Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

tiểu luận TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề Tài Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết quốc tế, tuyên truyền đại đoàn kết dân tộc với đại đoàn kết tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.59 KB, 45 trang )

























ĐH SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
1
Tiểu luận cuối kỳ
1
Giáo viên hướng dẫn: THS: Trương Thị Mỹ Châu
1
Chương 1


5
Cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc:
5
○ Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
5
○ Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
5
○ Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng Việt Nam và
thế giới.
6
Nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
7
○ Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng
7
○ Đại đoàn kết toàn dân tộc là sức mạnh của cách mạng Việt Nam
8
Ý nghĩa luận điểm:
10
-Đại đồn kết Quốc tế
12
Chương 2.
15
KHÁI QT TÌNH HÌNH TƠN GIÁO HIỆN NAY.
15
○ Tin đồ.
15
○ Chức sắc tơn giáo.
15
○ Các tổ chức giáo hội.
15

○ Âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá nước ta.
16
○ Kết quả thực hiện cơng tác tơn giáo,
17
○ Tình hình tơn giáo cịn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. 18
Chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách đại đồn kết tôn giáo ở nước ta hiện nay 18
○ Quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh
18
○ Ý nghĩa
21
○ Về Quan điểm chỉ đạo
21
○ Về nhiệm vụ của công tác tôn giáo:
24
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đại đồn kết tơn giáo ở nước ta hiện nay : 27
Tuyên truyền về đại đoàn kết dân tộc với đại đồn kết tơn giáo:
31
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
35




● ĐH SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM





● Đề Tài: Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại

● đồn kết dân tộc và đại đoàn kết quốc tế, tuyên
truyền đại đoàn kết dân tộc với đại đồn kết tơn
giáo
● Tiểu luận cuối kỳ


● (Mơn Học: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH)


● Giáo viên hướng dẫn: THS: Trương Thị Mỹ Châu


● Nhóm thực hiện: Nhóm 9
Học Kỳ I – Năm học: 20212022
1







● TP.HCM, tháng 10 năm 2021




HỌ TÊN SINH VIÊN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:






● Họ Và Tên

● MSS
V

● Tỷ lệ hoàn
thành

● Ghi chú



● Nguyễn Xuân
Huy
● Lâm Văn Hiếu

● 20145
520
● 20151
366
● 20145
647
● 20151
115
● 20145
595
● 20145

646
● 20145
593

● 100%

● Lớp 21
CLC
● Lớp 21
CLC
● Lớp 21
CLC
● Lớp 21
CLC
● Lớp 21
CLC
● Lớp 21
CLC
● Lớp 21
CLC








● Phan Lê Minh


● Phan Trần Gia
Bảo
● Hồ Phi Rin
● Nguyễn Thành

● Lương Phú
Qúy





Điểm:





NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN:

















● GV ký tên

● 100%
● 100%
● 100%
● 100%
● 100%
● 100%


○ MỤC LỤC
● Chương 1
4
○ Cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
4
○ Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
○ ............................................................................................................................. .....4
○ Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
4
○ Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng
Việt Nam và thế giới.
5
○ Nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
6
○ Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng

6
○ Đại đoàn kết toàn dân tộc là sức mạnh của cách mạng Việt Nam
7
○ Ý nghĩa luận điểm
8
● Chương 2.
11
○ KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH TƠN GIÁO HIỆN NAY
11
○ Tin đồ.
11
○ Chức sắc tơn giáo
11
○ Các tổ chức giáo hội.
11
○ Âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá nước ta
12
○ Kết quả thực hiện cơng tác tơn giáo,
13
○ Tình hình tơn giáo cịn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây
mất ổn định
14
○ Chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách đại đồn kết tơn giáo ở
○ nước ta hiện nay
14
○ Quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh
14
○ Ý nghĩa
16
○ Về Quan điểm chỉ đạo

16
○ Về nhiệm vụ của công tác tôn giáo
18
○ Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đại đồn kết tơn giáo ở
nước ta hiện nay
20


● Chương 1
● Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
● Cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc:



Quan điểm Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố
và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã
vận dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình
và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.



● Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc
Việt Nam.




Đề cập đến chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
” Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý

báu của ta từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy
lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và
cướp nước”.



Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn
liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt
Nam đã hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững.
Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi
con người Việt Nam, làm cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận
mệnh của cộng đồng, vào sự sống cịn và phát triển của dân tộc. Nó là
cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì
dân, vì nước của mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần
thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình
dựng nước và giữ nước, làm nên truyền thống yêu nườc, đoàn kết của
dân tộc. Dù lúc thăng, lúc trầm nhưng chủ nghĩa yêu nước và truyền
thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng là tinh hoa đã được
hun đúc và thử nghiệm qua hàng nghìn năm lịch sử chinh phục thiên
nhiên và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc của ông cha ta. Chủ
nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam
là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đồn kết dân tộc.





● Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin




Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, nhân dân là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực
hiện vai trò là lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh
công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Chủ
nghĩa Mác-lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải
phóng. Lê-nin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết




là liên minh giai cấp công nhân với nông dân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho
thắng lợi của cách mạng vơ sản. Rằng nếu khơng có sự đồng tình và ửng hộ
của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vơ
sản, thì cách mạng vơ sản khơng thể thực hiện được.




Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ
sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như
những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực
lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng
lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc.




● Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào
cách mạng Việt Nam và thế giới.



Khơng chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận sng, tư tưởng này
cịn xuất phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bơn ba khảo
nghiệm ở nước ngịai của Hồ Chí Minh.




a-Thực tiễn cách mạng Việt Nam




Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước
của dân tộc mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến
chỉ có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại
những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng “Vua tơi đồng
lịng, anh em hịa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan thư sức dân để
làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Chính chủ nghĩa yêu
nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của
lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi
nhận như những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.



Năm 1858, thực dân Pháp tấn cơng bán đảo Sơn Trà, từ đó, các phong

trào yêu nước , chống pháp liên tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối
cùng đều thất bại. Hồ Chí Minh đã nhận ra được những hạn chế trong
chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong
việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai đọan này.
Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất phát để Người quyết tâm từ Bến
cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước.






b- Thực tiễn cách mạng thế giới






Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc
khảo nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức
một sự thực:




“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ
chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có





sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có
tổ chức và chưa biết tổ chức…”




Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành cơng đã đưa Hồ Chí
Minh đến bước ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc, giành dân chủ cho nhân dân. Từ chỗ chỉ biết đến
Cách mạng Tháng Mười theo cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu
một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười và những bài học
kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong
trào cách mạng thế giới. Đặc biệt là bài học về sự huy động, tập hợp,
đoàn kết lực lượng quần chúng cơng nơng binh đơng đảo để giành và
giữ chính quyền cách mạng.



● Nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc



Trong quan điểm của Bác Hồ, đại đoàn kết dân tộc được xác định là
mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong các
lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách đến thực tiễn.




Đại đồn kết tồn dân tộc là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi
theo Bác, đồn kết là lực lượng vơ địch để khắc phục mọi khó khăn,
giành lấy thắng lợi.



Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp, đoàn
kết và phát huy sức mạnh toàn dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp
đổi mới, phát triển đất nước và hội nhập.







● Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng



Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân Việt
Nam trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Kế thừa truyền thống quý báu đó, trong hệ thống tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc là tư tưởng cơ bản,
nhất quán và xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người.




Về vai trị của đại đồn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đại đồn
kết toàn dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề
sống còn, quyết định thành cơng của cách mạng. Đồn kết làm nên sức
mạnh và là cội nguồn của mọi thành cơng: “Đồn kết là một lực lượng
vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi."








Để đánh bại các thế lực đế quốc, thực dân giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần u nước
thơi là chưa đủ,




cách mạng muốn thành công và “thành công đến nơi," phải tập hợp tất cả các lực
lượng, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững.




Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân
dân ta cuối thế kỷ 19 bị thất bại có một ngun nhân sâu xa là cả nước
khơng đồn kết được thành một khối thống nhất. Muốn cách mạng

thành công phải có lực lượng cách mạng, muốn có lực lượng cách mạng
phải thực hiện đoàn kết.



Bác viết: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đồn kết chặt chẽ, thì
chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận
lợi và làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó cho chúng ta."



Khơng dừng lại ở việc xác định đại đoàn kết là mục tiêu, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cịn khẳng định nhiệm vụ của tồn Đảng là giữ gìn sự đồn
kết. Trong Di chúc, Bác dặn lại rằng "Đoàn kết là một truyền thống cực
kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn
con ngươi của mắt mình."



Như vậy, trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân
tộc được xác định là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được
quán triệt trong tất cả các lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách
đến hoạt động thực tiễn.










● Đại đoàn kết toàn dân tộc là sức mạnh của cách mạng Việt Nam



Để phát huy sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân và nhân nguồn
sức mạnh đó lên, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng việc giác ngộ,
tập hợp nhân dân vào hàng ngũ cách mạng, bổ sung và phát huy vai trò
của họ, làm cho họ trở thành một động lực cách mạng quan trọng; đồng
thời khẳng định liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân
và tầng lớp trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân.



Người chỉ rõ “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân
dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đồn kết. Nó cũng như
cái nền của nhà, gốc của cây."



Thực tế cho thấy, liên minh cơng-nơng-trí (trí thức) khơng những là u
cầu khách quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước mà còn là yêu cầu khách quan để phát triển
bền vững kinh tế, vǎn hóa, xã hội của đất nước.











Đây cũng chính là cơ sở để Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam thành lập và lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trải qua
các


thời kỳ cách




mạng với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam không ngừng lớn mạnh và có những đóng góp to lớn vào thắng lợi
vĩ đại của dân tộc, trở thành một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.




Với chức năng tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo
và các thành phần trong xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã hiệu
triệu, quy tụ nhân dân thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc,
chung sức, chung lòng làm nên những thắng lợi vĩ đại, viết nên những
trang sử hào hùng của cả dân tộc, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ, trở

thành chủ nhân của đất nước; mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc
lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.



Tại Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 10/9/1955, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Lịch sử trong những năm qua đã tỏ rõ
lực lượng đoàn kết của nhân dân là vô địch. Mặt trận Việt Minh đã giúp
Cách mạng Tháng Tám thành công. Mặt trận Thống nhất Việt MinhLiên Việt đã giúp kháng chiến thắng lợi. Chúng ta có thể tin chắc rằng:
với sự cố gắng của mỗi người và sự ủng hộ của toàn dân, Mặt trận Tổ
quốc sẽ làm tròn nhiệm vụ vẻ vang là giúp xây dựng một nước Việt
Nam hồ bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh."



Thực hiện xuyên suốt và nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc,
trong chín thập kỷ qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp, đoàn kết
và phát huy sức mạnh toàn dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, rồi cùng nhau xây dựng “đất
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong ước của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.








● Ý nghĩa luận điểm:


● -Đồn kết dân tộc:





Theo Hồ Chí Minh: Đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược, quyết định sự thành cơng của cách mạng. Cách mạng muốn thành
cơng phải có lực lượng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng xã
hội mới. Việc xây dựng lực lượng trong nước có vai trị quyết định "để
tự ta giải phóng cho ta". Theo Người, muốn có lực lượng phải đồn kết
vì "đồn kết là lực lượng vơ địch". Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ
trương đồn kết rộng rãi, chặt chẽ và lâu dài toàn dân tộc thành một
khối thống nhất. Đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế sẽ tạo ra sức
mạnh to lớn để chiến thắng mọi kẻ thù.




Người viết: "Nhờ đại đoàn kết toàn dân tộc mà trong bao thế kỷ nhân
dân Việt Nam đã bảo vệ được độc lập, tự do của mình. Nhờ đại đồn kết



nhân dân ta đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm Cách mạng Tháng
Tám thành công và đã kháng chiến thắng lợi. Nhờ đại đoàn kết toàn dân
mà nước Việt Nam chúng ta





nhất định sẽ thống nhất". Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý
nghĩa chiến lược. Đó là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt q trình
cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng, có thể tập hợp được nhằm
hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
và xây dựng xã hội mới. Người thường xuyên căn dặn những người cách
mạng Việt Nam: Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần
thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp với những đối tượng
khác nhau, nhưng đại đồn kết dân tộc phải ln ln được nhận thức là vấn
đề sống cịn của cách mạng.




Vì vậy, muốn cách mạng thành cơng, tư tưởng đại đồn kết của Chủ tịch
Hồ Chí Minh phải được quán triệt trong mọi chủ trương của Đảng, mọi
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đại đồn kết dân tộc theo Hồ Chí
Minh khơng chỉ là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng,
mà cịn là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của dân tộc. Như vậy,
đại đoàn kết dân tộc chính là sự địi hỏi khách quan của bản thân quần
chúng nhân dân. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, biến
những đòi hỏi khách quan, tự phát của nhân dân thành sức mạnh vô địch
trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân.



Đại đoàn kết được xây dựng dựa trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của

dân tộc và những lợi ích chính đáng cuat nhân dân lao động. Thực tiễn
lịch sử đã xác nhận, xuy đến cùng, mối quan hệ giữa các tầng lớp nhân
dân trở nên bền chặt hay khơng do chính vấn đề lợi ích quy định. Ngược
lại nếu không thỏa mãn những vấn đề tối thiểu về lợi ích thì mọi khẩu
hiệu về đồn kết chỉ là những khẩu hiệu trống rỗng. Tuy nhiên, mối
quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp luôn là vấn đề hết sức phức
tạp, chồng chéo, luôn chứa đựng những yếu tố thống nhất, mâu thuẫn và
không ngừng vận động biến đổi cùng với đời sông thực tiễn.





● -Đại đoàn kết Quốc tế



Tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong cả tư
duy lý luận và hoạt động thực tiễn; không chỉ trong nội bộ Đảng, trong
bộ máy chính quyền, trong phạm vi một dân tộc, mà cịn được thể hiện
trên bình diện rộng lớn hơn, đó là đồn kết quốc tế. Gần 60 năm hoạt
động cách mạng, trong đó 30 năm hoạt động ở nước ngoài, liên tục
tham gia phong trào cách mạng và đóng góp cho sự nghiệp chung của
cách mạng thế giới, thơng điệp về tình hữu nghị, đồn kết quốc tế ln
được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện một cách rõ ràng và vững chắc.



Quan điểm về đồn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuyên suốt
và nhất quán, bởi Người sớm nhận ra, cuộc cách mạng giải phóng dân

tộc theo con đường cách mạng vơ sản muốn đi đến thắng lợi thì phải
huy động và tập hợp được sức mạnh đoàn kết quốc tế. Trong hành trình




tìm đường cứu nước, lý tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
khơng


chỉ dừng lại ở giải phóng dân tộc mình, mà cịn vì sự nghiệp giải phóng
các dân tộc bị áp bức và nhân loại cần lao. Những




lời di huấn của Người về tình đồn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương
đối với con người. Và đoàn kết quốc tế cũng để nhằm mục tiêu giải phóng các
dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.




Quan điểm về đồn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuyên suốt
và nhất quán, bởi Người sớm nhận ra, cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc theo con đường cách mạng vơ sản muốn đi đến thắng lợi thì phải
huy động và tập hợp được sức mạnh đoàn kết quốc tế. Trong hành trình
tìm đường cứu nước, lý tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
khơng chỉ dừng lại ở giải phóng dân tộc mình, mà cịn vì sự nghiệp giải
phóng các dân tộc và nhân loại cần lao khỏi ách áp bức, bóc lột của thực

dân, đế quốc. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân tộc Việt Nam chiến thắng
được những kẻ thù hùng mạnh cũng bởi nhờ tồn dân ln đồn kết một
lịng; đồng thời, đã nhận được sự đồn kết, ủng hộ, giúp đỡ quý báu cả
về tinh thần và vật chất của các nước anh em, của bạn bè u chuộng
hịa bình trên tồn thế giới. Vì thế, Người đã bày tỏ mong muốn đến
ngày thắng lợi “Sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước
anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các nước bầu bạn khắp năm châu
đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
ta”. Đó là biểu hiện truyền thống đồn kết, thủy chung của dân tộc Việt
Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước
chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.



Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế bắt nguồn từ
tình yêu thương đối với con người, với nhân loại và đồn kết tồn nhân
loại vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, Người ln đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ khăng
khít với phong trào cách mạng thế giới. Từ ngày 25 đến ngày 30 tháng
12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ XVIII của
Đảng Xã hội Pháp, họp ở thành phố Tua (Tours) với tư cách là đại biểu
Đông Dương, Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản,
trở thành một thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ đây, Người
đã đặt nền móng cho tình đồn kết chiến đấu giữa Đảng Cộng sản Việt
Nam và Đảng Cộng sản Pháp, tạo sự gắn bó chặt chẽ hơn giữa phong
trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới.





● Chương 2.
● Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân
tộc vào thực hiện chính sách đại đồn kết tơn giáo ở nước ta
hiện
nay
● KHÁI QT TÌNH HÌNH TƠN GIÁO HIỆN NAY.


● Tin đồ.



Theo báo cáo của Ban Tơn giáo Chính phủ, tổng số tín đồ 6 tơn giáo là :
18.358.345. trong đó: Phật giáo 9.038.064, Công giáo: 5.324.492, Tin
Lành: tổng hội miền Bắc: 6.333, Tổng Liên hội miền Nam: 414,915,
Đạo Hồi 64.991; Cao Đài: 2.276 978; Hoà Hảo: 1.232.572.



Trong những năm qua, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
trong đó có đồng bào các tôn giáo được cải thiện, cổ mặt được nâng lên,
nhiế cơ sở thờ tự được tu bổ, xây mới khang trang đẹp đẽ.



Do những thành tựu của cơng cuộc đổi mới và đo đời sống tín ngưỡng
tơn giáo được cải thiện, đồng bào tôn giáo tăng thêm niềm tin vào Đảng
và Nhà nước. Đồng bảo tuân thủ pháp luật, chấp hành các chính sách,
địi hỏi chống tham nhũng phải có hiệu quả hơn, địi hỏi cả chức sắc và

người thi hành công vụ làm đúng theo pháp luật, khơng đồng tình với
những hành động lợi dụng tơn giáo để gây rối, nhiều trường hợp đồng
bào đã đấu tranh chống lại những hoạt động của bọn xấu gây mất ổn
định xã hội,







● Chức sắc tôn giáo.



Chức sắc giữ vai trị quan trọng trong hoạt động tơn giáo có ảnh hưởng
lớn tới tin đồn. Họ ở trong hệ thống tổ chức khá chặt chẽ của các giáo
hội. Nhiều người da được đào tạo khá cơ bản về giáo lý, có trình độ văn
hố, có điều kiện và phương tiện hoạt động.



Trong q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới, bộ phận chức sắc yêu
nước, tiến bộ gần gũi với Đảng, chính quyền và Mặt trận ngày càng
nhiều lên. Đại đa số các chức sắc yên tâm làm việc đạo, có tinh thần dân
tộc, đồng tình với đường hưởng tốt đời, đẹp đạo, mong muốn được hoạt
động tơn giáo bình thường trong khuôn khổ luật pháp,






● Các tổ chức giáo hội.



Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Thành lập từ năm 1981, là tổ chức thống
nhất các tổ chức, hệ phái Phật giáo trên cả nước với 15.051 ngôi chùa, 3
Học viện Phật giáo, 1 Viện nghiên cứu Phật học, 30 trường trung cấp
Phật học trong đó có 4 lớp




Cao đẳng Phật học. Tổ chức của Giáo hội gồm 2 cấp Trung ương và cơ sở
(chùa). Có 44 ban Trị sự Phật giáo ở 44 tỉnh, thành phố.




Giáo hội Công giáo Việt Nam: gồm 25 giáo phận, mỗi giáo phan do một
Giám mục đứng đầu Hội đồng Giám mục Việt Nam tập hợp tất cả các
giám mục ở Việt Nam được thành lập năm 1980 chọn đường hướng
“sống phúc ấn trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”.




Các giáo hội Tin lành:









Hội Thánh Tin lành miền Bắc: Tổng hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc)
ra đời năm 1955 là một tổ chức tôn giáo u nước, có điều lệ tiến bộ, có thành
tích đóng góp trong kháng chiến chống Mỹ và trong những năm đầu sau khi
đất nước thống nhất.
Hội Thánh Tin lành miền Nam: Ngày 30-11-1998 Thường bị Bộ Chính trị cổ
Thơng báo số 184-TB/TW (sau đây gọi tắt là Thông báo số 184) cho ý kiến về
chủ trương công tác đối với đạo Tin lành trong tình hình mới. Các giáo hội
Cao Đài: Ngày 14-11-1992 Ban Bí Thư Cổ Thơng báo số 34-TB/TW cho ý
kiến về chủ trương công tác đối với đạo Cao Đài, yếu tố quan điểm: Thực
hiện; các chính sách tôn giáo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với
Đạo Cao Đài như đối với các tơn giáo khác


Phật giáo Hồ Hảo: Phật giáo Hồ Hảo ra đời dưới chế độ thực dân
Pháp,năm 1999 thực hiện thơng báo số 165-TB/TW ngày 4-9-1998 của
Thường vụ Bộ Chính trị, các địa phương có đạo Phật giáo Hịa Hảo đã
tổ chức Đại hội đại biểu phát triển, Hoả Hảo bầu ra Ban đại diện gồm 11
thành viên, hoạt động theo “Quy chế Phật giáo Hoà Hảo”.



Cộng đồng Hồi giáo đồng bào Chăm cổ đạo Hồi gồm hai nhánh Hồi,
gồm hai nhánh Hội Bani và Hồi Islam và 20 cháu Bản chủ yếu ở Ninh

Thuận, Bình thuận, An Giang và thành phố Hồ Chí Minh.





● Âm mưu lợi dụng tơn giáo để chống phá nước ta.



Lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo để xâm phạm an ninh quốc gia, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc là âm mưu cố hữu không bao giờ từ bỏ
của chủ nghĩa đế quốc, Chính sách đối với tơn giáo của chủ nghĩa đế
quốc là lợi dụng, chia rẽ và thông trị.



Âm mưu của chúng là chia rẽ giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, giữa
tôn giáo với không tôn giáo, đặc biệt giữa đồng bào tôn giáo với Đảng,
Nhà nước và cách mạng.






Chủng đã dùng các thủ đoạn kích động, lửa m và ơ ép, kht sâu mâu
thuẫn về tư tưởng, kích động mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân để lừa
gạt, lơi kéo, giành giật đồng bảo về phía chúng và đầy dần ra đối đầu
với chính quyền, với Đảng,




Để lợi dụng vấn đề tôn giáo trong bối cảnh thế giới hiện nay, mỹ đã triệt
để lợi dụng các xu hướng tồn cầu hố, quốc tế hố, đề ra khẩu hiệu
nhân quyền cao hơn chủ quyền, quyền cá nhân cao hơn quyền cộng
đồng Mỹ lại nhân danh các công ước quốc tế và lợi dụng các cơ chế
toàn cầu để pháp lý hoá các pháp luật, các quy định đơn phương từ phía
Mỹ nhằm can thiệp vào cơng việc nội bộ của các tôn giáo và các quốc
gia. Mỹ triệt để khai thác các phương tiện thông tin hiện đại trong điều
kiện xã hội thông tin để lừa mi, lung lạc, sử dụng tay sai đội lốt chức sắc
giáo sĩ để hoạt động chính trị phản động, lợi dụng các mối quan hệ hải
ngoại và quốc tế để nuôi dưỡng, tác động, chỉ đạo các tổ chức tôn giáo
nghe theo chủng hoạt động diễn biến hồ bình”. Thực tế tình hình trong
những năm qua, cho thấy cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi
dụng tôn giáo để thực hiện “diễn biến hồ bình” tại nước ta đã diễn ra
rất gay go, quyết liệt.



Từ năm 1999 đến nay, các thế lực thù địch quyết tâm phối hợp lực
lượng, kết hợp vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc nhằm thực hiện “diễn
biến hồ bình”, tập trung vào năm 2000 và các năm tiếp theo. Chúng
mọc nội xây dựng tổ chức lên tơn giáo chống Đảng, chống Nhà nước,
tìm mọi cách để ra mắt tổ chức chống đối ngày trong nước. Chúng kích
động những người tin theo tơn giáo trong dân tộc đa số cũng như thiểu
số, tìm cách cho ra đời các “giáo hội độc lập”, các “tôn giáo ly khai”
theo kiểu “Tin hành Đềga”, nhan; chỉ đạo trực tiếp từ nước ngoài, được
các lực lượng phản động nước ngồi cơng khai cổ vũ, ủng hộ và chi
viện.




Các thế lực thù địch ln ln tìm cách khai thác mọi sơ hở của ta để
kích dodong quần chúng lạc hậu vi phạm pháp luật, làm rối loạn trật tự
xã hội, gây bạo loạn nhằm tạo cở để nước ngoài can thiệp.









● Kết quả thực hiện công tác tôn giáo,



Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, chỉ thị, chính sách
về tơn giáo. Năm 1990, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 24 về công
tác tôn giáo. Ngày 2-7-1998,Bộ. Chính trị ban hành chỉ thị 37 về cơng
tác tơn giáo trong tình hình mới. Ngày 19-4-1999, chính phủ ban hành
nghị định số 26 về các hoạt động tôn giáo...



Gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 7 chỉ rõ: Thực hiện Nghị quyết
của Đảng, công tác vận động đồng bào có đạo, các tín đồ chức sắc...





hưởng ứng tham gia phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc đạt được nhiều tiến bộ...


● Tình hình tơn giáo cịn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định.




Một là, Một số người chưa tuân thủ pháp luật, còn tổ chức truyền đạo
trái phép, cịn lại dụng tín ngưỡng tơn giáo để hành nghề mê tín dị đoan.




Thống kê lại 21 tỉnh, thành phố về tình hình những người chuyên hoạt động
tôn giáo cho biết, trong 8,553 chức sắc đang hoạt động thì chỉ có 6.592 người
(tức 77%) được chính quyền cơng nhận.




Việc thun chuyển, bổ nhiệm chức sắc cổ đến 15% số người đi từ xã, huyện
này sang xã, huyện khác trong cùng một tỉnh để hoạt động tơn giáo khơng
được chính quyền chấp thuận.







Về mặt tổ chức, các hội đồn tơn giáo (Cơng giáo, Phật giáo, Cao Đài, Tin
Lành, nhiều nhất là Công giáo) tiếp tục phát triển và hoạt động lôi kéo quần
chúng


Hai là, việc khiếu kiện và tranh chấp liên quan đến đất đai và cơ sở vật
chất của tôn giáo một số nơi tăng lên, có nơi gay gắt, phức tạp.



Ba là, ở một số nơi, nhất là vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi
dụng tín ngưỡng, tơn giáo để tiến hành những hoạt động chống đối, kích
động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn
định chính trị.





● Chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách đại đồn kết
tơn giáo ở nước ta hiện nay


● Quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh




Ngay sau khi nước nhà độc lập, trong Phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời (3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Thực dân và
phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào
Lương, để dễ thống trị. Tơi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN
NGƯỠNG TỰ DO và Lương Giáo đồn kết”. Người kêu gọi tồn dân,
lương và giáo xóa bỏ mặc cảm, thực hiện tư tưởng: đoàn kết lương-giáo,
chủ trương “Lương giáo đoàn kết để kháng chiến kiến quốc thắng lợi”.



Ngày 14-6-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL quy
định những hoạt động tôn giáo trong chế độ mới, được đồng bào theo và
không theo tôn giáo nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ.



Năm 1958, khi trả lời câu hỏi của các cử tri Hà Nội: "Tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì tơn giáo có bị hạn chế khơng?", Chủ tịch Hồ Chí Minh một
lần nữa nhắc lại thái độ của người cộng sản đối với tôn giáo: "Không. ở
các nước xã hội chủ









nghĩa, tín ngưỡng hồn tồn tự do. ở Việt Nam ta cũng vậy". Người cũng nêu rõ
những giá trị đạo đức và văn hóa nhất định của tơn giáo:




"Chúa Giê-su dạy: Đạo đức là bác ái.
Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi.
Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân
nghĩa".


Chính những quan điểm đúng đắn ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và tơn giáo đã bác bỏ luận điệu tuyên truyền rằng: Chủ
nghĩa xã hội không phù hợp với nền văn minh Ki-tô giáo; chủ nghĩa xã
hội hạn chế, thậm chí khơng chấp nhận chung sống với tôn giáo… và
giải tỏa nỗi lo lắng, ngờ vực trong cộng đồng Công giáo khi bước vào
công cuộc xây dựng xã hội mới.



Hồ Chí Minh thường nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ cả nước phải "quan
tâm, chăm sóc cuộc sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn
giáo. Mong sao sản xuất ngày càng phát triển, phần xác ta được ấm no
thì phần hồn cũng được yên vui". Bác coi tôn giáo là một yếu tố cấu
thành và là di sản văn hóa của nhân loại. Có được sự nhìn nhận ấy phải
là con người đã trải qua một quá trình trải nghiệm trong thực tiễn cách
mạng và sự am hiểu các tôn giáo một cách tường tận, để khái quát, chắt
lọc những giá trị tinh túy của nó nhằm tiếp thu, kế thừa.




Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn giáo với dân
tộc một cách giản dị, dễ hiểu nhưng rất độc đáo và sâu sắc: kính Chúa
gắn liền với yêu nước, phụng sự Thiên chúa và phụng sự Tổ quốc, nước
có vinh thì đạo mới sáng, nước có độc lập thì tín ngưỡng mới được tự
do.



Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với người có tơn giáo
thì đức tin tơn giáo và lịng u nước khơng hề mâu thuẫn. Một người
dân Việt Nam có thể vừa là một người dân yêu nước, đồng thời cũng
vẫn là một tín đồ chân chính.



Tơn giáo với dân tộc bao giờ cũng được Hồ Chí Minh xem xét và giải
quyết trên tinh thần của khối đại đoàn kết toàn dân. Tơn giáo chỉ có thể
khẳng định được mình khi sống giữa lòng dân tộc và dân tộc trên con
đường phát triển cần biết phát huy những giá trị tích cực của các tơn
giáo.



Hồ Chí Minh ln tỏ lịng kính trọng, ngưỡng mộ các danh nhân của thế
giới, không phân biệt họ thuộc tôn giáo nào, vô thần hay hữu thần, là
người phương Đông hay người phương Tây. Người đã chắt lọc, rút ra













×