Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tài liệu Động vật bò sát pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.97 KB, 27 trang )

Động vật bò sát

Động vật bò sát
Thời điểm hóa thạch:
kỷ Than Đá - gần đây

Rùa Hermann (Testudo
hermanni)
Phân loại khoa học
Giới
(regnum):
Animalia
Ngành
(phylum):
Chordata
Phân ngành
(subphylum):

Vertebrata
Lớp (class):
Reptilia
Laurenti,
1768

Các nhóm
 Crocodilia
 Sphenodontia
 Squamata
 Testudines
 Đối với các bộ đã
tuyệt chủng, xem


văn bản
Đã từng bao gồm:
 Aves
 Mammalia

Động vật bò sát (danh pháp khoa học: Reptilia)
là các động vật bốn chân có màng ối (nghĩa là
các phôi thai được bao bọc trong màng ối. Ngày
nay, chúng còn lại các đại diện của 4 bộ còn
sống sót là:
 Crocodilia (các loài cá sấu thực sự, cá sấu
caiman và cá sấu Mỹ): 23 loài
 Sphenodontia (các loài tuatara ở New
Zealand): 2 loài
 Squamata (các loài thằn lằn, rắn và
amphisbaenia ("bò sát giống bọ")): khoảng
7.600 loài
 Testudines (các loài rùa, ba ba, vích, đồi
mồi v.v): khoảng 300 loài
Động vật bò sát được tìm thấy gần như ở mọi
nơi trên thế giới, ngoại trừ châu Nam Cực, mặc
dù khu vực phân bổ chính của chúng là các
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Mặc dù tất cả
hoạt động trao đổi chất trong các tế bào sản sinh
ra một nguồn năng lượng nhất định, nhưng phần
lớn các loài bò sát ngày nay không sản sinh ra
đủ năng lượng để duy trì một thân nhiệt ổn định
và vì thế chúng còn được gọi là "động vật máu
lạnh" (ectothermic), ngoại lệ duy nhất là rùa da
(Dermochelys coriacea). Thay vì thế, chúng dựa

trên việc thu và mất nhiệt từ môi trường để điều
chỉnh nhiệt độ bên trong của chúng, chẳng hạn
bằng cách di chuyển ra chỗ có ánh nắng hay chỗ
có bóng râm, hoặc bằng cách tuần hoàn máu có
ưu đãi — chuyển máu nóng vào phần trung tâm
của cơ thể, trong khi đẩy máu lạnh ra các khu
vực ngoại biên. Trong môi trường sinh sống tự
nhiên của chúng, phần lớn các loài là rất lão
luyện trong công việc này, và chúng có thể
thường xuyên duy trì nhiệt đọ tại các cơ quan
trung tâm trong một phạm vi dao động nhỏ, khi
so sánh với các loài động vật có vú và chim, hai
nhóm còn sống sót của "động vật máu nóng".
Trong khi sự thiếu hụt cơ chế điều chỉnh thân
nhiệt bên trong đã làm chúng phải chịu một cái
giá đáng kể cho việc này thông qua các hành vi,
thì ở mặt khác nó cũng đem lại một số lợi ích
đáng kể như cho phép động vật bò sát có thể tồn
tại ở những khu vực ít thức ăn hơn so với các
loài chim và động vật có vú có kích thước tương
đương, là những động vật phải dành hầu hết
nguồn năng lượng thu nạp được cho việc giữ ấm
cơ thể. Trong khi về cơ bản thì động vật máu
nóng di chuyển nhanh hơn so với động vật máu
lạnh thì những loài thằn lằn, cá sấu hay rắn khi
tấn công con mồi lại là những động vật di
chuyển cực nhanh.
Ngoại trừ một số ít thành viên trong bộ Rùa
(Testudines), thì tất cả các loài bò sát đều có vảy
che phủ.

Phần lớn các loài bò sát là động vật đẻ trứng.
Tuy nhiên, nhiều loài trong nhóm Squamata lại
có khả năng sinh ra con non. Điều này có thể là
thông qua cơ chế đẻ trứng thai (nghĩa là con non
phát triển trong vỏ trứng bên trong cơ thể mẹ
trước khi sinh ra), hoặc đẻ con (con non được
sinh ra không cần trứng có vỏ chứa canxi).
Nhiều loài đẻ con nuôi dưỡng bào thai của
chúng thông qua các dạng nhau thai khác nhau,
tương tự như ở động vật có vú (Pianka & Vitt,
2003, các trang 116-118). Chúng thường cũng
có sự chăm sóc ban đầu đáng kể cho các con
non mới sinh.
Mục lục
 1 Phân loại bò sát
o 1.1 Các nhóm bò sát
o 1.2 Cây họ hàng
 2 Sự tiến hóa của bò sát
o 2.1 Sự tuyệt chủng của khủng long
 3 Các hệ thống trong cơ thể
o 3.1 Tuần hoàn
o 3.2 Hô hấp
o 3.3 Bài tiết
o 3.4 Thần kinh
o 3.5 Sinh sản
 4 Kỹ năng tự vệ
 5 Xem thêm
 6 Tham khảo
 7 Liên kết ngoài
Phân loại bò sát



Bò sát (nghĩa truyền thống) là một nhóm cận
ngành. Nhóm này có thể biến thành đơn ngành
khi cộng gộp cả lớp Chim (Aves). Nhóm đơn
ngành mới tạo ra này tương đương với lớp Mặt
thằn lằn (Sauropsida), nhưng nó vẫn không
chứa các tổ tiên đã tuyệt chủng (cũng là bò sát)
của lớp Thú (Mammalia).
Từ quan điểm của phân loại học cổ điển, bò sát
bao gồm tất cả các loài động vật có màng ối còn
lại sau khi trừ đi chim và động vật có vú. Vì thế
bò sát đã được định nghĩa như là một tập hợp
các loài động vật bao gồm cá sấu, cá sấu Mỹ,
tuatara, thằn lằn, rắn, thằn lằn có gai, rùa, được
nhóm cùng nhau như là lớp Reptilia (từ tiếng
Latinh repere, "trườn, bò"). Nó vẫn là định
nghĩa thông thường của thuật ngữ này.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều nhà
phân loại học đã bắt đầu cho rằng các đơn vị
phân loại phải đảm bảo yếu tố đơn ngành, nghĩa
là đơn vị phân loại đó phải bao gồm tất cả các
hậu duệ từ một dạng cụ thể nào đó. Bò sát theo
như định nghĩa ở phần trên là một nhóm cận
ngành, do nó đã loại ra cả chim và động vật có
vú, mặc dù cả hai lớp này cũng đều phát triển và
tiến hóa từ bò sát nguyên thủy. Colin Tudge đã
viết (bản dịch):
Động vật có vú là một nhánh đơn ngành, và
vì thế các nhà miêu tả nhánh học là vui

mừng khi biết rằng đơn vị phân loại truyền
thống Mammalia; và cả chim đều là các
nhánh đơn ngành, nói chung được quy cho
đơn vị phân loại chính thức Aves.
Mammalia và Aves trên thực tế là các phân
nhánh trong nhánh lớn của Amniota (động
vật có màng ối). Nhưng lớp truyền thống
Reptilia lại không phải là một nhánh đơn
ngành. Nó chỉ đơn thuần là một đoạn của
nhánh Amniota: đoạn này là phần còn lại
sau khi đã loại trừ Mammalia và Aves. Nó
không thể được định nghĩa theo các đặc
trưng được chia sẻ trong nhóm đang nghiên
cứu mà không có ở các nhóm ngoài, theo
như đúng cách. Thay vì thế, nó được định
nghĩa bằng tổ hợp của các đặc trưng mà nó
có lẫn với các đặc trưng mà nó không có:
Bò sát là động vật có màng ối, không có cả
lông mao lẫn lông vũ. Tốt nhất, các nhà
miêu tả theo nhánh gợi ý là chúng ta nên nói
về lớp Reptilia truyền thống là 'các động vật
có màng ối, không là chim và không là động
vật có vú'. (Tudge, trang 85)
Với cùng dấu hiệu đó, lớp Amphibia (động
vật lưỡng cư) trở thành Amphibia*, do từ
một số động vật lưỡng cư cổ đại đã sinh ra
tất cả các động vật có màng ối; và ngành
Crustacea (động vật giáp xác) trở thành
Crustacea*, do từ nó có thể đã sinh ra côn
trùng và động vật nhiều chân (động vật trăm

chân và nghìn chân). Nếu chúng ta tin,
giống như một số (không phải tất cả) các
nhà động vật học đã tin, thì động vật nhiều
chân đã sinh ra côn trùng, khi đó họ phải
gọi chúng là Myriapoda* bằng quy ước
này thì Reptilia không có dấu hoa thị là từ
đồng nghĩa với Amniota, và bao gồm cả
chim và động vật có vú, trong đó Reptilia*
nghĩa là các động vật có màng ối không là
chim, không là động vật có vú. (Tudge, trang
85)
Các dẫn chiếu gần đây ở cấp độ đại học, chẳng
hạn Benton (2004) [1], đã đưa ra một thỏa hiệp
khác bằng cách áp dụng các cấp bậc truyền
thống để chấp nhận các mối quan hệ phát sinh
loài. Trong trường hợp này, bò sát thuộc về lớp
Sauropsida (mặt thằn lằn), và các bò sát giống
như động vật có vú thuộc về lớp Synapsida (một
cung bên hay cung thú), với chim và động vật
có vú đã tách ra thành các lớp truyền thống của
chúng.
Các nhóm bò sát
Phân loại dưới đây là sự mở rộng của lớp
Reptilia để chứa cả các tổ tiên đã tuyệt chủng
của chim và động vật có vú, phù hợp với quan
điểm của phát sinh loài học. Như vậy, nó là
tương đương với Động vật có màng ối
(Amniota).
 Lớp Synapsida: Mặt thú
o Bộ Pelycosauria*

o Bộ Therapsida
 Lớp Mammalia
 Lớp Sauropsida: Mặt thằn lằn
o Họ Captorhinidae (tuyệt chủng)
o Họ Protorothyrididae - Hylonomus (tuyệt
chủng)
o Phân lớp Anapsida
 Họ Mesosauridae (tuyệt chủng)
 Bộ Procolophonia - bao gồm cả
Pareiasaur (tuyệt chủng)
 ? Bộ Testudines - Các loài rùa, ba
ba, vích, đồi mồi
o Phân lớp Diapsida
 Siêu bộ Ichthyopterygia -
Ichthyosaur (tuyệt chủng)
 Cận lớp Lepidosauromorpha
 Siêu bộ Sauropterygia -
Plesiosaur (tuyệt chủng)
 Siêu bộ Lepidosauria
 Bộ Sphenodontia - Tuatara
 Bộ Squamata - Thằn lằn và
rắn
 Cận lớp Archosauromorpha
 Bộ Crocodilia - Cá sấu
 Bộ Pterosauria - Pterodactyl
(tuyệt chủng)
 Siêu bộ Dinosauria - Khủng long
 Lớp Aves - Chim
[sửa] Cây họ hàng
Am

niot
a

Synapsida

Rep
tilia

unn
ame
d
Anap
sida
Mesosauridae

unn
ame
d
Millerettidae

unn
ame
d
Lanthanosuch
idae

unn
ame
d
Nyctiphr

uretia

unn
ame
d
Pareiasa
uria
Procolop
honoidea




?Testudi
nes









Rom
eriid
Captorhinidae





a unna
med

Protorothyrididae
*

Dia
psid
a
Araeoscelidia

unna
med

Younginif
ormes

Sa
uri
a
?Ichthyos
auria

?Sauropte
rygia

Lepidosau
romorpha


Archosaur
omorpha













[sửa] Sự tiến hóa của bò sát


Một con cá sấu Mỹ con
tại Georgetown, South Carolina
Hylonomus là bò sát cổ nhất đã biết, và chúng
dài khoảng 20-30 cm (8-12 inch). Westlothiana
đã được cho là bò sát cổ nhất, nhưng ngày nay
người ta cho rằng chúng có quan hệ họ hàng gần
gũi với động vật lưỡng cư hơn là so với động
vật có màng ối. Petrolacosaurus và Mesosaurus
là các ví dụ khác. Những động vật đầu tiên được
coi là "bò sát" thực thụ (Sauropsida) được phân
loại như là Anapsida (phân lớp không cung),
chúng có hộp sọ liền khối với các hốc chỉ dành

cho mũi, mắt, tủy sống, v.v. Các loài rùa được
coi là những động vật còn sống sót thuộc về
phân lớp Anapsida, do chúng chia sẻ cấu trúc
hộp sọ như thế; nhưng điểm này sau đó đã gây
ra tranh cãi, với một số người cho rằng rùa đã
trở lại với trạng thái nguyên thủy này nhằm
hoàn thiện áo giáp của chúng. Cả hai luồng ý
kiến đều có các chứng cứ hỗ trợ đủ mạnh, và
mâu thuẫn này vẫn chưa được giải quyết.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi có những bò sát
thực sự đầu tiên, hai nhánh đã được tách ra, một
nhánh dẫn tới Anapsida, chúng đã không phát
triển các hốc khác trên hộp sọ của mình. Nhánh
kia là Diapsida (phân lớp Hai cung), chúng có
được một cặp lỗ trên hộp sọ của mình ngay phía
sau mắt, cùng với cặp lỗ thứ hai nằm cao hơn
phía trên hộp sọ. Diapsida lại chia nhánh một
lần nữa thành hai dòng trực hệ, là cận lớp
Lepidosauromorpha (các đại diện ngày nay còn
lại là rắn, thằn lằn và thằn lằn gai lưng (tuatara),
cũng như chứa cả các loài bò sát biển (đang
tranh cãi) đã tuyệt chủng trong đại Trung Sinh)
và cận lớp Archosauromorpha (các đại diện
ngày nay còn tồn tại chỉ là cá sấu và chim,
nhưng đã từng chứa cả thằn lằn có cánh (bộ
Pterosauria) và khủng long (bộ Dinosauria).
Những động vật có màng ối với hộp sọ liền khối
đầu tiên cũng sinh ra một nhánh khác, đó là
Synapsida (lớp Một cung hay lớp Mặt thú).
Synapsida đã phát triển một cặp lỗ trong hộp sộ

của chúng ngay phía sau mắt (tương tự như ở
Diapsida), được sử dụng vừa là để làm nhẹ hộp
sọ vừa để tăng không gian cho các cơ quai hàm.
Synapsida cuối cùng tiến hóa thành động vật có
vú, và thông thường được coi là các loài bò sát
trông tương tự động vật có vú, mặc dù chúng
không phải là các thành viên thực sự của lớp
Sauropsida.
[sửa] Sự tuyệt chủng của khủng long
Cuối kỷ Creta, nhiều loài động vật bò sát bị
tuyệt chủng, trong đó có khủng long. Chỉ một số
loài có kích thước nhỏ sống sót như rắn, rùa
biển và một số dạng sau này tiến hóa thành
chim và thú. Sự kết thúc của "Thời đại bò sát"
mở ra "Thời đại của Thú". Mặc dù vậy, bò sát
vẫn là một nhóm động vật chính trong hệ sinh
thái, đặc biệt là ở vùng nhiệt đới. Có khoảng
8.200 loài bò sát đang tồn tại (trong số đó gần
một nửa là rắn), trong khi thú có 5.400 loài
(trong số đó hai phần ba là các loài Gặm nhấm
và các loài dơi). Nhóm phân loại hiện nay có số
lượng cao nhất có nguồn gốc từ bò sát là các
loài chim với trên 9.000 loài.
[sửa] Các hệ thống trong cơ thể
[sửa] Tuần hoàn


Hình ảnh ghi nhiệt của kỳ đà.
Phần lớn các loài bò sát có hệ tuần hoàn khép
kín thông qua tim ba ngăn, bao gồm 2 tâm nhĩ

và 1 tâm thất được phân chia một cách thay đổi.
Thông thường có mọt cặp động mạch chủ. Mặc
dù điều đó, nhưng do động lực học chất lỏng
của luồng máu thông qua tim, nên đã có rất ít sự
pha trộn của máu giàu ôxy và máu nghèo ôxy
trong tim ba ngăn. Ngoài ra, luồng máu có thể bị
ngăn lại để đổi hướng hoặc là máu nghèo ôxy
tới các cơ quan khác trong cơ thể hoặc là máu
giàu ôxy tới phổi, điều này giúp cho bò sát khả
năng kiểm soát cao hơn đối với luồng chảy của
máu của chúng, cho phép chúng có sự điều
chỉnh thân nhiệt có hiệu quả hơn cũng như tăng
thời gian lặn dưới nước lâu hơn đối với các loài
sinh sống dưới nước. Tuy nhiên, ở đây có một
vài ngoại lệ thú vị đối với bò sát. Ví dụ, các loài
cá sấu có tim bốn ngăn phức tạp một cách đáng
ngạc nhiên nhưng có khả năng hoạt động như là
tim ba ngăn khi chúng lặn dưới nước (Mazzotti,
1989, trang 47). Ngoài ra, người ta cũng phát
hiện ra rằng một số loài rắn và thằn lằn (chẳng
hạn kỳ đà và trăn) có tim ba ngăn nhưng có thể
hoạt động tựa như tim bốn ngăn khi co bóp.
Điều này là có thể được là do dải cơ phân chia
tâm thất trong kỳ tâm trương và phân chia hoàn
toàn nó trong kỳ tâm thu. Do dải cơ này, một số
bò sát trong nhóm Squamata này có thể tạo ra
các chênh lệch áp suất tâm thất tương tự như ở
tim của chim và động vật có vú (Wang và
những người khác, 2003).
[sửa] Hô hấp

Tất cả bò sát đều sử dụng phổi để thở. Tuy
nhiên, ở các loài rùa sống dưới nước chúng còn
phát triển lớp da dễ thấm khí hơn, và thậm chí
đối với một số loài còn có cả mang trong khu
vực hậu môn của chúng (xem Orenstein, 2001).
Mặc dù có các cơ chế thích nghi như vậy, nhưng
quá trình hô hấp vẫn không thể thực hiện được
hoàn hảo mà không có phổi. Sự thông khí tại
phổi được thực hiện rất khác nhau trong mỗi
nhóm bò sát chính. Ở Squamata thì các phổi
được thông khí gần như là chỉ bằng hệ thống cơ
quanh trục. Đây cũng là hệ thống cơ được sử
dụng khi chúng vận động. Do sự ép buộc này,
phần lớn bò sát thuộc nhóm Squamata buộc phải
nín thở khi phải chạy nhanh. Tuy nhiên, một số
loài đã tìm ra cách đi vòng qua điều đó. Các loài
kỳ đà, và một số ít loài thằn lằn khác đã tận
dụng cơ chế bơm miệng (thở bằng miệng) như
là sự bổ sung cho "hô hấp trục" thông thường
của chúng. Điều này cho phép chúng thu đủ
lượng không khí cần thiết cho phổi khi phải vận
động mạnh, và vì thế chúng duy trì được các
hoạt động hô hấp trong một thời gian dài. Thằn
lằn tegu được biết đến như là có được loại cơ
tựa như cơ hoành, nó ngăn cách khoang phổi ra
khỏi khoang chứa nội tạng khác. Trong khi nó
không thực sự có khả năng chuyển động, nhưng
nó cho phép thổi phồng phổi nhiều hơn, bằng
cách giảm khối lượng của nội tạng đè lên phổi
(Klein và những người khác, 2003). Cá sấu có

cơ hoành thực sự giống như ở động vật có vú.
Sự khác biệt là ở chỗ các cơ của cơ hoành cá
sấu kéo xương mu (một phần của khung xương
chậu, nó là chuyển động được ở cá sấu) trở lại,
làm cho gan chuyển động xuống dưới và vì thế
tăng không gian tự do cho phổi nở rộng. Kiểu
thiết lập cơ hoành như thế này được coi là "pít-
tông gan".
Các loài rùa thở như thế nào hiện vẫn đang là
chủ đề để nghiên cứu. Tới nay, chỉ một số ít loài
rùa được nghiên cứu tường tận đủ để đưa ra ý
tưởng rùa thở thế nào. Các kết quả chỉ ra rằng
rùa nói chung có nhiều giải pháp cho vấn đề
này. Vấn đề là ở chỗ phần lớn các mai rùa là
cứng nhắc và không cho phép bất kỳ kiểu mở
rộng và co bóp nào mà các động vật có màng ối
khác đã sử dụng để thông khí cho phổi của
chúng. Một số loài rùa như ba ba lưng dẹp Ấn
Độ (Lissemys punctata) có tấm cơ làm màng
bao phổi. Khi nó co bóp, ba ba có thể hít thở.
Khi nghỉ ngơi, con ba ba này có thể co các chi
lại vào trong khoang cơ thể và đẩy không khí ra
khỏi phổi. Khi nó kéo dài các chi ra thì áp suất
bên trong phổi bị giảm xuống và con ba ba có
thể hít không khí vào. Phổi của rùa gắn liền với
mặt trong của mai, và phần đáy của phổi gắn
liền (thông qua mô kết nối) với phần còn lại của
nội tạng. Bằng cách sử dụng một loạt các cơ đặc
biệt (có tác dụng như cơ hoành), rùa có khả
năng xô đẩy nội tạng của nó lên và xuống, tạo ra

sự hô hấp có hiệu quả, do pần nhiều trong các
cơ này có các điểm gắn kết được kết nối với các
chi trước (trên thực tế, nhiều cơ mở rộng vào
các túi chứa chi trong quá trình co bóp). Sự hô
hấp trong quá trình vận động đã được nghiên
cứu ở ba loài, và chúng thể hiện các kiểu hô hấp
khác nhau. Vích (Chelonia mydas) cái trưởng
thành không hít thở khi chúng bò dọc theo bãi
biển nơi làm tổ của chúng. Chúng nín thở khi
vận động trên mặt đất và hít thở khi dừng lại.
Rùa hộp Bắc Mỹ (chi Terrapene) thở liên tục
trong khi vận động, và chu kỳ thông khí không
khớp với các chuyển động của chi (Landberg và
những người khác, 2003). Có lẽ chúng sử dụng
các cơ bụng để thở trong khi vận động. Loài
cuối cùng được nghiên cứu là rùa tai đỏ
(Trachemys scripta elegans), nó cũng hít thở khi
vận động, nhưng chúng có hơi thở nhỏ hơn
trong khi vận động khi so sánh với hơi thở trong
những khoảng dừng ngắn giữa các vận động, chỉ
ra rằng có thể có sự can thiệp cơ học giữa các
chuyển dộng của chi và hệ thống hô hấp. Các
loài rùa hộp cũng được quan sát thấy có hít thở
khi rụt vào bên trong mai của chúng (cùng cuốn
sách đó).
Phần lớn bò sát thiếu vòm miệng thứ cấp, nghĩa
là chúng phải nín thở khi nuốt thức ăn. Các loài
cá sấu đã tiến hóa vòm miệng thứ cấp bằng chất
xương cho phép chúng vẫn tiếp tục thở được
trong khi vẫn ở dưới nước (và bảo vệ não của

chúng khỏi những va đạp trong khi vật lộn với
con mồi). Thằn lằn chân ngắn (họ Scincidae)
cũng đã có vòm miệng thứ cấp bằng xương, ở
các mức độ khác nhau. Rắn lại có cách tiếp cận
khác là mở rộng khí quản của chúng. Phần mở
rộng khí quản của chúng phình ra tương tự như
một ống nhỏ nhiều thịt và cho phép chúng nuốt
các con mồi lớn hơn mà không bị ngạt thở.
Ngoài ra, cá sấu còn được biết đến như là
"khóc" khi ăn. Nhiều chuyện kể trong dân gian
đã gắn liền với thực tế ngạc nhiên này, chẳng
hạn như là do cá sấu cảm thấy có tội khi ăn,
nhưng trên thực tế, chúng tiết nước mắt ra là để
giải phóng các chất lỏng ra khỏi cơ thể nhằm
giữ chỗ cho không khí để có thể thở. Việc này
cũng là do một thực tế là khoang mũi của cá sấu
là rất nhỏ.
[sửa] Bài tiết
Sự bài tiết được thực hiện chủ yếu là bằng hai
quả thận nhỏ. Ở các loài bò sát Hai cung
(Diapsida) thì axít uric là chất thải chính có
chứa nitơ. Rùa, tương tự như động vật có vú,
chủ yếu là bài tiết ra urê. Không giống như thận
của động vật có vú và chim, thận của bò sát
không có khả năng tạo ra nước tiểu có nồng độ
urê cao hơn so với dịch lỏng trong cơ thể. Có
điều này là do chúng thiếu cấu trúc đặc biệt tại
các nephron như của chim và động vật có vú,
gọi là vòng Henle. Do điều này, nhiều loài bò
sát sử dụng ruột kết và lỗ huyệt để hỗ trợ việc

tái hấp thụ nước. Một số loài còn có khả năng
lấy nước lưu trữ trong bàng quang. Lượng muối
dư thừa cũng được bài tiết ra nhờ các tuyến
muối ở khoang mũi hay lưỡi ở một số loài bò
sát.
[sửa] Thần kinh
Hệ thần kinh của bò sát tiến hóa hơn so với
động vật lưỡng cư. Chúng có 12 cặp dây thần
kinh hộp sọ.
[sửa] Sinh sản
Phần lớn động vật bò sát sinh sản hữu tính. Gần
như tất cả các bò sát đực, ngoại trừ rùa, có một
ống kép giống như cơ quan sinh dục gọi là bán
dương vật (hemipenes). Các loài rùa đực có một
dương vật. Tất cả các loài rùa đều đẻ trứng,
không giống như một số loài thằn lằn và rắn có
khả năng sinh ra con non. Hoạt động sinh sản
diễn ra thông qua một lỗ huyệt (cloaca), lối
ra/vào duy nhất ở gốc đuôi, tại đó sự bài tiết
chất thải cũng như sinh sản diễn ra.
Sinh sản vô tính đã được ghi nhận ở một số họ
thuộc bộ Squamata như 6 họ thằn lằn và 1 họ
rắn. Trong một số loài bò sát thuộc bộ này thì
các bò sát cái có khả năng sinh ra bản sao lưỡng
bội đơn tính từ con mẹ. Sự sinh sản vô tính diễn
ra ở một số loài thạch sùng và tắc kè (họ
Gekkonidae), và hoạt động này là khá phổ biến
ở thằn lằn tegu (họ Teiidae, đặc biệt là chi
Aspidocelis) và thằn lằn chính thức (họ
Lacertidae, chi Lacerta). Sinh sản vô tính cũng

được cho là có ở tắc kè hoa (họ
Chamaeleonidae), kỳ nhông (họ Agamidae),
thằn lằn đêm (họ Xantusiidae) và rắn giun (họ
Typhlopidae).
Trứng có màng ối được bao phủ bằng lớp vỏ
chứa canxi hay vỏ da. Các màng ối, màng đệm
và niệu nang đều có trong thời kỳ sự sống ở
dạng phôi thai. Không có giai đoạn ấu trùng
trong quá trình phát triển.

×