng trăm vụ tấn cơng với những
quy mơ khác nhau vào các mạng máy tính của chính phủ và chính quyền các
bang. Các q trình tự động hóa như máy rút tiền, máy bán hàng tự động,
cũng trở thành mục tiêu tấn công của loại tội phạm này ở rất nhiều nước trên

thế giới, đặc biệt là Mỹ, Nhật Bản. Bên cạnh đó, máy tính đã trở thành công
cụ cho các hoạt động làm giả (tiền giả, giấy tờ giả...) với những thủ đoạn ngày
càng tinh vi.
2. Tại Việt Nam
Năm 2010: Đã phát hiện và xác minh 121 đầu mối vụ việc có dấu hiệu
vi phạm pháp luật (bao gồm 7 chuyên án), gây thiệt hại ước tính gần 20 tỷ
đồng, 2.000.000 đơ la Úc, 130.242 đơ la Mỹ, 820 máy tính xách tay và nhiều
linh kiện điện tử các loại. Kết quả: Đã chuyển Cơ quan điều tra các cấp khởi
tố 08 vụ, 14 bị can; chuyển Thanh tra chuyên ngành các cấp xử phạt hành
chính 36 vụ; thu hồi 10 tỷ 238 triệu đồng và 112.842 đô la Mỹ.
14


Năm 2011: Đã tiến hành phát hiện, xác minh, điều tra 165 đầu mối vụ
việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật (bao gồm 14 chuyên án). Thu giữ tiền và
nhiều tài sản khoảng 12 tỷ đồng và 235.000 USD. Kết quả: Đã chuyển Cơ
quan điều tra các cấp khởi tố 32 vụ, 81 bị can; chuyển Thanh tra các cấp xử
phạt hành chính 09 vụ.
Năm 2012: Đã phát hiện, xác minh 192 đầu mối vụ việc có dấu hiệu vi
phạm pháp luật (bao gồm 17 chuyên án); gây thiệt hại ước tính hơn 1300 tỷ
đồng; đã thu hồi tiền và tài sản trị giá hơn 10 tỷ đồng. Kết quả: Đã chuyển Cơ
quan điều tra các cấp khởi tố 34 vụ, 90 bị can.
Năm 2013: Đã phát hiện, xác minh 210 đầu mối vụ việc có dấu hiệu vi
phạm pháp luật (bao gồm 30 chuyên án, 178 vụ việc và vụ án). Kết quả: Đã
chuyển CQĐT các cấp: 59 vụ, CQĐT đã khởi tố 35 vụ, 175 bị can (trong đó
có 20 chuyên án, 151 bị can và 15 vụ án, 24 bị can); chuyển Thanh tra các Bộ,
ngành và các cơ quan chức năng xử lý hành chính 30 vụ; thu giữ nhiều tiền và
tài sản trị giá hàng chục tỷ đồng.
Sáu tháng đầu năm 2014: Đã tiếp nhận, phát hiện, xác minh, điều tra
146 đầu mối vụ việc, đơn thư (bao gồm 11 chuyên án, 135 vụ việc và vụ án).

Kết quả: Đã chuyển CQĐT các cấp: 23 vụ, CQĐT đã khởi tố 12 vụ, 71 bị can
(trong đó có 04 chuyên án, 18 bị can và 08 vụ án, 53 bị can); chuyển Thanh
tra các Bộ, ngành và các cơ quan chức năng xử lý hành chính 05 vụ.
Trong năm 2015 C50 đã tiếp nhận 46 đơn trình báo và cơng dân trực tiếp
đến trình báo bị các đối tượng lừa đảo chiếm đoạt tài sản thơng qua hình thức gọi
điện thoại giả danh. Tổng số tiền bị chiếm đoạt lên tới hơn 30 tỷ đồng.
Tháng 2/2015, PC50 đã lập Chuyên án 179 D đấu tranh làm rõ 11 nghi
can có hành vi lập 117 website giả danh các nhà mạng đăng tin khuyến mãi
lừa nạp thẻ "ơng chú Viettel". Bằng thủ đoạn này các nhóm này đã chiếm đoạt
hơn 2 tỷ 600 triệu đồng.
Trên cơ sở phân tích diễn biến tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật
về CNC, cho thấy số vụ vi phạm pháp luật và tội phạm sử dụng CNC năm sau
15


cao hơn năm trước. Đây mới chỉ là số vụ việc được phát hiện, còn theo đánh
giá của cơ quan chức năng và các chun gia, thì số vụ cịn ẩn là vơ cùng lớn,
bởi tính đặc thù hoạt động trong thế giới “ảo” của loại tội phạm này.
Điều này cũng chỉ ra rằng, thực tế số vụ vi phạm pháp luật hình sự phát
hiện tương đối nhiều, nhưng số vụ khởi tố và truy tố rất thấp, bởi chủ thể tội
phạm thực hiện trên khơng gian mạng, có thể ở một nơi nhưng lại gây ra hậu
quả toàn cầu, do đó rất khó xác định chủ thể để truy nguyên và bắt giữ, do rào
cản về không gian mạng và lãnh thổ.
3. Các vụ việc điển hình tại Việt Nam
Vụ lừa đảo “Cháu của ơng chú Viettel”
Chiêu trị gửi tin nhắn spam trên mạng xã hội Facebook với nội dung
mạo danh nhân viên tổng đài, "cháu của ông chú làm ở Viettel"… thơng báo
chương trình khuyến mãi gấp 10 lần giá trị thẻ nạp cho người dùng thực hiện
cú pháp *103 dãy số* mã số thẻ nạp #.
Thực chất, cú pháp này là dịch vụ để khách hàng của Viettel nạp giúp

hoặc gửi tặng tiền vào tài khoản của người khác, trong đó dãy số chính là số
điện thoại của người được nhận tiền. Bằng thủ đoạn này, trong thời gian từ
tháng 9 đến tháng 10-2014, 2 đối tượng tên Bùi Phát Hiến (SN 1994, trú tại
Ea Tân, Krông Năng, Đắk Lắk) và Hà Mạnh Thành (SN 1994, trú tại phường
Minh Khai, Bắc Từ Liêm, Hà Nội) đã sử dụng dãy số là số điện thoại
01644471695 chiếm đoạt được 34 triệu đồng. Thấy chiêu lừa này kiếm tiền
quá dễ, Hiến tiếp tục mua thêm 10 sim điện thoại khác và rủ Hà Mạnh Thành
cùng tham gia làm "cháu ông chú ở Viettel". Hàng ngày, Hiến và Thành ra các
quán Internet ở khu vực xung quanh cổng Trường đại học Công nghiệp Hà
Nội (quận Bắc Từ Liêm), lên mạng tung tin nhắn rác lừa đảo. Hiến cung cấp
mã code để tự động gửi tin nhắn tới nhiều người dùng Facebook khác nhau tại
địa chỉ đường dẫn www.notepad.cc/bazbavu89 và số điện thoại để Thành thực
hiện theo. Hiến và Thành sử dụng các tài khoản Facebook "cướp" được của
người khác để gửi tin nhắn lừa đảo. Chỉ trong vòng 1 tháng (từ tháng 10 đến
16


tháng 11-2014), với 10 sim điện thoại được sử dụng làm dãy số trong cú pháp
soạn tin nhắn, Thành và Hiến đã chiếm đoạt được 70 triệu đồng, trong đó
riêng sim điện thoại 0976870573 bọn chúng chiếm đoạt được 23 triệu đồng.
Để chuyển số tiền trong tài khoản các sim điện thoại trên thành tiền mặt
chi tiêu, Hiến và Thành đăng tin rao bán các số sim điện thoại trên Facebook
với giá bán chỉ từ 30-35% giá trị tài khoản. Ngồi ra, 2 đối tượng cịn tạo các
tài khoản trên hệ thống www.pay.vtc.vn và www.thecaosieure.com để chuyển
đổi giá trị tài khoản chính trên sim sang tiền trong tài khoản trực tuyến, sau đó
rút tiền mặt qua tài khoản ngân hàng. Hai "cháu ơng chú ở Viettel" này cịn
hào phóng tặng 2 sim điện thoại có giá trị tài khoản 4-5 triệu đồng chiếm đoạt
được cho bạn gái sử dụng.
Tinh vi hơn, khi trò lừa nạp thẻ cào khuyến mại gấp 10 lần bằng cách
soạn cú pháp như trên bị lộ tẩy, đầu tháng 12-2014, Bùi Phát Hiến chuyển

sang hình thức lừa đảo mới. Hiến sao chép trên mạng Internet cách thức khởi
tạo và bộ mã nguồn website với giao diện www.thanhtoanonline.vn, mạo
danh các nhà mạng cung cấp dịch vụ viễn thơng tung tin chương trình khuyến
mãi gấp 10 lần giá trị thẻ nạp khi người dùng nạp thẻ trên website. Hiến mua
lại tên miền www.thecaodtx20.net của các đối tượng trên mạng, đăng ký dịch
vụ máy chủ ảo (hosting) trên website www.hostinger.vn.
Để thu thập toàn bộ mã số thẻ mà người dùng nạp vào trên website
www.thecaodtx20.net, Hiến đăng ký tài khoản cá nhân trên hệ thống trung
gian thanh toán trực tuyến www.gamebank.vn. Toàn bộ giá trị mã thẻ nạp
được quy đổi ra mệnh giá tiền trên hệ thống gamebank theo tỷ lệ chiết khấu
21% cho cơng ty chủ quản. Tính đến ngày 15-12-2014, khi website
www.thecaodtx20.net bị đóng do hết thời hạn sử dụng miễn phí, Hiến đã
chiếm đoạt được trên 56 triệu đồng, trong đó Hiến đã nhận được gần 44 triệu
đồng qua hình thức rút tiền mặt tại tài khoản ngân hàng và mua mã thẻ điện
thoại trên hệ thống.

17


Bên cạnh đó, hành vi giả danh các nhà mạng đăng tin khuyến mãi để
lừa nạp thẻ cào điện thoại tiếp tục diễn biến phức tạp. Qua một thời gian trinh
sát, PC50 đã lập Chuyên án 179 D đấu tranh làm rõ 11 đối tượng có hành vi
lập 117 website giả danh các nhà mạng đăng tin khuyến mãi lừa nạp thẻ "ông
chú Viettel". Bằng thủ đoạn này các đối tượng đã chiếm đoạt hơn 2 tỉ 600
triệu đồng.
Lừa tiền bằng "điện thoại giả danh"
Thống kê của PC50 cho thấy, trong năm 2015 đơn vị đã tiếp nhận 46
đơn trình báo và cơng dân trực tiếp đến trình báo bị các đối tượng lừa đảo
chiếm đoạt tài sản thông qua hình thức gọi điện thoại giả danh. Tổng số tiền
bị chiếm đoạt lên tới hơn 30 tỷ đồng.

Thủ đoạn của chúng là gọi điện đến cho các bị hại, giả con cái người
thân bị bắt cóc, hoặc dựng kịch bản giả làm nhân viên các nhà mạng, cán bộ
cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát… để lấy thông tin cá nhân, số tài khoản và
yêu cầu chuyển tiền vào tài khoản chúng chuẩn bị sẵn rồi chiếm đoạt. Hành vi
này gây thiệt hại lớn cho các bị hại và gây bức xúc trong dư luận nhân dân.
Một trong những vụ việc điển hình được PC50 khám phá là vụ triệt xóa
ổ nhóm gồm 8 đối tượng người Việt cùng 2 người Đài Loan là Lui Chia Ming
và Tson Jui Cheng. Trong vịng một năm, ổ nhóm này đã thực hiện nhiều vụ
lừa đảo chiếm đoạt số tiền lên đến 6 tỷ 590 triệu đồng.
Theo một điều tra viên PC50, các nhóm nghi phạm này đã tinh quái
dựng lên một màn kịch lừa đảo "hồn hảo" từ đầu chí cuối khiến nhiều bị hại
sau khi gửi sạch tiền trong tài khoản cho chúng rồi vẫn cịn nghĩ rằng mình
đang hợp tác với… cơ quan điều tra!
Đầu tiên chúng gọi đến máy cố định của người dân, xưng danh là nhân
viên của "Tổng đài VNPT" rồi thông báo họ đang nợ tiền cước điện thoại.
Việc thắc mắc chắc chắn sẽ xảy ra, chúng liền hướng dẫn họ khiếu nại bằng
cách ấn phím gọi cho "tổng đài". Làm theo hướng dẫn, người dân được thơng
báo rằng mình đang đứng tên một th bao điện thoại khác ở đâu đó, và thuê
18


bao này hiện chưa thanh toán tiền cước. "Tổng đài" ghi nhận những thắc mắc
của người dùng và hứa sẽ giúp họ xác minh, nhưng phải cung cấp thông tin cá
nhân (như tên tuổi, địa chỉ, số CMND) để đối chiếu. Để chứng minh sự "oan
uổng" của mình, nhiều người sốt ruột liền khai "tuốt tuột" mọi thông tin mà
chúng yêu cầu. Bước đi đầu tiên trong vụ lừa như thế là xong.
Tiếp theo, chúng cử tên khác trong ổ nhóm gọi điện lại, xưng danh là
cán bộ Cơng an, Viện Kiểm sát hoặc Tịa án ở tỉnh nào đó, rồi thơng báo rằng
họ bị nghi có liên quan đến hoạt động buôn bán ma túy, rửa tiền, hoặc tham
nhũng... Vì vậy, để phục vụ yêu cầu điều tra, họ phải hợp tác bằng cách khai

rõ hiện có những khoản tiền đang gửi ở đâu, yêu cầu rút về nộp cho "cơ quan
pháp luật" bằng cách gửi vào tài khoản mà chúng cho sẵn. "Cơ quan pháp
luật" sẽ xác minh, nếu khơng liên quan thì sẽ hồn trả tiền chỉ trong 1-2 ngày.
Trong quá trình "hợp tác điều tra", cấm nói cho ai (kể cả người thân) biết và
phải ln để máy "thông". Nếu không chịu hợp tác và làm theo hướng dẫn sẽ
bị xử lý về hình sự. Để khiến bị hại thực sự lo lắng, chúng đọc đúng mọi
thông tin cá nhân và bảo họ cứ việc xác minh số máy gọi đến qua tổng đài
1080. Các nạn nhân đều kiểm tra và tổng đài xác thực đó đúng là số máy của
cơ quan nội chính. Kỳ thực, chúng đã sử dụng phần mềm giả lập số điện thoại
(giống hệt số máy của các cơ quan chức năng). Vì thế mà nhiều người đã
ngoan ngỗn làm theo hướng dẫn. Họ chỉ phát hiện ra việc mình bị lừa khi đã
chuyển hết tiền vào tài khoản của bọn chúng.
Năm 2015, PC50 đã làm rõ được 3 vụ cùng 23 nghi can trong đó có
nhiều đối tượng là người Trung Quốc, Đài Loan. Ngoài vụ việc do các tên Lui
Chia Ming và Tson Jui Cheng gây ra, gần đây nhất tháng 9/2015, cơ quan
Công an đấu tranh làm rõ ổ nhóm 10 nghi can do Vũ Văn Lập cầm đầu, câu
kết với đối tượng người Trung Quốc lừa đảo số tiền trên 10 tỷ đồng.

19


CHƯƠNG III: NHỮNG KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC VÀ CÁC GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH VỚI TỘI
PHẠM SỬ DỤNG CƠNG NGHỆ CAO
1. Những khó khăn, vướng mắc trong đấu tranh phịng, chống tội
phạm sử dụng cơng nghệ cao
- Nhiều vụ án có sự tổ chức chặt chẽ giữa các đối tượng tội phạm là
người nước ngoài với các đối tượng trong nước để thực hiện tội phạm. Các
đối tượng này sử dụng mạng internet làm phương tiện phạm tội. Do đó, hầu
hết các tài liệu chứng cứ là các tệp tin lưu trữ trên máy tính, trên mạng. Khi bị

phát hiện, tội phạm có thể xố, sửa nhanh chóng để tiêu huỷ nên rất khó thu
thập chứng cứ.
- Các đối tượng phạm tội thường sử dụng nick name, địa chỉ email để
giao tiếp với nhau và với các bị hại nên rất khó xác định nhân thân địa chỉ thật
của đối tượng hoặc bị hại, nhất là khi họ ở nước ngoài. Đối tượng phạm tội
thường sử dụng thơng tin giả nên việc truy tìm người thực hiện hành vi phạm
tội là rất khó khăn. Ngồi ra, việc chiếm đoạt tiền cuả nạn nhân thường thông
qua nhiều tài khoản và đối tượng trung gian nên việc xác định trách nhiệm
của các bên trung gian cũng rất khó khăn.
- Quá trình điều tra thu thập chứng cứ của vụ án trên gặp nhiều khó
khăn, vì hầu hết chứng cứ chỉ được xác định trên cơ sở lời khai nhận của các
đối tượng, các thông tin in từ mạng internet.
- Nhiều trường hợp do hệ thống phần mềm không được bảo mật tốt, bị
lộ mật khẩu, hệ thống không lưu trữ đầy đủ lịch sử truy cập dữ liệu, nên việc
xác định người đăng nhập hệ thống là ai, vào thời gian nào, làm việc gì trên
hệ thống,… là rất khó khăn, dẫn đến khơng thể xử lý được đối tượng.
- Chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật để xử lý một số hành
vi tội phạm có sử dụng cơng nghệ cao như truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy
qua mạng hoặc có văn bản hướng dẫn nhưng đã lạc hậu như hướng dẫn số đĩa
20


để làm yếu tố định tội, định khung hình phạt truy tố đối với tội truyền bá văn
hóa phẩm đồi trụy…
- Công tác tương trợ tư pháp, ủy thác tư pháp kết quả còn hạn chế,
nhiều vụ hầu như ủy thác tư pháp khơng có kết quả, chậm trả lời...
- hệ thống các quy định pháp luật chưa đầy đủ để điều chỉnh một cách
toàn diện các hành vi TPCNC thực hiện; nhiều điều khoản chưa đủ sức răn đe,
thiếu hụt các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Nhiều hành vi truy cập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn

thông, mạng Internet hoặc thiết bị số để chiếm đoạt, sử dụng, khai thác thơng
tin với những mục đích khác nhau, cho dù chưa có hậu quả xảy ra thì hầu hết
các nước phát triển đã coi là hành vi tội phạm nhưng pháp luật Việt Nam hoặc
là chưa coi là tội phạm hoặc là địi hỏi phải có hậu quả nghiêm trọng xảy ra
(gắn với bị hại).
- Chế tài răn đe lại chưa được nghiêm khắc. Ngoài ra, các quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này còn thiếu hoặc chưa nghiêm.
- ý thức bảo vệ thông tin của các tổ chức và cá nhân khi tham gia vào
các giao dịch qua các phương tiện công nghệ thơng tin, viễn thơng chưa cao;
nhiều máy tính, thiết bị di động chưa được cài đặt các chương trình bảo vệ.
Tình trạng sử dụng các phần mềm sao chép bất hợp pháp, khơng có bản
quyền cịn phổ biến do đó khơng thể cập nhật đầy đủ các bản vá lỗi của nhà
cung cấp. Đây là những lỗ hổng để các đối tượng phạm tội có thể thâm nhập.
- Tổ chức bộ máy, phân công, phân cấp ở các cơ quan bảo vệ pháp luật
và chuyên trách còn bất cập. Trình độ, năng lực tham mưu, quản lý và tổ chức
thực hiện cũng như tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ Tổ quốc, phục vụ
nhân dân, kiên quyết tấn công TPCNC của một bộ phận cán bộ cơ quan bảo
vệ pháp luật, chiến sĩ lực lượng chuyên trách còn hạn chế.
- Điều kiện hậu cần - kỹ thuật bảo đảm cho cơng tác phịng, chống
TPCNC cịn nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được u cầu phịng chống
TPCNC trong tình hình mới. Chính sách đãi ngộ đối với lực lượng trực tiếp
đấu tranh phòng, chống TPCNC còn chưa phù hợp.
21


2. Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao
(C50) và các chiến công đã lập được
Cục Cảnh sát phịng chống tội phạm sử dụng cơng nghệ cao (C50) trực
thuộc Tổng cục Cảnh sát có trách nhiệm tham mưu giúp Tổng cục trưởng chỉ
đạo, kiểm tra, hướng dẫn lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng

công nghệ cao trong cả nước, tiến hành các biện pháp phòng ngừa, phát hiện,
điều tra xử lý tội phạm sử dụng công nghệ cao; trực tiếp tiến hành các biện
pháp phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống các hành vi vi phạm và tội phạm
sử dụng công nghệ cao theo quy định của Pháp luật và của Bộ trưởng
Các chiến công của C50 trong thời gian qua:
Trong 5 năm qua, ngồi việc làm tốt cơng tác tham mưu, Cục C50 đã
phát hiện, xác minh, điều tra và chỉ đạo hệ lực lượng tại địa phương (gồm các
phòng, đội Cảnh sát phịng chống tội phạm sử dụng cơng nghệ cao) điều tra
gần 1.500 đầu mối vụ việc liên quan đến cơng nghệ cao. Trong đó đã điều tra,
làm rõ và chuyển cơ quan điều tra các cấp khởi tố hơn 320 vụ, hơn 1.100 bị
can; chuyển cơ quan thanh tra chuyên ngành các cấp xử phạt hành chính hàng
trăm vụ, thu hồi tiền và hàng ngàn máy tính xách tay, điện thoại di động, linh
kiện điện tử, hàng hóa, máy móc… trị giá hàng trăm tỉ đồng.
Từ tháng 8/2010, việc kinh doanh vàng tài khoản bị cấm ở Việt Nam
dưới mọi hình thức. Tuy nhiên, bất chấp quy định của pháp luật, nhiều sàn
vàng vẫn tiếp tục được mở ra, thu hút một lượng lớn người dân tham gia.
Không chỉ kinh doanh trái phép, các sàn vàng bất hợp pháp này với những
mánh lới nhằm đoạt tiền của khách hàng đã đẩy nhiều người dân thiếu hiểu
biết vào cảnh trắng tay, gây thiệt hại hàng nghìn tỉ đồng cho nhà đầu tư.
Chuyên án 312T, đấu tranh với mạng lưới sử dụng mạng Internet để lừa
đảo chiếm đoạt tài sản tại Công ty cổ phần đào tạo trực tuyến (Công ty MB24)
Chuyên án 812C, đấu tranh triệt phá ổ nhóm sử dụng mạng Internet
để chiếm đoạt tài sản dưới hình thức kinh doanh đa cấp tại Công ty Cộng
Đồng Việt; chuyên án 812E, đấu tranh với nhóm đối tượng sử dụng mạng
22


Internet để chiếm đoạt tài sản dưới hình thức kinh doanh đa cấp tại Công ty
Tâm Mặt Trời; chuyên án 512T, đấu tranh với ổ nhóm đối tượng chuyên tổ
chức đánh bạc xuyên quốc gia qua mạng Internet gồm các đối tượng người

Việt Nam và Trung Quốc thuê đường truyền Internet tốc độ cao, thiết lập
mạng VPN, lập các trạm thu phát tín hiệu Wifi trái phép tại khu vực biên
giới ở Quảng Ninh, Tây Ninh để kết nối với các sòng bạc ở Campuchia tổ
chức đánh bạc trực tuyến.
Chuyên án 129T, đấu tranh với nhóm đối tượng trộm cắp thơng tin thẻ
tín dụng người nước ngồi, mua hàng hóa từ Hoa Kỳ chuyển về Việt Nam tiêu
thụ…
Năm 2012, lực lượng Cảnh sát Phịng chống tội phạm sử dụng cơng
nghệ cao trên cả nước đã phát hiện, xác minh, điều tra 261 đầu mối vụ việc có
dấu hiệu vi phạm pháp luật (bao gồm xác lập 44 chuyên án, 217 vụ việc và vụ
án), tổng thiệt hại do tội phạm gây ra ước tính hơn 2.000 tỷ đồng
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh với tội
phạm sử dụng cơng nghệ cao
Tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tiếp tục diễn biến phức tạp,
khó lường với thủ đoạn đa dạng, xảy ra trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn
hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng của đất nước. Các thế lực thù địch và bọn
phản động sẽ tiếp tục lợi dụng internet để tuyên truyền xuyên tạc và tập hợp
lực lượng thực hiện âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Tình
hình mất an tồn thơng tin số tiếp tục diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều
nguy cơ đe dọa đến việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh - quốc phòng, nhất là nguy cơ bị tấn công,
lây nhiễm virus trong hệ thống thông tin dẫn đến lộ lọt bí mật quốc gia. Tội
phạm người nước ngồi vào Việt Nam sử dụng thiết bị cơng nghệ cao để trộm
cắp cước viễn thơng, sử dụng thẻ tín dụng giả, lừa đảo, tống tiền sẽ tiếp tục
gia tăng; các ổ nhóm, đường dây tội phạm sử dụng cơng nghệ cao sau khi bị
phát hiện, xử lý mạnh trong thời gian qua sẽ chuyển qua phương thức, thủ
23



×