Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

GIẢI PHÁP ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH xã hội và PHÚC lợi xã hội ở nước TA TRONG điểu KIỆN mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.13 KB, 24 trang )

GIẢI PHÁP ĐỊNH HƯỚNG HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH AN
SINH XÃ HỘI VÀ PHÚC LỢI XÃ HỘI Ở NƯỚC TA TRONG ĐIỂU KIỆN
MỚI
MỞ ĐẦU
Bảo đảm an sinh xã hội cho người dân là chủ trương nhất quán và xuyên
suốt của Đảng trong lãnh đạo đất nước. Tăng cường và đảm bảo an sinh xã hội
là giải pháp cơ bản để giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống của nhân dân và
góp phần ổn định chính trị xã hội. Mặc dù có nhiều biến động về kinh tế trong
nước và quốc tế, thiên tai, dịch bệnh liên tiếp diễn ra trên diện rộng, nguồn lực
của đất nước còn hạn hẹp, nhưng Đảng và Nhà nước luôn coi trọng công tác an
sinh xã hội, đặt nhiệm vụ phát triển xã hội ngang tầm và gắn kết chặt chẽ với
phát triển kinh tế trong mỗi chính sách, mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau hơn 30 năm đổi mới đất nước, Việt Nam
đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh việc thực hiện chính sách an
sinh xã hội cho người dân. Những thành tựu đạt được trên tất cả các trụ cột cơ
bản của an sinh xã hội (xóa đói, giảm nghèo; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế;
giải quyết việc làm; chính sách người có cơng;…) đã góp phần thực hiện thắng
lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

1


NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng hệ thống an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội ở Việt Nam
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Từ những luận điểm của C.Mác, chúng ta thấy có thể rút ra một số nhận
thức có liên quan đến vấn đề mà ngày nay xã hội học hiện đại quy vào ba chức
năng của hệ thống chính sách an sinh xã hội trong các quốc gia phát triển và
đang phát triển trên thế giới, đó là: phịng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc
phục rủi ro.


Thứ nhất, việc chủ động “phòng ngừa rủi ro” cho tuyệt dại đa số người
dân trong xã hội nhất thiết phải được đặt trong mối quan hệ tương tác với quá
trình tái sản xuất giản đơn và tái sẩn xuất mở rộng của nền kinh tế quốc dân ỏ
mỗi nước.
Quan điểm này của C.Mác được thể hiện ở nội dung trong tổng sản phẩm
xã hội hằng năm, trưốc hết phải dành ra một phần để “thay thế những tư liệu sản
xuất đã tiêu dùng” nhằm duy trì tái sản xuất giản đơn và một phần phụ thêm để
“mở rộng sản xuất”, tức thực hiện tái sản xuất mỏ rộng. Bởi chỉ có như vậy thì
mỗi quốc gia mới có khả năng đáp ứng khơng chỉ nhu cầu việc làm và thu nhập
vốn đã đạt được từ năm trước, mà còn cả nhu cầu việc làm và thu nhập không
ngừng tăng thêm trong các năm sau của tất cả những ngưòi lao động trong xã
hội.
Thứ hai, việc “giảm thiểu rủi ro” cho những đối tượng có liên quan cần
được xem xét kỹ và giải quyết chu đáo về cả hai phương diện xã hội và tự nhiên,
không thể coi nhẹ một phương diện nào.
C. Mác đã khẳng định: Trong tổng sản phẩm xã hội còn phải trích ra một
khoản để lập “một quỹ dự trữ hay quỹ bảo hiểm” để hỗ trợ cho những ngưòi gặp
tai nạn trong cuộc sơìng như ốm đau, tai nạn lao động, ..., hoặc gặp những rủi ro
do thiên tai gây ra.
Vì vậy, khi có những biến động của các hiện tượng tự nhiên (như bão

2


giơng, lũ lụt...) thì mọi người dân ở những vùng gặp thiên tai đều cần được Nhà
nước hỗ trợ để bù đắp vào những thiệt hại và nhanh chóng khơi phục lại sản xuất
và đời sống bình thường của mình.
Thứ ba, ngồi việc lập ra các quỹ để phịng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro
như trên vừa nêu, từ tổng sản phẩm xã hội còn phải lập ra một quỹ cần thiết để
nuôi dưỡng mà thực chất là để “khắc phục rủi ro” cho những người khơng có

khả năng lao động.
Với việc lập ra quỹ này, Nhà nước thể hiện rõ sự quan tâm, giúp đỡ tất cả
những người già cô đơn, những người tàn tật... làm cho cộng đồng xã hội sẽ
khơng có ngưịi nào bị bỏ rơi và lâm vào cảnh đói rét cùng cực.
Thứ tư, nhìn trên tổng thể, thì việc bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội địi hỏi phải có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền
vững, cũng như có một nền vản hóa thấm nhuần sâu sắc tinh thẩn nhân văn, dân
chủ, tiến bộ.
Không thể có an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đầy đủ trên cơ sở một nền
kinh tế thiếu hụt, chỉ đủ cung cấp cho nhân dân một cuộc sông “giật gấu vá vai”,
“khéo ăn mới no, khéo co mới ấm”. Cũng khơng thể có một nền kinh tế tăng
trưỏng nhanh, hiệu quả cao và bền vững trong một xã hội với đa số nhân dân có
trình độ dân trí thấp, ốm yếu về thể chất, suy thoái về đạo đức và một bộ phận
đáng kể ngưòi lao động lâm vào cảnh thất nghiệp, nghèo đói, bị đẩy ra ngồi lề
xã hội. C.Mác đã chỉ rõ trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gơta: Quyền của
người dân có được an sinh xã hội và phúc lợi xã hội “không bao giờ có thể ở
một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ
kinh tế đó quyết định”1.
Dĩ nhiên, do hạn chế của điều kiện lịch sử, chưa thể dự báo được đầy đủ
về sự phát triển hết sức phong phú và đa dạng của hệ thống chính sách an sinh
xã hội và phúc lợi xã hội như ngày nay ở nhiều nước - nhất là những nước theo
trào lưu dân chủ - xã hội ỏ Bắc Âu. Ngoài ra, do quan niệm của cả C.Mác và
1.C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.36.
3


Ph.Ăngghen thời bấy giờ còn nghiêng về việc xây dựng mơ hình chủ nghĩa xã
hội nhà nước, nên các ơng đã nêu lên ý tưỏng “phải biến việc bảo hiểm cho cơng
nhân hồn tồn thành việc của nhà nước” 2 mà chưa thấy sự cần thiết phải xã hội
hóa các nguồn tài chính của quỹ bảo hiểm xã hội.

Mặc dù vậy, nhiều quan điểm cơ bản của các nhà sáng lập chủ nghĩa MácLênin vẫn giữ nguyên giá trị thời sự để chúng ta tham khảo và vận dụng sáng
tạo trong q trình xây dựng và từng bước hồn thiện hệ thống chính sách an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội ỏ nước ta hiện nay.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đầu năm 1930, trong Chính cương vắn tắt tại Hội nghị hợp nhất các tổ
chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, sau khi nêu rõ chủ trương “làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” 3,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt các chính sách “về phương diện xã hội” lên hàng
đầu, rồi mới đến các chính sách “về phương diện chính trị” và “về phương diện
kinh tế’. Tư tưởng Hồ Chí Minh hướng tới một xã hội giàu mạnh và đồng thuận.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là dân thốt nạn bần cùng,
mọi người có cơng ăn, việc làm; đời sống vật chất, tinh thần và văn hóa của
nhân dân được nâng cao, người làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng
làm khơng được hưởng, tất nhiên trừ những người già cả, ốm đau, trẻ em...
Trong Di chúc, Ngưòi rất quan tâm đến cơng việc đơì với con người, làm
cho dân có ăn, có mặc, có nghề để dần dần tự lực cánh sinh. Muôn vậy, phải mở
mang kinh tế, phát triển y tế, sửa đổi chế độ giáo dục cho thích hợp với hồn
cảnh của nhân dân.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng (năm 1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về những khuyết điểm,
sai lầm, đồng thịi đề ra đường lơì đổi mới tồn diện đất nước. Trong đó có
2. C.Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Sđd, 1995, t.22, tr.350.
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sdd, t.3, tr.l.
4


những chủ trương, quan điểm mang tính đột phá nhằm dần dần ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội, nhờ vậy mà từng bước thực hiện tốt hơn an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội cho nhiều đối tượng cần thiết.

Những chủ trương, quan điểm cơ bản đó là:
Chuyển nền kinh tế từ mơ hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần để giải phóng và phát triển lực
lượng sản xuất, đẩy nhanh nhịp độ tăng trưỏng kinh tế, cải thiện đời sống nhân
dân. Nêu cao vai trị của chính sách xã hội trong việc phát huy nhân tố con
người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động.
Thơng nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem trình độ phát
triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những
mục tiêu xã hội lại là cái đích hướng tới của hoạt động kinh tế.
Bảo đảm việc làm cho người lao động là nhiệm vụ kinh tế - xã hội hàng
đầu. Nhà nước cố gắng tạo thêm việc làm và có chính sách để ngưòi lao động
tạo ra việc làm bằng cách khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, khai thác mọi
tiềm năng của các thành phần kinh tế khác.
Chăm lo đáp ứng nhu cầu giáo dục của các tầng lớp dân cư, đồng thời,
từng bước nâng cao chất lượng các hoạt động y tế và đạt được tiến bộ trong việc
chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Trong giai đoạn 2011-2015, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI của Đảng đã
ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1-6-2012 về một ố vấn đề về chính
sách xã hội giai đoạn 2012-2020, trong đó tập trung nêu rõ hệ thống an sinh xã
hội và phúc lợi xã hội như sau:
Cải thiện, nâng cao đòi sống tinh thần và vật chất của ngưịi có cơng. Hệ
thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã
hội và người dân.
Chính sách xã hội phải đặt ngang tầm với chính sách kinh tế. Xây dựng hệ
thống an sinh xã hội nhiều tầng nấc, chủ yếu là ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội,
trợ giúp xã hội, cứu trợ xã hội.

5



Phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro cho các đốĩ tượng chính sách.
Gắn an sinh xã hội với mục tiêu, động lực để phát triển bền vững, ổn định
chính trị - xã hội.
2. Thực trạng hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ở Việt Nam
hiện nay
Trong điều kiện nước ta cịn nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, Nhà nước
đã có những cố gắng lớn trong việc giải quyết những vấn đề an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội. Cụ thể:
Tạo việc làm, tạo thu nhập và tham gia thị trường lao động
Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách tín dụng ưu đãi cho các đối
tượng chủ yếu sau: người nghèo thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số; người
lao động mất việc làm do tác động của khủng hoảng kinh tế; người nơng dân có
đất chuyển đổi mục đích sử dụng; học sinh, sinh viên có hồn cảnh khó khăn;
thương nhân hoạt động thương mại ở những vùng kinh tế khó khăn.
Mục tiêu của các chính sách tín dụng ưu đãi rất đa dạng, nhưng tập trung
chủ yếu vào phát triển sản xuất, xuất khẩu lao động, tín dụng học tập, chuyển
đổi việc làm.
Tuy nhiên, theo kết quả điều tra của Đề tài Nghiên cứu các vấn đề xã hội
thuộc Chương trình lý luận chính trị giai đoạn 2011- 2015, việc thực hiện các
chính sách này cịn bất cập. Nhìn chung, tỷ lệ người dân chưa hiểu rõ về các
chính sách hỗ trợ học nghề cịn cao. Trong các chính sách hỗ trợ việc làm thì tỷ
lệ được biết đến cao nhất thuộc về dịch vụ hỗ trợ việc làm và chính sách hỗ trợ
việc làm cho lao động nữ. Tỷ lệ người biết đến chính sách chuyển đổi nghề
nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp tương đối lớn.
Khi được hỏi về vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương
trong việc hỗ trợ thực hiện các chính sách học nghề, có nhiều đánh giá khác
nhau. Nhìn chung, ngưòi dân đánh giá cao vai trò của các đồn thế ỏ địa
phương, trong đó Hội Phụ nữ được đánh giá cao nhất.
Sự dịch chuyển rõ rệt giữa các loại hình cơng việc trước và sau 5 năm tính


6


từ thời điểm điều tra, khảo sát là loại hình tự kinh doanh sản xuất, sau đó là loại
hình làm việc tại cắc cơ quan, công ty nhà nước. Điều này cho thấy, các thành
phần kinh tế đang nỗ lực giải quyết việc làm và mở rộng việc làm cho nguồn
nhân lực dồi dào của đất nước. Sự chuyển dịch tại thòi điểm trước đây 5 năm và
hiện nay ở các thành phần kinh tế khác chiếm tỷ trọng thấp. Nhìn chung, cơ cấu
việc làm và chuyển đổi khu vực làm việc đã có nhiều thay đổi, phản ánh xu
hướng phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường lao động nói riêng ở
nước ta hiện nay.
Bảo hiểm thất nghiệp
Số người đăng ký thất nghiệp năm 2012 lên tới 482.128 người.
Nhà nước đã tiến hành nhiều biện pháp để giúp họ tiếp cận thị trường lao
động như hỗ trợ học nghề, tư vấn việc làm, trợ cấp thất nghiệp. Sô" thu bảo
hiểm thất nghiệp năm 2012 là 7.973,86 tỷ đồng và đã chi trợ cấp bảo hiểm thất
nghiệp là 609,331 tỷ đồng. Những vấn đề cần đặt ra cho những năm tối là:
Ngưịi nơng dân có đất chuyển đổi mục đích sử dụng rất khó kiếm việc làm mới,
nhiều ngưòi lâm vào cảnh thất nghiệp, túng thiếu; những lao động khu vực phi
chính thức có mức thu nhập rất bấp bênh; số lao động nông thôn bị thất nghiệp
tăng khá nhanh; số lao động di cư rất khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ
xã hội cơ bản tại nơi ở mới.
Bảo hiểm xã hội
Cho đến nay, tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội chỉ đạt 20% trên tổng
sơ' lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội thấp, nhưng mức chi cao, do đó gây nên
nguy cơ mất cân đối quỹ bảo hiểm xã hội. Sơ" người tham gia bảo hiểm xã hội
tự nguyện cịn q ít, đặc biệt là nơng dân. Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế,
chủ yếu là người lao động làm việc trong khu vực chính thức, ngưịi cao tuổi
hưởng lương hưu, trẻ em dưới 6 tuổi, học sinh và sinh viên, ngưịi có cơng.
Ngưịi dân ở nơng thơn thường ít hoặc không tham gia bảo hiểm y tế. Mạng lưới

cung cấp dịch vụ y tế còn thiếu. Việc chăm sóc sức khỏe ban đầu chưa tốt. Cơng
tác y tê cộng đồng còn nhiều yếu kém. Việc bao phủ bảo hiểm y tê toàn dân

7


đang là một thách thức lớn.
Tiến hành nghiên cứu về bảo hiểm xã hội tại 4 địa bàn: Hà Nội, Nghệ An,
Khánh Hịa, Đắk Lắk trên ba vấn đề chính: thứ nhất, đánh giá của ngưòi lao
động (tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc) về các chế độ, chính sách bảo hiểm xã
hội bắt buộc; thứ hai, đánh giá của người lao động (tham gia bảo hiểm xã hội tự
nguyện) về các chính sách, chế độ của bảo hiểm xã hội tự nguyện; thứ ba, nhận
thức chung về sự cần thiết của bảo hiểm xã hội và xây dựng các giải pháp để
tăng cưòng sự tham gia của người lao động trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, kết
quả như sau:
Đánh giá của người lao động về chế độ, chính sách của bảo hiểm xã hội
bắt buộc: Đơi tượng áp dụng của bảo hiểm xã hội bắt buộc gồm ngưịi lao động
là cơng dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trỏ lên và
những cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang, về thủ tục
tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hiện nay, phần lớn người lao động với 64,7%
cho rằng, thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là bình thường, khơng gây
phức tạp cho người lao động, thậm chí 24,7% đánh giá thủ tục đơn giản; chỉ có
2,8% cho rằng, thủ tục cịn phức tạp. Điều này phần nào chứng minh các thủ tục
hành chính của bảo hiểm xã hội khơng cịn rưịm rà, phức tạp và cũng không quá
sơ sài, bảo đảm được những giấy tờ cần thiết cho cơ quan quản lý cũng như cho
người lao động. Xét về sự hài lòng của người tham gia về từng chế độ khơng
thấy có sự khác biệt lớn. Đa số ngưòi lao động đều hài lòng với các chế độ mà
bản thân họ được hưởng.
Đánh giá của người lao động về chê độ bảo hiểm xã hội tự nguyện: bảo
hiểm xã hội tự nguyện là một chính sách mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đối

tượng tham gia thường là ngưịi nơng dân, người lao động tự do... Họ thưịng có
thu nhập thấp, khơng ổn định. Khi tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, họ sẽ
được hưởng lương hưu, góp phần bảo đảm cuộc sông khi về già. Tuy nhiên, sau
năm triển khai, số lượng người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện tại các địa
bàn nghiên cứu vẫn chiếm tỷ lệ rất thấp. Trong quá trình nhận chi trả bảo hiểm

8


xã hội tự nguyện, người lao động không gặp phải khó khăn nào đáng kể. Đa số
họ đều đánh giá cao sự hợp lý về thời gian giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội tự
nguyện.
Nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động: nhiều người lao
động cồn thị ơ, ít có nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội. Có tới 324 người trong
độ tuổi lao động được hỏi khơng tham gia đóng bảo hiểm xã hội, chiếm 46,3%
trên tổng số người trả lời. Tìm hiểu về dự định tham gia bảo hiểm xã hội tự
nguyện của ngưòi lao động, trong tổng số 324 ngưòi lao động được hỏi chưa
tham gia đóng bảo hiểm xã hội, chỉ có 16% số người trả lịi dự định tham gia
bảo hiểm xã hội trong thịi gian tói, 40,5% người do dự chưa quyết định và tỷ lệ
cao nhất với 43,5% là khơng tham gia.
Tóm lại, tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự
nguyện còn thấp, mới chỉ chiếm 20% lực lượng lao động.
Theo đánh giá của một số chuyên gia, trong tương lai đất nưc- phải đối
mặt với hàng triệu lao động bưốc vào tuổi về hưu mà khơng có lương hưu. Gánh
nặng này sẽ thuộc về Nhà nước phải trợ cấp cho hàng triệu ngưịi khi cuộc sơng
của họ gặp khó khăn. Trước nguy cơ này, việc mỏ rộng đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội phải được xem là ưu tiên hàng đầu của chính sách bảo hiểm xã hội
nước ta, nhằm thiết lập một hệ thống an sinh xã hội bền vững và phát triển,
trong đó phải bảo đảm quyền được tham gia và quyền được thụ hưỏng về bảo
hiểm xã hội của mọi người lao động trong xã hội. Đồng thòi, cần cải cách chê độ

bảo hiểm xã hội cho phù hợp với thực tiễn và cải cách thủ tục hành chính để đáp
ứng nhu cầu của đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội; cần có chế tài xử phạt
nghiêm minh các trường hợp vi phạm Luật bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm y tế
Theo kết quả Báo cáo của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam tính đến ngày 31-52015, số đối tượng tham gia bảo hiểm y tế trong cả nưóc là 64,6 triệu người,
tăng 2,7 triệu ngưòi so với tháng 5-2014, tương đương bao phủ 71,4% dân số.
Theo sô' liệu khảo sát của Đề tài Nghiên cứu các vấn đề xã hội thuộc Chương

9


trình lý luận chính trị giai đoạn 2011-2015 thì, tình hình triển khai chính sách về
bảo hiểm y tế có những điểm đáng lưu ý sau:
Thói quen khám, chữa bệnh của người dân: Thói quen của người dân đối
vối việc khám, chữa bệnh được phản ánh qua nhiều khía cạnh. Đầu tiên là việc
ngưồi dân có sự lựa chọn nơi khám, chữa bệnh khi bản thân họ hoặc gia đình có
ngưịi ốm đau, bệnh tật. Theo số liệu thống kê chung ỏ 4 địa bàn khảo sát cho
thấy, đa phần ngưòi dân lựa chọn bệnh viện tuyến tỉnh là nơi khám chữa khi bị
bệnh (48,3%). Tùy theo từng địa bàn, người dân lại có những lựa chọn ưu tiên
khác nhau.
Thực trạng sử dụng thẻ bảo hiểm y tế: Tỷ lệ người dân tham gia mua thẻ
bảo hiểm y tế tính chung trên tất cả địa bàn khảo sát chiếm tới 64,3%; nhưng
con số này lại có sự chênh lệch rõ rệt giữa các địa bàn khảo sát.
Đánh giá của người dân về chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh bằng thẻ
bảo hiểm y tế
Nhận thức được giá trị và tầm quan trọng cũng như những lợi ích mà bảo
hiểm y tế mang lại, người dân đã tham gia và sử dụng thẻ bảo hiểm y tế để phục
vụ cho việc khám, chữa bệnh của bản thân và gia đình. Nhìn chung, những đánh
giá từ phía ngưịi sử dụng dịch vụ bảo hiểm xã hội mang tính tích cực. Trong đó
được đánh giá cao nhất là trình độ tay nghề của bác sĩ với tỷ lệ 84,3%; tiếp đến

là thái độ phục vụ của cán bộ y tế với 75,2%; số lượng thuốc được cấp theo thẻ
bảo hiểm y tế vói 60,4%, chất lượng thuốc được cấp với 58,9% và chất lượng
dịch vụ kỹ thuật khám, chữa bệnh theo thẻ bảo hiểm y tế với 56,9%. Tuy nhiên,
vẫn có một tỷ lệ nhất định ngưồi được khảo sát chưa hài lòng với dịch vụ khám,
chữa bệnh được cung cấp bởi thẻ bảo hiểm y tế, như: thái độ của một sô" cán bộ
y tế đôl với người sử dụng thẻ bảo hiểm y tế chưa thực sự ân cần, chu đáo và
nhiệt tình... Vì vậy, người dân tìm đến những dịch vụ ngồi bảo hiểm y tế, chấp
nhận chi phí đắt hơn nhưng được hưỏng dịch vụ chất lượng tốt.
Đánh giá của người dân về chất lượng các cơ sở y tế hiện nay
Các cơ sở y tế của nước ta hiện nay phát triển mạnh về số lượng và đã

10


được cải thiện nhiều về chất lượng so với trước. Khi đánh giá về chất lượng
khám, chữa bệnh ở các tuyến, bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh được
đánh giá ở mức tốt chiếm tỷ lệ cao nhất (bệnh viện trung ương: 43,4%; bệnh
viện tỉnh: 50,3%); các bệnh viện tuyến dưối thưịng chỉ được đánh giá ỏ mức
bình thường. Song, số ngưòi đánh giá thấp chất lượng khám, chữa bệnh ở bệnh
viện các tuyến là khơng nhiều. Điều đó cho thấy những dấu hiệu đáng mừng
trong việc cải thiện chất lượng khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tê của nước ta
hiện nay. Tuy vậy, nếu chỉ nâng cao chất lượng cơ sở vật chất và khám, chữa
bệnh thì chưa đủ. Vấn đề cịn là tăng cường khả năng tiếp cận của người dân đối
với các cơ sở y tế. Có như vậy dịch vụ y tê mới phát huy hiệu quả cần thiết.
Trợ giúp xã hội
Việc trợ giúp xã hội trong nhiều năm qua đã tiến hành với nhiều đối tượng
như người thất nghiệp, ngưồi cô đơn, trẻ vơ gia cư, ngưồi tàn tật, ngưịi cao tuổi,
ngưịi có cơng với cách mạng... Tuy nhiên, đối tượng được hưởng trợ giúp
thường xuyên chỉ chiếm 2% dân số vối mức trợ giúp quá thấp, chỉ bằng 45% so
với chuẩn nghèo.

Chính phủ đã chỉ đạo tốt việc trợ giúp khi có rủi ro bất thường. Ví dụ: do
lạm phát cao, Chính phủ đã trợ cấp khó khăn cho hơn triệu cán bộ, nhân viên,
ngưịi về hưu, người có cơng. Tuy nhiên, mức trợ cấp mới chỉ bù đắp được
khoảng 10% thiệt hại của đối tượng chính sách.
Chính phủ cũng đã rất thành công trong việc giúp một sô' bộ phận dân cư
thốt nghèo, nhưng tình trạng giảm nghèo chưa thật bền vững: cịn khá nhiều xã
vẫn thiếu nưóc sạch, nhà trẻ và trường mẫu giáo; nhiều địa phương còn thiếu
những dịch vụ xã hội cơ bản; nguồn tài chính cho trợ giúp xã hội còn eo hẹp;
các doanh nghiệp, các cộng đồng đóng góp chưa nhiều về tài chính cho an sinh
xã hội; đội ngũ làm công tác xã hội cịn thiếu và tính chun nghiệp chưa cao;
lãnh đạo tại nhiều địa phương chưa có nhận thức đầy đủ về vai trò của việc học
tập, nâng cao tay nghề thường xuyên và chưa xác định được đây là yếu tố cơ bản
để thoát nghèo.

11


Đánh giá chung của người dân về tình hình thực hiện chính sách an sinh
và phúc lợi xã hội
Tiến hành điều tra ý kiến ngưòi dân qua các phương diện chính của chính
sách an sinh và phúc lợi xã hội, có những vấn đề cần lưu ý sau:
Mức hỗ trợ từ các nguồn đều quá thấp, không đáp ứng được nhu cầu của
người dân, ví dụ như về hỗ trợ dịp lễ, tết: 69,4% người dân nhận được gói hỗ trợ
dưới 1.000.000 đồng; trong đó, 4,8% nhận mức 100.000 đồng, 26,2% nhận mức
300.000 đồng.
Người nghèo rất chờ đợi những khoản hỗ trợ khác từ phía Nhà nước và
cộng đồng nhưng yêu cầu này ít được đáp ứng, như: hỗ trợ học nghề (chỉ 1,2%
sơ" học sinh ngưịi dân tộc thiểu sơ" được hỗ trợ), hỗ trợ tín dụng để phát triển
sản xuất (19,7% được đáp ứng), hỗ trợ di cư lao động (1,9% được đáp ứng),...
Sự hài lòng của người dân về việc làm chưa cao, chỉ có 46,7% ngưịi dân

tạm hài lòng với mức thu nhập do việc làm hiện tại mang lại, 70% ngưịi lao
động khơng thấy triển vọng thăng tiến trong công việc, 47,3% không biết chế độ
phúc lợi mà mình được hưởng là gì,...
Trong sơ" những ngưòi tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được hỏi, chỉ
có 7,8% đánh giá tốt về chế độ bồi thường tai nạn lao động nghề nghiệp, 6,7%
hài lòng về chế độ trợ cấp nghề nghiệp. Nhiều người đề nghị điều chỉnh lại chế
độ bảo hiểm xã hội tự nguyện bởi họ chỉ được hưởng chế độ hưu trí và tử tuất,
khơng có các chế độ thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Khá đông
người dân không mặn mà với việc dùng thẻ bảo hiểm y tế vì dùng thẻ bảo hiểm
y tế đi khám bệnh sẽ mất nhiều thì giị, chất lượng khám, chữa bệnh chưa tốt.
Nhìn chung có ba vấn đề lớn cần được xem xét, tìm giải pháp tháo gỡ là:
(1) Việc làm, học nghề, hỗ trợ sản xuất, di cư lao động,... (2) Các chế độ trợ cấp
còn quá thấp, (3) Vấn đề bảo hiểm y tế.
Những nhân tố ảnh hưởng tới an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong thực
tiễn hiện nay
Dân số

12


ở Việt Nam, dân số tiếp tục tăng, chưa đến giai đoạn ổn định. Với trên 90
triệu dân, lại là một nước có nền sản xuất với năng suất thấp, luôn gặp thiên tai,
hầu như năm nào Việt Nam cũng phải đối mặt với những khó khăn trong đồi
sống của người dân. Sức ép về yêu cầu an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và an toàn
xã hội của trên 90 triệu con người là hết sức nặng nề đối với nền kinh tế nước ta,
một nền kinh tê có sức cạnh tranh thấp, một nền giáo dục quy hoạch chưa khoa
học, chạy theo sô" lượng đào tạo một cách ồ ạt mà không gắn với thị trường lao
động, một bộ máy quản lý còn cồng kềnh. Việc thị trường hóa quá mức về các
dịch vụ xã hội như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế, dịch vụ việc làm, dịch vụ pháp
lý... đã làm tăng những khoản chi phí cơng khai và chi phí ngầm của ngưịi dân.

Trong tình trạng dân số' vẫn tiếp tục tăng lên, các dịch vụ xã hội có nhiều
vấn đề phải giải quyết mà ngân sách nhà nước lại eo hẹp, thì mọi sự trợ giúp xã
hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội từ ngân sách nhà nưốc chỉ là những chi phí nhỏ
giọt, khơng thể tạo ra những thay đổi căn bản và tồn diện địi sơng tinh thần và
vật chất cho ngưòi dân.
Giáo dục
Sự lạm dụng quá mức cơ chế thị trường trong giáo dục, chạy theo lợi
nhuận đã làm rốì loạn việc tổ chức hệ thơng giáo dục và làm giảm nhanh chóng
chất lượng đào tạo, nhất là khu vực đào tạo đại học và sau đại học. Trong khi đó,
giáo dục ngưịi lớn và việc học tập suốt đòi của người dân chưa được coi trọng,
khiến cho trình độ dân trí của tồn dân, nhất là nơng dân và cơng nhân cịn chưa
đáp ứng được u cầu, dẫn đến năng suất lao động thấp và sức cạnh tranh của
nền kinh tế thấp.
Có thể nói rằng, bên cạnh những kết quả của ngành giáo dục, phải thấy
những tác động tiêu cực do những lệch lạc của sự phát triển giáo dục đến an sinh
xã hội và trong nhiều trường hợp, người dân đã không được hưởng thụ giáo dục
như một phúc lợi xã hội cơ bản. Giáo dục cần được tổ chức lại theo hưống quán
triệt sâu sắc hơn nữa, nghiêm túc hơn nữa những nghị quyết của Đảng và những
quyết định của Nhà nước về đổi mối căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo

13


trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tê ngày càng sâu, rộng.
Khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ bao gồm khoa học xã hội, khoa học nhân văn,
khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học cơ bản, trong một vài thập kỷ
qua đã góp phần tạo nên chuyển biến tích cực trong các lĩnh vực như giao thông
vận tải, thông tin và truyền thông, y học và y tế, văn học - nghệ thuật,... Khoa

học và công nghệ cũng đã góp phần vào việc hoạch định nhiều chính sách, trong
đó bao gồm cả chính sách xã hội.
Việc hoạch định những chính sách để chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường là một đóng góp hết sức to lớn
để đòi sống kinh tế - xã hội nước ta thay đổi, năng động và phát triển ngày càng
bền vững hơn. Bộ mặt đô thị cũng như nông thôn đã khác trước rất xa, kể cả
những vùng mà trước đây gặp nhiều khó khăn.
Những chính sách về bình đẳng giới đã góp phần khơng nhỏ vào việc giải
phóng phụ nữ khỏi những quan điểm, tư tưởng mang đầy những thiên kiến,
những suy nghĩ bất cơng, bất bình đẳng với giới nữ. Đây là một tiến bộ lớn của
xã hội Việt Nam trên con đường phát triển.
Những chính sách xây dựng nơng thơn mới đã có những tác động thúc
đẩy sự phát triển nông nghiệp và nâng cao điều kiện sống của nông dân. Chĩ
riêng việc đưa điện sinh hoạt đến các bản của người dân tộc thiểu sô' như người
Mông, người Dao, người Cơho, người Gié Triêng... cũng là điều làm thay đổi
đời sống của họ.
Những chính sách xóa đói, giảm nghèo, bảo hiểm y tế, bảo hiểm hưu trí,
chăm sóc người cao tuổi, giúp đỡ và đào tạo nghề cho người khuyết tật, tiến
hành công việc trợ giúp mang tính chất nhân đạo và từ thiện với những ngưịi
thuộc nhóm yếu thế, v.v. đã có tác động khơng nhỏ vào việc ổn định đòi sống xã
hội trên các địa bàn dân cư trong cả nước.
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đơ thị hóa

14


Vấn đề then chốt nhất để thực hiện công nghiệp hóa là ứng dụng những
cơng nghệ mới, những kỹ thuật mới cho tất cả các lĩnh vực hoạt động của nền
kinh tế quốc dân. Do vậy, chuyển giao công nghệ là hoạt động rất cơ bản để phát
triển sản xuất. Việc tiếp nhận và sử dụng những công nghệ cao không chĩ mang

lại những thay đổi mạnh mẽ trong từng lĩnh vực, như: thay đổi phương pháp sản
xuất, thay đổi mẫu mã hàng hóa, thay đổi q trình quản lý sản xuất..., mà quan
trọng hơn là đưa dần lĩnh vực sản xuất sang kinh tế tri thức. Để trỏ thành một
nước cơng nghiệp, trong q trình cơng nghiệp hóa, việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế là một tất yếu theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm
dần tỷ trọng nơng nghiệp. Cơng nghiệp hóa cịn là quá trình kinh tế - xã hội.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động.
Trước hết, nền giáo dục phải phát triển để đáp ứng mục tiêu cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đồng thời công tác đào tạo nghề ngắn hạn và dài hạn ngày càng
tăng lên. Một đội ngũ lao động cho cơng nghiệp và dịch vụ được hình thành
ngay trên địa bàn nông thôn. Lốỉ sống công nghiệp dần dần được hình thành.
Trong những năm qua, trình độ sản xuất trong nông nghiệp đã được nâng
lên rõ rệt. Việc trang bị những kỹ thuật hiện đại và những công nghệ mới cho
các lĩnh vực sản xuất đã làm thay đổi hẳn bộ mặt kinh tế và văn hóa. Hoa quả,
lúa gạo, thực phẩm, thuốc men, hàng công nghiệp... ngày càng phong phú, giúp
cho ngưịi dân có nhiều khả năng lựa chọn hơn, nhờ đó, địi sống dễ chịu hơn.
Cơng tác thông tin, truyền thông, xuất bản, in ấn, dịch vụ văn hóa... được ứng
dụng nhiều kỹ thuật hiện đại. ở những vùng núi cao, vùng khó khăn về địa lý và
kinh tế cũng đã có đường giao thơng, ơ tơ, xe máy, điện thoại bàn và điện thoại
di động, tivi, tủ lạnh... (ngay một bộ phận ngưồi Cơho, Lô Lô, Mông... cũng đã
dùng điện thoại di động, dùng micro và hệ thống tăng âm trong sinh hoạt hằng
ngày, dùng đàn điện tử trong sinh hoạt văn hóa - văn nghệ...). Đây là một dấu
hiệu về văn hóa và văn minh do q trình hiện đại hóa mang lại. Hiện đại hóa đã
góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững, nhất là giảm nghèo về tri thức và
nghèo về nhân văn, làm thay đổi lối sống của các vùng dân cư và nâng cao trình

15


độ dân trí lên một tầm cao mà trước đây khơng lâu cịn là xa vời đối với người

dân.
Q trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế
Q trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế vừa là một cơ hội quan trọng để
phát triển nếu biết nắm bắt, nhưng đồng thòi cũng là một thách thức lớn đặt ra
cho đất nước.
Để hội nhập quốc tế một cách chủ động, phải nâng cao trình độ tri thức
của người dân, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phải đầu tư để nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Trưóc sự phát triển chưa đúng
nhịp với bước đi của kinh tế thế giối, chúng ta phải đổi mối mạnh mẽ hơn nữa,
căn bản hơn nữa, toàn diện hơn nữa các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước để
tránh tụt hậu với thế giới hiện đại.
3. Một số giải pháp định hướng hồn thiện chính sách an sinh xã hội
và phúc lợi xã hội ở Việt Nam hiện nay
Đổi mới tư duy về hoạch định chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân những tri thức hiện đại về quyền con người và nhân tố con người đối với sự
phát triển bền vững của xã hội.
Quốc hội cần được cung cấp đầy đủ những thông tin về thực trạng thực
hiện các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong từng địa phương, có
được những hiểu biết về những chính sách an sinh của các quốc gia mà nhờ đó
họ đã giải quyết được những vấn đề khó khăn về xã hội mà Việt Nam chưa tháo
gỡ được.
Những vấn đề bức xúc về đời sống của nhân dân phải được đặt lên bàn
nghị sự của cấp ủy đảng và chính quyền địa phương, từ đó có sự cam kết chính
trị của lãnh đạo đối với việc tháo gõ một cách tận tâm và sáng tạo những bất ổn
trong địi sơng nhân dân ở từng vùng, miền, từng địa bàn dân cư.
Các phương tiện thông tin đại chúng như: báo chí, phát thanh, truyền
hình... phải quyết liệt hơn nữa trong việc phân tích, phê phán những hành vi,

16



hành động vi phạm quyền con người, chỉ ra những bất cập của chính sách an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội hiện hành, đồng thòi cung cấp những kinh nghiệm
hay trong nưốc và của thế giới về cải thiện an sinh xã hội cho nhân dân.
Đưa những tri thức cơ bản về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội vào
chương trình đào tạo cán bộ, nhân viên công tác xã hội ỏ các trường đại học, cao
đẳng, chương trình chuyển giao tri thức mối của các trung tâm giáo dục thường
xuyên, trung tâm học tập cộng đồng.
Bảo đảm tính hiệu quả, hiệu lực của chính sách trợ giúp người nghèo,
người có hồn cảnh khó khăn để họ thốt khỏi tình trạng nghèo triền miên,
khơng có cơ hội phát triển
Nội dung về trợ giúp người nghèo trên các văn bản, chính sách là tốt đẹp,
có ý nghĩa nhân văn cao cả, nhưng qua điều tra xã hội học, sự trợ giúp bằng tiền
mặt hoặc bằng hiện vật chỉ mang tính động viên bởi định mức quả ít và nhỏ giọt,
khơng có tác dụng để người nghèo vượt qua khó khăn, kể cả những khó khăn
nhất thịi. Đa sơ" ngưịi nhận gói hỗ trợ cho rằng, hỗ trợ như vậy không giải
quyết được nhu cầu tối thiểu của họ.
Tình trạng có chính sách nhưng chính sách ít được thực thi là phổ biến. Ví
dụ, chỉ có 2,7% phụ nữ cần học nghề tiếp cận được với gói hỗ trợ học nghề;
2,4% thanh niên nông thôn được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn; 1,2% thanh
niên dân tộc thiểu số được hỗ trợ đào tạo nghề, ...
Người dân hy vọng vào hiệu quả của sự trợ giúp bởi cách trợ giúp này còn
xa mối tới ngưỡng họ mong đợi. Vì thế, họ trơng đợi nhiều hơn ở sự quan tâm
của Nhà nước tới những phúc lợi xã hội thiết thực như mở ra các trung tâm dạy
nghề tại địa phương để đào tạo nghề mới, chuyển đổi nghề cho ngưồi lao động;
phát triển hơn nữa những dịch vụ giới thiệu việc làm, hỗ trợ tín dụng sản xuất, ...
Xây dựng chương trình an tồn con người thơng qua hệ thống chính sách
an tồn xã hội
Bên cạnh hai trụ cột cơ bản là an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cần có trụ

cột thứ ba là an tồn xã hội trong tồn bộ hệ thống chính sách xã hội. An toàn xã

17


hội là một vấn đề chiến lược mà cốt lõi là an toàn con người (hay an ninh con
người - an ninh phi truyền thống) chứ không phải là vấn đề tình thê cấp bách
hiện nay.
Ba yêu cầu cơ bản của an toàn con người là: (1) Con người được sống yên
ổn để làm ăn thuận lợi, học hành tiến bộ, đời sống được cải thiện; (2) Con người
không bị chà đạp như bị bóc lột, bạo lực, trấn áp, đe dọa từ ngưòi khác, từ các
cơ quan quyền lực; (3) Con ngưồi thoát nghèo về tri thức, về điều kiện sống và
về thu nhập.
Nhà nước có hành lang pháp lý để bảo vệ có hiệu quả nhũng giá trị con
ngưòi, về quyền sống của từng con người.
Ở cấp độ vi mô (cơ sở) cần đẩy mạnh các hoạt động tài chính để thực hiện
an sinh xã hội trong các cộng đổng khó khăn, thực hiện bảo hiểm và nâng cao
năng lực tự an sinh
Tài chính vi mơ là một giải pháp phù hợp với việc đẩy mạnh công tác an
sinh xã hội tại các vùng nghèo, vùng dân tộc thiểu số.
Việc hủy bỏ chương trình tài chính vi mơ là một sai lầm của cơ quan quản
lý, vì vậy, cẩn có sự khẳng định lại vai trị của nó và phục hồi các hình thức tài
chính vi mơ trong thời gian tới.
Việc mở rộng tài chính vi mơ cần dựa vào các tổ chức tài chính vi mơ bán
chính thức do các tổ chức phi chính phủ (NGO,) hợp pháp phụ trách. Cũng
không nên chỉ đế các tổ chức chính trị - xã hội tham gia vào việc này, mà nên để
nhiều tổ chức xã hội hợp pháp vào cuộc. Những tổ chức phi chính phủ này thơng
qua một cơ cấu tổ chức với các chính sách và thủ tục tín dụng cụ thể, có hệ
thống giám sát và thủ tục quyết toán dựa trên các chuẩn mực quốc tế sẽ có tác
dụng tốt. Thực tế cho thấy, hoạt động dịch vụ tài chính vi mơ của NGOs hợp

pháp có khi cịn chặt chẽ về thủ tục và các chuẩn mực đối với khách hàng hơn cả
các ngân hàng thương mại.
Trong điều kiện Nhà nước chỉ có thể bảo đảm những yêu cầu tối thiểu về
an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, thì khơng thể nào có tốc độ xóa đói, giảm

18


nghèo, cải thiện địi sống nhanh được, do đó cần phải quan tâm đến những dịch
vụ tài chính vi mơ và những dịch vụ tín dụng nhỏ với yêu cầu tự an sinh, tự bảo
hiểm, tự nâng cao năng lực chống các rủi ro của người nghèo.
Việc triển khai ý tưởng về tài chính vi mơ ở nước ta bước đầu hình thành
với ba mơ hình có tác dụng tốt: mơ hình chun cung cấp dịch vụ tiết kiệm; mơ
hình tín dụng - tiết kiệm gán với các hoạt động khác như giáo dục, y tế, cung cấp
nước sạch, môi trường; mơ hình liên kết giữa các tổ chức xã hội với ngân hàng,
dịch vụ tài chính khơng có thê chấp tài sản, thay vào đó là sự bảo lãnh của
nhóm.
Phát triển cơng tác xả hội để triển khai các chính sách an sinh xã hội,
phúc lợi xã hội, an toàn xã hội tới từng địa bàn dân cư
Ngày 25-3-2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
32/2010/QĐ-TTg phê duyệt Đê án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn
2010-2020. Cơng tác xã hội có chức năng: tạo ra sự liên kết giữa ngưịi thụ
hưởng chính sách xã hội với hệ thống cung ứng dịch vụ xã hội; tạo cơ hội để đối
tượng của chính sách xã hội tiếp cận vối các nguồn lực; góp phần đổi mới chính
sách xã hội theo hướng bảo đảm cơng bằng xã hội và bình đẳng xã hội trong thụ
hưởng các nguồn lực và dịch vụ xã hội.
Vì vậy, nội dung công tác xã hội chủ yếu là an sinh xã hội, phúc lợi xã hội
và an toàn xã hội. Phát triển công tác xã hội phải cân đối cả về sô" lượng nhân
lực công tác xã hội và chất lượng đào tạo nhân lực trong các cơ sở giáo dục có
chun khoa cơng tác xã hội. Đảng phải có quyết sách đủ mạnh thì trong giai

đoạn 2016- 2020 mới có tạm đủ cán bộ, nhân viên công tác xã hội trên địa bàn
xã, phường, thị trấn trong cả nước.
Tập trung nguồn lực cho phúc lợi xã hội để giảm nghèo đa chiều cho
người lao động, đưa nhanh những hộ gia đình nghèo đạt tới chuẩn cận nghèo và
trung lưu hóa đội ngũ lao động tri thức
Người nghèo ở Việt Nam có mức thu nhập và mức sống quá thấp, khoản
thu nhập có được khơng đủ ăn, chưa nói đến những khoản chi cho giáo dục, y tế,

19


văn hóa... Trong khi đó, phúc lợi xã hội thường được phân phốỉ để ngưịi có mức
sống trung bình và khá giả được hưỏng nhiều hơn so với ngươi nghèo. Ví dụ,
việc xây dựng các cơng trình văn hóa, tổ chức các dịch vụ về giáo dục, y tế...
chủ yếu là ở đô thị, nhất là các thành phô" lớn, dân nghèo ỏ nơng thơn khó có cơ
hội thụ hưỏng.
Một trong những nguyên nhân làm cho người nghèo ỏ nước ta khó thốt
khỏi tình trạng thiếu thốn, nghèo túng vì họ ít có cơ hội tiếp cận phúc lợi xã hội.
Những người khá giả có nhiều cơ hội trong học tập, chữa bệnh, tìm kiếm và thay
đổi việc làm, v.v. hơn nhiều so với người nghèo. Chính vì vậy mà mức độ phân
hóa giàu nghèo ngày càng trầm trọng hơn. Cho dù người nghèo có nhận được
tiền trợ cấp hằng tháng thì mức thu nhập của họ vẫn trong tình trạng ngày càng
thua xa so với ngưịi có cơ hội phát triển thông qua việc được thụ hưởng kết quả
của sự phát triển văn hóa, khoa học, giáo dục.
Ngồi nhũng quy định an sinh xã hội, phúc lợi xã hội của Nhà nước đôi
với người nghèo, cần phải phát triển các quỹ xã hội ỏ cấp cơ sỏ, phát triển các
hoạt động tài chính vi mơ cùng các hình thức bảo hiểm vi mơ, ủng hộ các
chương trình tài chính vi mơ của các tố chức chính trị - xã hội và các tổ chức phi
chính phủ, giúp cho người nghèo được tiếp cận hợp pháp các mạng tài chính vi
mô, cung cấp cho họ những sản phẩm của bảo hiểm vi mô nhằm bảo đảm an

sinh xã hội, V.V.. Người nghèo khơng thể q trơng chị vào những khoản đầu tư
tài chính ở cấp vĩ mơ được.
Cần phải triệt để chống tham nhũng trong việc thiết kế và thi cơng các dự
án, các đề án hướng tới ngưịi nghèo, như: đề án về xóa đói, giảm nghèo, dạy
nghề cho nông dân; đề án đưa công nghệ thông tin về nông thôn.
Tham nhũng đã tạo ra một tầng lớp giàu có, mà tầng lớp này khơng thể
đưa vào sự phân tầng xã hội hợp lý qua quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội. Đây là nhóm cần phải có pháp luật xử lý nghiêm minh.
Từ nay đến năm 2020, cần tập trung các quỹ phúc lợi xã hội cho các vùng
nghèo, hỗ trợ cho người nghèo về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, an toàn xã hội

20


để xóa tầng lớp nghèo, đưa tầng lớp này vào nhóm cận nghèo. Đồng thời xây
dựng một để án lương mới, một chương trình phúc lợi mới để trung lưu hóa đội
ngũ giáo viên, thầy thuốc, văn nghệ sĩ, cán bộ nghiên cứu khoa học.
Phát huy sức mạnh của các tổ chức xã hội trong công tác an sinh xã hội
Các tổ chức xã hội (đúng với nghĩa là các tổ chức phi chính phủ hợp pháp
khu vực thứ ba giữa Nhà nước và thị trưòng) là một lực lượng đơng đảo và có
nhiều năng lực giải quyết vấn đề an sinh xã hội. Nhà nưốc cần tạo điều kiện để
các tổ chức xã hội hợp pháp trở thành chỗ dựa tin cậy của Đảng và Nhà nước,
trao cho họ nhiệm vụ làm an sinh xã hội theo đúng chức năng ghi trong Điều lệ
của tổ chức đó, tránh tình trạng hỗ trợ “nhỏ giọt”; nên đổi mới tư duy cũng như
đổi mới cách hỗ trợ, đầu tư kinh phí theo cách hỗ trợ tỷ lệ thuận với kết quả
đóng góp của họ vào an sinh xã hội.
Phát triển những tổ chức của người dân ỏ cơ sở (xã, phưòng; thơn, xóm;
tổ dân phơ'...) - những tổ chức mà nhiều tài liệu gọi là tổ chức xã hội trong khu
vực thứ tư, giữa Nhà nước, thị trường và các tổ chức phi chính phủ để họ tự thực
hiện những lợi ích khép kín của nhóm. Đó là các tổ chức giúp nhau trong các

việc tang lễ, cưới xin, góp vốh dựng nhà, giúp nhau sản xuất nhằm xóa đói, giảm
nghèo, hỗ trợ tìm kiếm việc làm để có thêm thu nhập (hiện tại đã có một số các
phường, xã, xóm, làng có ban bảo thọ, những đội phụ trách mai táng, những
nhóm góp họ để tạo vốn làm ăn ...). Những tô chức này được thành lập càng
nhiều càng tốt, hồn tồn theo tinh thần tự dân giúp dân; có thể dùng thuật ngữ
“Tổ chức xã hội cơ sở’ để chỉ nhóm thuộc khu vực thứ tư này. Những tổ chức
này có phạm vi hoạt động rất hẹp, chỉ tại địa bàn cơ sỏ, không vượt quá giới hạn
địa lý của xã, phường.
Nghiên cứu thí điểm chuyển một phần cơng tác an sinh xã hội sang cho tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội làm kinh tế, tổ chức xã hội làm nhân
đạo, từ thiện và khuyên khích các doanh nghiệp tham gia vào các quỹ an sinh xã
hội, quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ phát triển sản xuất cùng nhiều dịch vụ an sinh xã
hội khác. Những tổ chức xã hội thuộc khu vực thứ ba này sẽ liên kết với những

21


tổ chức thuộc khu vực thứ hai (thị trường) trong việc phục vụ dân sinh, đồng
thịi có thể giúp các tổ chức xả hội thuộc khu vực thứ tư - tổ chức xã hội cơ sỏ
những điều kiện về tinh thần và vật chất để tăng cường năng lực giải quyết an
sinh xã hội trong nội bộ nhân dân.
Cần có tư duy thơng thống hơn đơl với một số tổ chức xã hội có năng lực
hoạt động và mang lại hiệu quả cao trong lĩnh vực an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội và an toàn xã hội. Xu hướng chung của Bộ Nội vụ là muốn tổ chức các hội
quần chúng theo kiểu hành chính hóa (ví dụ, quy định tuổi của ngưòi lãnh đạo
các tổ chức xã hội), đồng thời lại muốn các tổ chức đó hồn tồn phải tự lo liệu
và tự chịu trách nhiệm về tài chính. Điều này sẽ hạn chế sự tham gia của khơng
ít tổ chức xã hội vào việc hỗ trợ Nhà nước triển khai các chính sách xã hội.
Đẩy mạnh tiến độ xây dựng xã hội học tập, thực hiện việc học tập suốt
đời để nâng cao nâng lực tự an sinh cho người lao động

Để giáo dục trở thành một sự nghiệp có ý nghĩa đơl vói sự phát triển bển
vững của xã hội, Nhà nước cần ban hành một bộ luật về học tập (giáo dục) suốt
đời cho người dân, tạo cơ hội và điều kiện để mọi công dân tham gia học tập
suốt đời. Đồng thời, Nhà nước cần ban hành tiêu chí đánh giá mơ hình cơng dân
học tập và danh hiệu công dân học tập để động viên ngưòi dân hảng hái tham gia
xây dựng gia đình học tập, dịng họ học tập và cộng đồng học tập.
Đến nay, cả nước đã thành lập được gần 11.000 trung tâm học tập cộng
đồng, nhưng trên thực tế chỉ trên dưói 30% số trung tâm này hoạt động có hiệu
quả. Số người lớn học tại các trung tâm vào khoảng 15 triệu lượt người mỗi
năm, tức là chưa tới 1/4 sơ" người lón trong cả nước.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đang thiếu nhiều chính sách và cơ chế điều
hành các trung tâm học tập cộng đồng. Tình trạng cấp hỗ trợ kinh phí cho các
trung tâm khơng được các địa phương chấp hành nghiêm chỉnh. Các trung tâm
cịn đang thiếu cán bộ có năng lực làm chun trách, ... Tình trạng này đã kéo
dài nhiều năm, và nếu khơng có sự điều chỉnh của Nhà nước và khơng có ý kiến
chỉ đạo của Đảng thì sẽ khơng ít trung tâm học tập cộng đồng sẽ ngừng hoạt

22


động. Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 9-1-2013 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020” có ghi rõ
7 đề án thành phần của Đề án xây dựng xã hội học tập và giao cho một sô" bộ,
ban, ngành chủ trì. Tiến độ triển khai các đề án thành phần rất khơng đồng đều,
việc học tập của ngưịi dân vì thế không được bảo đảm đồng bộ.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy, việc học tập suốt đời của ngưòi dân
có tác dụng rất tích cực đến sự phát triển xã hội, từ xóa đói, giảm nghèo đến phát
triển sản xuất, thực hiện an sinh xã hội cho các tầng lớp nhân dân.
KẾT LUẬN
Thực hiện chính sách ASXH là chủ trương nhất quán, xuyên suốt của

Đảng, Nhà nước trong 30 năm qua. Việc thực hiện tốt chính sách ASXH đã giúp
cho đối tượng thụ hưởng được mở rộng, nâng mức hỗ trợ, thực hiện đồng bộ
chính sách đối với người có cơng, giảm nghèo, trợ giúp xã hội, hỗ trợ nhà ở, tạo
việc làm, đào tạo nghề, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ tín dụng cho học sinh, sinh viên
nghèo. Chính sách bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng [2]. Tuổi
thọ trung bình của người dân tăng nhanh. Chất lượng cuộc sống của nhân dân
được đảm bảo, tăng cao. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá những kết quả đã thực
hiện, tác giả đưa ra những kinh nghiệm tăng cường việc thực hiện chính sách
ASXH cho người dân trong thời gian tới, từ đó, góp phần thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Tài liệu tham khảo
1. Ban chấp hành trung ương Đảng, Nghị quyết số 15/NQ-TU ngày
1/6/2012 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, Hà Nội,
2012.
2. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012.

23


3. Mai Ngọc Anh, Nghiên cứu hệ thống CSXH nông thơn Cộng hịa Liên
Bang Đức và kiến nghị đối với việc xây dựng hệ thống ASXH cho nông dân
Việt Nam, tạp chí Kinh tế và phát triển số tháng 10 năm 2006.
4. Nguyễn Kim Bảo. Điều chỉnh một số chính sách kinh tế ở Trung Quốc.
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.
5. Báo cáo quốc gia của chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam
về phát triển xã hội tại hội nghị thưởng đỉnh thế giới về phát triển xã hội
Copenhagen 6 -12 tháng 3 năm 1995. Hà Nội, 1995.

24




×