Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

3 GIẢI PHÁP PHÁT HUY NGUỒN lực CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH tế đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.43 KB, 22 trang )

GIẢI PHÁP PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ ĐẤT NƯỚC
MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con
người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực ; tu dưỡng rèn luyện phẩm
chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự
biến đổi khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới CNH, HĐH đất nước với những mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và
nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức
thiết và cần có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về con người và nguồn nhân
lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng định con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội đồng thời
phải là những con người có tri thức và đạo đức. Từ đây mỗi con người dần dần
về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh thần
và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là, ta phải
thực hiện chiến lược GDĐT nguồn nhân lực, phát triển con người một cách tồn
diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của GDĐT là đưa con người đạt đến những
giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con
người Việt Nam để thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ của
nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới.

1


NỘI DUNG
1. Một số vấn đề chung về con nguời và vai trò nhân tố con người
trong lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất (LLSX) là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật
đựơc sử dụng trong các quá trình sản xuất của xã hội tức là trong quá trình con


người cải tạo, cải biến giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu tồn tại và phát
triển của mình. Như vậy, xét về mặt tính chất thì khái niệm lực lượng sản xuất,
nó phản ánh một số tính chất căn bản sau:
Trước hết, nó phản ánh quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất. Là động vật cao cấp nhất, là tinh hoa của mn lồi, con người là
sản phẩm của q trình phát triển hết sức lâu dài của giới tự nhiên. Con ngưịi
phải tìm kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như
thức ăn, thức uống, nhà để ở. Theo một số nhà nhân học khẳng định nhánh
người bắt đầu hình thành rõ cách đây khoảng 10 triệu năm bắt đầu từ “vượn
người ”. Khi đó vượn người đã biết sử dụng gậy gộc, đá, xương động vật làm
công cụ và bắt đàu biết chế tạo công cụ lao động thô sơ cũng như dùng lửa.
Nhưng cuộc sống của loài vượn vẫn theo quy luật sinh vật : sống hoà lẫn vào
thiên nhiên, sinh sống hồn tồn tuỳ theo bản năng vốn có trong cơ thể và những
thứ sẵn có trong tự nhiên, có thể nói là hồn tồn phụ thuộc vào tự nhiên.Theo
thời gian vượn người tiến hoá thành người khéo, người đứng thẳng, người khôn
và con người hiện đại ngày nay. Nhưng sự tiến hố ấy khơng làm thay đổi mối
quan hệ mật thiết giữa con người với tự nhiên. Ngày nay, con người vẫn đang
chinh phục tự nhiên bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau. Như vậy,
ngay từ thời kỳ sơ khai nhất, con người đã biết dựa vào những thứ vốn có trong
tự nhiên để cải biến nó theo nhu cầu sinh tồn và phục vụ nhu cầu sống của mình.
Do đó ta thấy rõ một sự thật tất yếu khách quan là con người không thể tồn tại
nếu khơng có mối quan hệ mật thiết, gắn kết chặt chẽ với tự nhiên.
Đồng thời nó cũng thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người cụ
thể hơn là biểu hiện mức độ, khả năng chinh phục tự nhiên của con người.
2


Trong thời nguyên thuỷ con người chỉ mới sử dụng những công cụ hết sức
thô sơ, hầu hết là những cơng cụ thủ cơng vào q trình lao động sản xuất. Do
đó năng suất lao động thấp kém, con người chưa tạo ra nhiều của cải dư thừa có

khả năng trao đổi với nhau phục vụ nhu cầu sống hết sức sinh động, phong phú
của mình. Điều đó phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên vẫn cịn non thấp kém.
Cho đến khi chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, con người
đã dần sáng tạo ra các công cụ lao động tiến bộ hơn song về bản chất nó vẫn
mang tính thủ cơng. Do vậy, mặc dù sản phẩm lao động làm ra ngày một phong
phú hơn song trong quá trình lao động sản xuất vẫn còn dựa vào sức người - mặt
thể lực là chính, cần nhiều thời gian và quan trọng hơn vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu ngày càng đa dạng của con người. Sang chế độ tư bản chủ nghĩa, con
người đã tạo ra hàng loạt những máy móc hết sức hiện đại để phục vụ vào quá
trình lao động sản xuất, khai thác tài nguyên thiên nhiên, cải biến nó thành
những vật dụng và sản phẩm có giá trị, chất lượng cao, phong phú về hình thức,
đa dạng về chủng loại, mẫu mã. Đặc biệt cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra
bắt đầu từ thế kỷ XVII suốt cho đến ngày nay đã nhanh chóng làm biến đổi bộ
mặt kinh tế xã hội của thế giới. Theo đánh giá của C.Mác và Ph.Ăngghen: “chỉ
sau hơn hai thế kỷ tồn tại, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một khối kượng của cải vật
chất nhiều hơn tất cả các thời đại trước gộp lại”. Như thế trình độ chinh phục tự
nhiên của con người đã bước lên một mốc son mới, đánh dấu một bước phát
triển cao của tiến bộ loài người. Cũng chính trong giai đoạn này con người đã
dần dần chiếm thế chủ động trong quá trình lao động sản xuất.
Mặt khác, LLSX có tính khách quan trong q trình sản xuất. Thật vậy
khơng có một q trình sản xuất nào mà lại không cần đến sức lao động của con
người hay những yếu tố sẵn có trong tự nhiên. Nói cách khác trong q trình sản
xuất vật chất không thể không cần đến LLSX.
LLSX bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người
vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
3


Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất,

với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết
là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật
chất. Bước kinh tế tri thức, sự phát triển của LLSX biểu hiện ở hai mặt :
. Trí lực đóng vai trò chủ đạo, tức là sẽ xuất hiện một tầng lớp lao động trí
óc đơng đảo hợp thành chủ thể trong đội ngũ những người lao động.
. Những nhân tố mới thúc đẩy LLSX sẽ được phát triển rộng khắp.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Con
người không thể SXVC mà không cần đến những yếu tố sẵn có trong tự nhiên
như đất, nước, khống sản, khơng khí, … Đó chính là những đối tượng lao động.
Đặc trưng nổi bật của công cụ sản xuất và đối tượng lao động biểu hiện chủ yếu
ở sự gia tăng hàm lượng khoa học và công nghệ, cuối cùng là hàm lượng tri thức
được kết tinh trong sản phẩm ngày càng nhiều.
Còn tư liệu lao động là những phương tiện, công cụ lao động mà con
người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, sản xuất ra của cải vật chất.
Thông qua các cơng cụ của họ đã chứng tỏ họ có hoạt động lao động và đây
cũng chính là ranh giới tách người ra khỏi giới sinh vật nói chung, thế giới động
vật nói riêng.
Tính chất đặc biệt của LLSX hiện đại.
Trong sự phát triển của LLSX, khoa học đóng vai trị ngày càng to lớn. Sự
phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản
xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên
nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở
thành LLSX trực tiếp.
Những phát minh khoa học trở thành thang điểm xuất phát ra đời những
ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, cơng nghệ mới nguyên vật
liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản
xuất, cụ thể là vào người lao động và tư liệu sản xuất, trở thành một yếu tố
không thể thiếu được trong sản xuất đã làm cho LLSX có bước phát triển nhảy
4



vọt, tạo thành cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại khơng
cịn là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Như vậy, dù
không phải là yếu tố thứ ba của LLSX nhưng có thể nói khoa học và cơng nghệ
hiện đại là đặc trưng cho LLSX hiện đại.
Vai trò của con người trong LLSX.
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ thời cổ
đại đến hiện đại. Trong đó quan niệm của triết học Mac-Lênin về con người và
bản chất con người, xuất phát từ giác độ khái quát nhất, đứng trên lập trường
duy vật biên chứng, làm cơ sở phương pháp luận cho việc giải quyết những vấn
đề khác của con người, có thể nói là đúng đắn nhất cho tới ngày nay.
Trước hết con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt
xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm
của thế giới tự nhiên. Con người là một bộ phận của tự nhiên.Con người không
thể tồn tại mà thốt ly khỏi q trình tất yếu đó là sinh ra, phát triển rồi chết đi.
Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người điều đó
được chứng minh trong các cơng trình nghiên cứu của Đacuyn. Những thuộc
tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển
khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất
con người . Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới lồi vật
là mặt xã hội. Thơng qua hoạt động lao động sản xuất con người sản xuất ra của
cải vật chất và tinh thần phục vụ đời sống của mình hình thành và phát triển
ngơn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết
định hình thành bản chất xã hội của con người đồng thời hình thành nhân cách
cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người luôn bị quyết định bởi các hệ thống quy luật khác nhau nhưng

5


thống nhất với nhau. Chúng cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh
trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ
sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành các nhu cầu về sinh học và nhu cầu xã
hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu tái sản xuất xã
hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Như vậy ta thấy rõ mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người
còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất nhất để phân biệt con người với loài vật.
Hai mặt trên thống nhất với nhau để tạo nên con người tự nhiên- xã hội hay một
thực thể song trùng.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người Mác đã nêu trong luận đề
nổi tiếng Luận cương về Phoiơbăc: “bản chất con người không phải là một cái
trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hồ các quan hệ xã hội”.
Trong đời sống con người, xét trên ba phương diện khác nhau: quan hệ
giữa con người với tự nhiên, với xã hội và chính bản thân con người, suy đến
cùng đều mang tính xã hội. Nhưng có thể nói quan hệ giữa con người với con
người là quan hệ bản chất nhất bao trùm lên các mối quan hệ khác. Thực tế lịch
sử đã chứng minh không có một cá nhân nào có thể tự đáp ứng đầy đủ nhu cầu
của bản thân cũng như không thể lao động một cách độc lập tuyệt đối để SXVC
mà phải liên kết lại với nhau, phân công lao động và trao đổi sản phẩm cho
nhau. Từ đó hình thành các quan hệ xã hội, điều chỉnh và chi phối hoạt động,
hành vi của con người. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ đó, con người mới
bộc lộ tồn bộ bản chất của mình. Trong điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, bằng
hoạt động thực tiễn của mình, con người sản xuất ra của cải vật chất đồng thời
hồn thiện bản thân mình.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Khơng có giới tự nhiên,
khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con người. Bởi vậy con người là sản

phẩm của lịch sử. Song điều quan trọng là con người luôn luôn là chủ thể của
lịch sử - xã hội.
6


Con người sáng tạo ra lịch sử, nhưng không bao giờ sáng tạo ra lịch sử
trong những hoàn cảnh và điều kiện được lựa chọn, mà trong hoàn cảnh và điều
kiện sẵn có do quá khứ để lại. Do đó ta phải luôn chú ý tới mối quan hệ hai
chiều giữa hiện tại và quá khứ, đặc biệt là môi trường sống của con người.
Thông qua môi trường sống con người có sự tác động qua lại lẫn nhau thực hiện
các quan hệ xã hội tạo nên bản chất người, làm cho con người khác với con vật.
Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định LLSX.
Trong các yếu tố của LLSX, “LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân là người lao động”. Con người là nhân vật chính của lịch sử, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã hội. nhân tố con người vừa là phương
tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải vật chất và tinh thần, sáng tạo và hồn thiện
ngay chính bản thân mình đồng thời vừa là chủ nhân sử dụng có hiệu quả mọi
tài sản vơ giá ấy. Trên phương diện đó vai trị nhân tố con người lao động trong
LLSX là yếu tố động nhất sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Nhân tố trung
tâm của con người chính là sức lao động bao gồm thể lực và trí lực. Khơng có
người lao động nào trong quá trình sản xuất vật chất lại không cần đến lao đông
thể lực hay lao động cơ bắp. Chính những người lao động là chủ thể của quá
trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư
liệu lao động trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để
sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và
kỹ năng lao động của con người không ngừng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ
của con người ngày càng phát triển. Trong q trình đó khơng những con người
sử dụng trí tuệ nội tại của mình mà còn được kế thừa những kinh nghiệm qua
học hỏi lẫn nhau giữa những người lao động cho nên có thể nói kinh nghiệm
cũng là một LLSX. Kinh nghiệm được tích luỹ dần trở thành kỹ năng và cao hơn

nữa nó có thể trở thành tri thức khoa học, kỹ thuật, cơng nghệ.
Vai trị con người trong thời đại mới là cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn
lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi
nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia….Con
7


người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời
là mục tiêu của CNXH.
Hơn nữa, các nhân tố khác đều là sản phẩm của người lao động . Chỉ có
nhân tố con người mới có thể làm thay đổi được công cụ sản xuất làm cho sản
xuất ngày càng phát triển với năng suất và chất lượng cao, thay đổi quan hệ sản
xuất và các quan hệ xã hội khác. Công cụ lao động thô sơ hay hiện đại, xấu hay
tốt, phụ thuộc trực tiếp vào nhân tố con người. Giới tự nhiên nói chung và đối
tượng lao động nói riêng, chỉ là những vật vơ tri vơ giác mà thơi. Nó chỉ có ý
nghĩa khi trở thành sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Muốn vậy tất yếu
người lao động phải tác động vào tư liệu sản xuất để sản sinh ra nó. Như thế q
trình SXVC khơng thể thốt ly khỏi lao động của con người. Trong thời đại mới,
nhân tố con người có tri thức ngày càng đóng vai trị quyết định hơn trong
LLSX. Có thể khẳng định rằng nhân tố con người đóng vai trị quyết định q
trình lao động sản xuất ra của cải vật chất.
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đáp ửng CNH, HĐH ở Việt
Nam hiện nay
* Tính tất yếu khách quan và nội dung CNH, HĐH của Việt Nam trong
thời kí quá độ.
Mỗi phương thức sản xuất đều ra đời và tồn tại trên một cơ sở VCKT
tương ứng với nó. Cơ sở VCKT của CNXH là một nền công nghiệp lớn hiện đại,
trước hết là cơng nghiệp nặng có đủ khả năng trang bị kỹ thuật hiện đại cho
công nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, nhằm không ngừng

phát triển nền sản xuất lớn xá hội chủ nghĩa và cải thiện đời sống nhân dân.
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện hoạt động kinh tế,
dịch vụ và quản lý từ trạng thái sử dụng sức lao động là chính sang trạng thái sử
dụng sức lao động kết hợp với kỹ thuật công nghệ hiện đại tạo ra năng suất lao
động ngày càng cao.
CNH, HĐH là một tính quy luật để xây dựng cơ sở VCKT cho CNXH.
8


Cơ sở VCKT của một phương thức sản xuất là tồn bộ những tư liệu vật chất
trong đó chủ yếu là công cụ sản xuất mà lao động trong xã hội sử dụng. Cơ sở
VCKT của phương thức sản xuất trước tư bản là hết sức lạc hậu, chủ yếu là công
cụ lao động thủ công. Trong chủ nghĩa tư bản nền đại cơng nghiệp cơ khí hố đã
tạo cái cốt cho chủ nghĩa tư bản tồn tại. Nó tự khẳng định mình là một phương
thức sản xuất thống trị trong lịch sử. Việt Nam quá độ lên CHXH bỏ qua giai
đoạn tư bản thiếu một tiền đề VCKT mà chủ nghĩa tư bản để lại. Mặt khác Việt
Nam là một nước có nền kinh tế kém phát triển, chưa có nền sản xuất lớn dựa
trên nền tảng cơng nghiệp lớn. Do đó để xây dựng CNXH tất yếu nước ta phải
CNH, HĐH.
Gắn CNH với HĐH làm cho kinh tế nước ta dần đạt tới trình độ tiên tiến
của thế giới. Thời đại ngày nay cách mạng khoa học công nghệ là một đặc trưng,
khoa học công nghệ trở thành LLSX trực tiếp, nó vừa là nền tảng vừa là động
lực của quá trình CNH. Đồng thời gắn CNH với HĐH sẽ tránh được nguy cơ tụt
hậu xa về kinh tế giữa nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có
nền kinh tế phát triển.
Hơn nữa CNH là cần thiết và có nhiều tác dụng. Đó là :
. Thúc đẩy LLSX phát triển cao dẫn đến năng suất lao động cũng cao.
. Củng cố quan hệ sản xuất mới đảm bảo cho sự thắng lợi hồn tồn trong
cơng cuộc xây dựng CNXH nước ta.
. Tạo ra những điều kiện cho sự phát triển văn hoá giáo dục. Bản thân sự

nghiệp xây dựng cơ sở VCKT địi hỏi quần chúng phải có trình độ giác nhộ cách
mạng, trình độ văn hố, trình độ khoa học ngày càng cao.
. Tạo ra cơ sở cho việc phát triển kinh tế đối ngoại.
. Để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ phải có một nền cơng
nghiệp hiện đại tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, đảm bảo an tồn lương
thực. Nó là cơ sở vật chất cho củng cố an ninh quốc phòng, độc lập dân tộc và
CNXH được bảo vệ vững chắc.
Nội dung CNH, HĐH nước ta.
9


Thực chất CNH, HĐH là chuyển nền kinh tế từ lao động thủ cơng sang
lao động cơ khí hay nói cách khác là tiến hành trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền
kinh tế quốc dân. Không tiến hành cách mạng kỹ thuật thì khơng thể biến một
nước nơng nghiệp lạc hậu thành một nước có nền sản xuất lớn. Nó sẽ làm thay
đổi đến tận gốc rễ LLSX của xã hội . Trước tiên phải làm biến đổi công cụ lao
động - thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người và là cơ sở phân
biệt các thời đại với nhau. Muốn vậy ta phải thực hiện nghiên cứu ứng dụng
thành tựu khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới. Một yếu tố không thể thiếu
nữa, đó là ta phải phát huy được lợi thế so sánh. Ta đi sau cạnh tranh, thu hút, sử
dụng công nghệ hiện đại của nước bạn thông qua việc chuyển giao cơng nghệ.
Việc đó được tiến hành từ các nước khác chuyển sang nước ta bao gồm quyền sở
hữu, quyền sử dụng, bao gồm cả phần cứng tức máy móc thiết bị và phần mềm
tức phương pháp và công nghệ. Nhờ đó cho phép ta khai thác được các nguồn
lực trong nước và khắc phục được nguy cơ tụt hậu kinh tế cũng như thúc đẩy
nền sản xuất hướng về xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
Ngoài ra, ta phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế là
tổng thể các ngành, vùng kinh tế trong đó cơ cấu kinh tế ngành là quan trọng
được cân đối về quy mô, về tỉ trọng, phù hợp điều kiện của tự nhiên và xu
hướng phân công hợp tác lao động quốc tế. Trước hết, nó phải phù hợp với các

quy luật khách quan và xu thế phát triển của khoa học công nghệ đồng thời phát
huy được lợi thế so sánh trong nước. Để xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý
phải chuyển dịch cơ cấu gắn liền với phân công lại lao động xã hội theo một tính
quy luật. Trong đó tỉ trọng lao động trong ngành cơng nghiệp gia tăng, nơng
nghiệp giảm cịn dịch vụ tăng lên. Tuy nhiên phải luôn luôn đảm bảo tỉ trọng
hợp lý giữa chúng một cách tương đối so với nhau. Mặt khác tỉ trọng lao động
giản đơn, lao động cơ bắp giảm còn lao động phức tạp tăng lên.
* Chiến lược phát triển GD ĐT nguồn nhân lực nước ta.
Vai trò và thực trạng nguồn nhân lực nước ta.
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực
10


khoa học cơng nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định
nhất bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực
con người được phát huy. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại
nguồn lực con người ngày càng đa dạng và phong phú.
Các lĩnh vực khoc học khác nhau có thể hiểu nguồn lực theo những cách
khác nhau, nhưng chung nhất nguồn lực là một hệ thống các nhân tố mà mỗi
nhân tố đó có vai trị riêng nhưng có mối quan hệ qua lại lẫn nhau tạo nên sự
phát triển của một sự vật, hiện tượng nào đó. Từ cách hiểu như vậy, nguồn lực
con người là những yếu tố có thể huy động, sử dụng để thúc đẩy nền kinh tế đất
nước và sự phát triển xã hội. Khi chúng ta nói tới nguồn lực con người là nói tới
con người với tư cách là chủ thể của quá trình sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên,
làm biến đổi xã hội.
Tỷ trọng (%) các khối kinh tế trong GDP
Ngành

Nông


Công

Dịch vụ
Năm
nghiệp
nghiệp
1998
25,75
33,35
41
2010
17
40
43
[Nguồn : Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010, trang 7]
Nói đến nguồn lực con người là nói đến chất lượng và số lượng nguồn
nhân lực. Chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Thực trạng đó ở nước ta như sau:
• Cơ cấu ngành cịn bất hợp lý.
• Cơ cấu vùng miền chưa hợp lý. Bình quân chung nước ta là 118 sinh
viên/ 1 vạn dân, nhưng Tây Bắc là17 sinh viên/ 1 vạn dân.


Hình thức đào tạo: - Chính quy : 509637
- Chun tu, tại chức: 235975



Tỉ lệ giáo viên/ sinh viên còn cao dẫn đến giáo viên phải làm việc

“chạy xơ”.



Trong dạy nghề có 157 trường dạy nghề, hơn 190 trường đại học

nhưng đầu tư kinh tế còn nhỏ.
11


[Phạm Minh Hạc, Tổng kết mười năm (1990 - 2000) xoá mù chữ và phổ
cập giáo dục tiểu học - trang 159]
Như thế nền kinh tế nước ta chủ yếu dùng sức người với một số yếu tố
của tri thức.
Quan điểm của Đảng về phát triển GDĐT nguồn nhân lực.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định : “Con người và nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH
cần tạo chuyển biến cơ bản toàn diện về GDĐT….Đào tạo lớp người lao động
có kiến thức cơ bản làm chủ kỹ năng, nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực,
nhạy cảm với cái mới có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng
đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hố, nhà
kinh doanh, nhà quản lý. Chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng
mọi năng lực phát huy, mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. ”
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ mục tiêu của chiến lược
phát triển kinh tế -xã hội 10 năm (2001-2010 ) là : “Đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của
nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng an ninh được tăng cường, thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản,
vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.

Để thực hiện mục tiêu đó trong 10 năm tới cần :
Phát triển giáo dục mần non. Củng cố vững chắc kết quả xoá mù chữ và
phổ cập giáo dục tiểu học tiến hành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước phần
lớn thanh thiếu niên trong độ tuổi ở thành thị và vùng nông thôn đang được học
hết trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp và được đào tạo nghề. Điều
chỉnh cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng, cơ cấu dân tộc…trong hệ
thống GDĐT phù hợp với yêu cầu học tập của nhân dân và phát triển kinh tế xã
12


hội và các mục tiêu của chiến lược. Chú trọng giáo dục hướng nghiệp thiết thực
trong trường phổ thông. Mở rộng đào tạo công nhân kỹ thuật viên và nhân viên
nghiệp vụ theo nhiều trình độ. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học
sau đại học tập trung đầu tư xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc
gia ngang tầm khu vực tiến tới đạt trình độ quốc tế. Phát triển giáo dục thường
cuyên và giáo dục từ xa.
Khẩn trương biên soạn và đưa vào sử dụng ổn định trong cả nước bộ
chương trình và sách giáo khoa phổ thông phù hợp với yêu cầu mới của sự
nghiệp páht triển giáo dục trong thế kỷ XXI.
Mục tiêu và phương hướng phát triển GDĐT nguồn nhân lực nước ta.
Phát triển toàn diện con người cần đạt tới những giá trị xã hội sau đây


Con người có bản lĩnh, lý tưởng, niềm tin và quyết tâm thực hiện sứ mệnh

CNH, HĐH. Con người cần có tác phong cơng nghiệp.


Con người có sức khoẻ cường tráng.




Có nhân cách đậm đà bản sắc dân tộc tiếp thu tinh hoa văn minh nhân

loại, sống nhân ái, tình nghĩa.


Có đủ trí tuệ, đầu óc duy lý của thời đại và kĩ năng lao động lành nghề.



Có tinh thần cơng dân sống và làm việc theo pháp luật, thực hiện đúng

quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Ngồi ra ta cần chú ý đến sự công bằng trong giáo dục, chú ý đến vai trò của
người thầy.
[Phạm Minh Hạc, Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá - trang 260]
Cần đổi mới nền giáo dục nước ta, vừa phù hợp hoàn cảnh riêng của nước
ta, vừa thống nhất chung với văn hoá và văn minh nhân loại.
UNESCO đưa ra “ Bốn trụ cột của giáo dục” thế kỉ XXI :
Học để biết.
Học để làm. Chú ý tới học đi đôi với hành.
13


Học cùng chung sống, học cách sống với người khác.
Học để tự khẳng định mình.
[Nghiêm Đình Vỳ (chủ biên), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài –
trang 193]

Toàn bộ hệ thống GDĐT, từ tiểu học đến đại học, phải tập trung phục vụ
mục tiêu này, làm cho tinh thần hướng nghiệp cùng với hướng học đi vào từ giờ
học , từng học sinh như cha ông ta đã từng dậy “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”,
chấm dứt động cơ đi học vì mảnh bằng “Hư văn” (Phạm Văn Đồng). Các môn
học, cả khoa học xã hội - nhân văn lẫn khoa học tự nhiên, đều phải dạy theo tinh
thần kỹ thuật tổng hợp, gắn bó các nội dung khoa học. Thời đại ngày nay là thời
đại lao động ngày càng căng thẳng địi hỏi trí tuệ cao và có ý thức trong cơng
việc. Do đó, phát triển giáo dục con người trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Nhân tài nói chung và nhân tài trong quản lý nói riêng khơng phải tự
nhiên mà có mà nhân tài chính là sản phẩm của một q trình đào tạo rèn luyện
và tự rèn luyện rất lâu dài và công phu. Cần nhận dạng nhân tài bằng hình thức
thi cử và đặt ra nhiều tiêu chí.
Để nhân tài có thể phát triển được thì phải có điều kiện: Thứ nhất nhân tài
trước hết phải được đào tạo rất cẩn thận, tu dưỡng, rèn luyện, tự tích luỹ kinh
nghiệm và kiến thức trong một môi trường thuận lợi thúc đẩy con người ln
sáng tạo và hành động. Thứ hai, phải có các nguồn lực và dành cho mỗi người
một khả năng lựa chọn và huy động tổ chức các nguồn lực thực hiện có hiệu quả
mục đích đã đề ra. Tóm lại, điều kiện nảy sinh và phát triển nhân tài là phải có
một nền giáo dục tiên tiến có sự kết hợp hài hoà giữa ba yếu tố nhà trường - gia
đình - xã hội cùng quan tâm đến thế hệ trẻ và giáo dục.
2. Giải pháp phát huy nhân tố con người Việt Nam trong xây dựng,
phát triển đất nước
Trong các chặng đường đấu tranh cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đã phát
huy được sức mạnh của mỗi con người Việt Nam cũng như của cả dân tộc cho
sự nghiệp giải phóng đất nước. Trong thời kỳ 1975 -1985, do nhiều nguyên nhân
14


khác nhau, vai trò của nhân tố con người chưa được nhận thức đầy đủ và cũng
chưa có một hệ giải pháp phát huy có hiệu quả vai trị nhân tố con người trong

xây dựng, phát triển đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
nhận thức rõ con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển đất nước và
đề ra những giải pháp nhằm phát huy tối đa nhân tố con người Việt Nam trong
sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Nổi bật là:
Một là, Đảng và Nhà nước ta đã có chiến lược đào tạo, phát triển nguồn
lực con người Việt Nam. Từ khi đổi mới (1986) đến nay, các Đại hội Đảng đều
đặc biệt quan tâm tới giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và
phát triển con người Việt Nam. Ngày 19-4-2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 579/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt
Nam thời kỳ 2011 - 2020. Trong đó nêu rõ: mỗi bộ, ngành và địa phương phải
xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát
triển chung của mình. Chiến lược được triển khai thực hiện bằng các biện pháp,
hành động cụ thể, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả một số cơ chế,
chính sách ưu đãi trong công tác đào tạo và thu hút nhân tài (chế độ tiền lương,
tiền thưởng, nhà ở, điều kiện và các phương tiện làm việc)... nhằm tránh tình
trạng chảy máu chất xám. Đặc biệt là xây dựng và phát triểnđội ngũ các nhà lãnh
đạo, quản lý giỏi;đội ngũ chuyên gia quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành
nghề và cán bộkhoa học - công nghệđầu đàn. Đại hội XII của Đảng xác
định,phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột
phá quyết định sự phát triển bền vững đất nước.
Hai là, Đảng, Nhà nước đã có cơ chế, chính sách cán bộ tương đối toàn
diện, đồng bộ từ quy hoạch nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, đánh giá,
sử dụng, đãi ngộ,v.v.. Công tác cán bộ được thực hiện theo nguyên tắc: “Đánh
giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ
sung, hồn thiện, lấy hiệu quả cơng tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm
thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ
nghĩa. Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ
15



lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực,
khơng hồn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút...”(2).
Ba là, Đảng, Nhà nước đã có chính sách thu hút nguồn nhân lực là người
Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng, phát triển đất nước. Đảng đã ban
hành Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26-3-2004về Cơng tác đối với người Việt
Nam ở nước ngồi, nhằm phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tiềm
lực và phát huy nhân tố con người của Việt kiều, nhất là những người có tài, các
nhà doanh nghiệp đóng góp về vật chất, tinh thần, tài năng cho sự nghiệp xây
dựng đất nước.
Bốn là, Đảng, Nhà nước đã xây dựng hệ thống các chính sách đối với
từng giai tầng xã hội để phát huy tối đa tiềm năng, sức mạnh của toàn dân trong
sự nghiệp đổi mới và hội nhập. Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm phát triển
giáo dục, đào tạo; bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và
chất lượng; Xây dựng, phát huy vai trị giai cấp nơng dân - chủ thể của q trình
phát triển nơng nghiệp, xây dựng nơng thơn mới; Xây dựng đội ngũ trí thức
ngày càng lớn mạnh, phát triển đội ngũ doanh nhân cả về số lượng và chất
lượng; có cơ chế, chính sách tạo điều kiện, động viên cựu chiến binh tích cực
tham gia xây dựng, phát triển đất nước...
Năm là, Đảng, Nhà nước khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là chiến
lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng. Do đó, đã thường xun hồn thiện các
cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tơn trọng, đồn kết, giải
quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc. Chăm lo giáo dục, đào tạo nguồn nhân
lực, đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số... Nhờ vậy, đã phát huy cao độ sức
người, sức của của đồng bào các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Sáu là, Đảng, Nhà nước thường xuyên quan tâm hoàn thiện chính sách về
tín ngưỡng, tơn giáo, phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn
giáo. Quan tâm, tạo điều kiện các tôn giáo hoạt động theo hiến chương, điều lệ
của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật.
16



Do vậy, nhìn chung đã phát huy được sự đóng góp tích cực của các tín đồ tơn
giáo vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, cùng với những kết quả đạt được thì việc phát huy nhân tố con
người Việt Nam trong xây dựng, phát triển đất nước thời gian qua vẫn chưa đáp
ứng yêu cầu, vẫn cịn khơng ít những hạn chế, yếu kém cần phải tập trung khắc
phục. Hạn chế này do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, “Việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh giá cán
bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có tiêu chí cụ thể và
giải pháp khoa học để khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi,
chạy bằng cấp,... chưa được ngặn chặn, đẩy lùi” (3). Do đánh giá cán bộ không
đúng, dẫn đến không xác định đúng yêu cầu, tiêu chí đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng, đãi ngộ cán bộ. Do vậy, chưatuyển chọn, sử dụng được nhiều người thực
tài, có đức, có tâm. Những hạn chế, khiếm khuyết trong công tác cán bộ là một
điểm yếu cản trở việc phát huy nhân tố con người Việt Nam.
Hai là, công tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều bất cập.
Giáo dục và đào tạo chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, thành động lực
phát triển. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu,
nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo
chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù
hợp. Chưa chú trọng đúng mức giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng làm việc (4)...
Vì vậy mà nguồn nhân lực của nước ta còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.
Ba là, chưa tạo ra được môi trường thuận lợi cho việc phát huy tối đa
nhân tố con người Việt Nam. Các chính sách nhằm phát huy nhân tố con người
dường như đều đã có, nhưng những chính sách này khó đi vào cuộc sống.
Khơng ít người đi học tập ở nước ngồi đã khơng về nước do khơng tìm được
việc làm phù hợp; khơng có mơi trường làm việc thuận lợi; chế độ tiền lương
cịn nhiều bất cập; v.v.. Với đội ngũ trí thức cịn thiếu mơi trường dân chủ trong
nghiên cứu khoa học; giai cấp cơng nhân cịn nhiều khó khăn về đời sống vật

chất, tinh thần do mức lương thấp, thường xuyên thiếu việc làm; nông dân là
17


người được hưởng lợi ít nhất từ những thành quả của sự nghiệp đổi mới. Với
doanh nhân thì cịn vướng nhiều cơ chế, chính sách “xin - cho, bao cấp” trá hình
cản trở; một bộ phận lớn thanh niên khơng tìm được việc làm... Những bất cập
này đã cản trở việc phát huy nhân tố con người Việt Nam trong xây dựng, phát
triển đất nước.
Một số giải pháp cụ thể:
Một là, thống nhất nhận thức về phát huy nhân tố con người. Phát huy
nhân tố con người là phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi người,
tạo điều kiện cho mỗi người phát triển toàn diện, phát huy tối đa tài năng, năng
lực của cá nhân cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Đặc biệt là phát
huy năng lực nhận thức (năng lực trí tuệ, tư duy, xử lý thông tin,v.v..) và hoạt
động thực tiễn (năng lực sống, làm việc, ứng xử, thích nghi,v.v..) của con người
Việt Nam. Do vậy, khi phát huy được các năng lực của nhân tố con người là phát
huy được động lực phát triển của xã hội. Muốn vậy, phải đánh giá đúng năng lực
của từng người. Muốn đánh giá đúng năng lực của từng người cần căn cứ vào
hiệu quả, kết quả cơng việc mà người đó đảm nhiệm. Trên cơ sở đánh giá đúng
năng lực của từng người mới có giải pháp phát huy đúng sở trường của họ.
Hai là, giải quyết thỏa đáng lợi ích chính đáng, thiết thực của con người.
Với mỗi giai tầng, mỗi người đều có các lợi ích kinh tế, chính trị, tinh thần,v.v..
Trong đó, chú ý đặc biệt tới lợi ích kinh tế. Giải quyết hài hịa lợi ích cá nhân tập thể - xã hội - dân tộc. Chúng ta đều rõ, động lực sâu xa thúc đẩy con người
hoạt động chính là lợi ích. Lợi ích chính là sản phẩm hoạt động của con người,
là sự kết tinh, đối tượng hóa bản chất con người, là cái mang quan hệ xã hội.
Triết học Mác-Lênin cho rằng, lợi ích là cái liên kết các thành viên trong xã hội,
nó được đặt trong quan hệ giữa con người với nhau và làm cơ sở cho việc xác
lập các quan hệ giữa họ. Do vậy, cái làm cho con người tích cực hoạt động chính
là lợi ích. Vì vậy, phát huy nhân tố con người đòi hỏi phải giải quyết thỏa đáng

và hài hịa lợi íchcá nhân - tập thể - xã hội - dân tộc. Tất nhiên chúng ta coi trọng

18


lợi ích cá nhân chính đáng nhưng chống chủ nghĩa cá nhân. Đồng thời, cũng
chống việc tuyệt đối hóa lợi ích tập thể mà quên lợi ích cá nhân chính đáng.
Ba là, đổi mới mạnh mẽ về tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh
gọn, hiệu quả, thiết thực, tạo cơ hội cho mỗi người dân phát huy tối đa năng lực,
sở trường đóng góp vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Thực tế cho thấy bộ máy
nhà nước cồng kềnh, quan liêu, chồng chéo, kém hiệu quả sẽ là lực cản lớn đối
với việc phát huy nhân tố con người. Bộ máy cồng kềnh, quan liêu, tham nhũng
thì không thể tuyển chọn được người thực tài, thực giỏi, tâm huyết phục vụ,
cống hiến cho đất nước. Phải có cơ chế minh bạch để tuyển chọn, sàng lọc, hình
thành được đội ngũ công chức nhà nước tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, phục
vụ đất nước. Hiện thực hóa và cụ thể hóa chủ trương của Đại hội XII: “Rà sốt,
sửa đổi, bổ sung chính sách với cán bộ, cơng chức theo hướng khuyến khích cán
bộ, cơng chức nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, đạo đức cơng vụ, hồn
thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả
thực thi nhiệm vụ để đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính
sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài” (5). Thực hiệnđổi mới cơ chế, chính
sách, xóa bỏ những rào cản, chính sách kìm hãm, trói buộc nhân tố con người.
Chẳng hạn như chính sách tiền lương,nếu tiền lương bình qn chủ nghĩa, khơng
phản ánh được hiệu quả cơng việc, tài năng, trình độ chun mơn và thời gian
cống hiến thì sẽ khơng thể động viên, phát huy được nhân tố con người. Rà soát
để loại bỏ những cơ chế, chính sách tạo ra bất bình đẳng giữa các vùng, miền,
đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, quan liêu... Đồng thời, Nhà nước cần tạo môi
trường và điều kiện thuận lợi cho mỗi người được phát huy năng lực, sở trường,
tài năng, trí tuệ... của mình cho phát triển đất nước. Như tạo khơng khí làm việc
cởi mở, dân chủ, công khai; điều kiện làm việc thuận lợi, phương tiện thông tin

nhanh, kịp thời; bảo đảm cho mỗi người có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm;
quyền tự do sáng tạo, phát triển ý tưởng khoa học, tạo điều kiện cho mỗi người
phát huy hết tài năng sáng tạo.

19


Bốn là, phát huy dân chủ. Phát huy dân chủ là phát huy vai trò là chủ, làm
chủ của nhân dân. Nhân dân có quyền học tập, lao động sáng tạo, quyền cống
hiến, quyền phát huy vai trị của chính mình,v.v.. Nếu nhân dân khơng phát huy
được vai trị của chính mình thì khơng thể nói đến phát huy nhân tố con người.
Phát huy nhân tố con người một nghĩa nào đó cũng là phát huy vai trị của nhân
dân. Tuy nhiên, phát huy dân chủ phải đi đôi với giữ gìn kỷ cương, kỷ luật,
chống dân chủ hình thức. Đảng ta chủ trương:“nâng cao năng lực và tạo cơ chế
để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát
huy mạnh mẽ khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo
động lực phát triển đất nước”(6). Đại hội XII của Đảng yêu cầu: “Dân chủ phải
được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội”(7); “Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện” (8). Trên cơ sở đó, chúng ta mới phát huy tốt nhân
tố con người cho phát triển đất nước.
Năm là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giải quyết tốt vấn
đề tơn giáo, dân tộc. Có phát huy được sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc thì
mới phát huy được nhân tố con người Việt Nam. Khi toàn dân tộc đồn kết nhất
trí thành một khối thống nhất thì sẽ tạo ra sức mạnh vĩ đại của dân tộc. Phải coi
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương
đồng để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh nhân tố con
người. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi

ích giữa các thành viên trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp
pháp của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được hưởng thụ thành quả của
đổi mới. Có chính sách cụ thể để phát huy sức mạnh, lợi thế của từng giai tầng,
từ công nhân, nơng dân, trí thức đến người Việt Nam ở nước ngồi. Đồng thời,
giải quyết tốt vấn đề tơn giáo, dân tộc. Không để những khác biệt tôn giáo, dân
tộc thành những trở ngại trong phát huy nhân tố con người Việt Nam. Đặt lợi ích
20


của quốc gia lên trên hết trong giải quyết vấn đề tơn giáo, dân tộc. Thực hiện các
chính sách bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tơn trọng, đồn kết, giải quyết hài
hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển. Kiên quyết đấu tranh
chống kỳ thị dân tộc, kỳ thị tôn giáo, chống lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc
để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên cơ sở đó, chúng ta sẽ
phát huy có hiệu quả nhân tố con người Việt Nam cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
KẾT LUẬN
Ngày nay, với cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại, đã dần dần đi
đến khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát
triển. Trong sự phát triển con người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tuệ và đi
liền với nó là vai trị của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.
Đối với sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện đại hố nước ta phải coi nhân tố
con người là nhân tố quyết định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị
tốt nguồn nhân lực có đủ trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và
tâm hồn thấm đượm sâu bản sắc dân tộc, khoa học và ý chí, thực hiện sự chuyển
mình từ một xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Các cuộc đại thắng của dân đã đi vào lịch sử suy cho cùng là
thắng lợi của chính con người Việt Nam. Bài học đó cịn ngun giá trị cho tới
ngày nay. Với chiến lược giáo dục đào tạo đúng đắn và khoa học của Đảng, với
trí tuệ và phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi sự

nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
Với kiến thức và sự cố gắng, em đã hồn thành bài tiểu luận song khơng
tránh khỏi cịn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được lời nhận xét và đánh giá
của thầy để em rút kinh nghiệm trong những bài sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Minh Hạc, nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, Nxb Chính trị quốc gia, 2001.
2. Nghiêm Đình Vỳ (chủ biên), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài,
21


Nxb Chính trị quốc gia, 2002.
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc, Nxb
Chính trị quốc gia, 2001.
4. Ngơ Đình Giao (chủ biên), Suy nghĩ về cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở
nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, 1996.
5. Nguồn chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010, Khoa giáo
Trung ương, Hà Nội, 2000.
6. Dự thảo tầm nhìn Việt Nam 2020, Bộ khoa học công nghệ và môi
trường, 2001.
7. Phạm Minh Hạc, Tổng kết mười năm (1990 - 2000) xoá mù chữ và phổ
cập giáo dục tiểu học, Nxb Chính trị quốc gia, 2000.

22



×