Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận cao học môn lý LUẬN ĐẢNG cầm QUYỀN NGUYỄN THỊ DIỆU OANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.33 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………...1
CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM CHUNG VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN,
ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN VÀ NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN…………………………………….2
1.1. Quan niệm chung về Đảng cầm quyền……………………………...2
1.2. Quan niệm chung về Đảng Cộng sản cầm quyền…………………...3
1.3. Quan điểm về Đảng Cộng sản cầm quyền, về nội dung, phương thức
của Đảng Cộng sản cầm quyền trong chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh…………………………………………………………………………….4
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC CẦM QUYỀN CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM……………………………………………...8
2.1. Nội dung, phương thức cầm quyền nói chung của Đảng…………...8
2.2. Nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng ta trong từng thời kỳ và
hoàn cảnh cụ thể……………………………………………………………….11
CHƯƠNG 3: ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC CẦM
QUYỀN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM……………………………17
3.1. Phương thức cầm quyền của Đảng phải được đổi mới để đáp ứng
tính đặc thù của điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền……………………..17
3.2. Một số giải pháp cơ bản đổi mới nội dung và phương thức cầm
quyền của Đảng………………………………………………………………..19
KẾT LUẬN…………………………………………………………….26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………..27

1


MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ năm 1930, cho đến nay đã được hơn
81 năm, và ngay từ khi ra đời Đảng đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng
Việt Nam và trở thành nhân tố quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng


lợi này đến thắng lợi khác. Nhưng phải đến sau thắng lợi của cuộc cách mạng
Tháng Tám năm 1945, Đảng ta mới chính thức trở thành Đảng cầm quyền, thực
hiện lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội.
Từ khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng ta đã thực hiện tốt vai trò và
nhiệm vụ chính trị của mình, lãnh đạo thành cơng Nhà nước và toàn xã hội,
thực hiện phát triển kinh tế, ổn định chính trị, đảm bảo cơng bằng xã hội tất cả
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh. Tuy
nhiên, bên cạnh đó sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng vẫn còn bộc lộ nhiều
hạn chế và bất cập, làm giảm hiệu quả lãnh đạo của Đảng lẫn hiệu lực quản lý
của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân, làm giảm sút lòng tin của nhân
dân vào Đảng.
Đặc biệt là giai đoạn hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo Nhà nước và toàn
xã hội thực hiện đổi mới tồn diện và hội nhập quốc tế thì sự cầm quyền của
Đảng càng được quan tâm, nghiên cứu đặc biệt là về nội dung và phương thức
cầm quyền của Đảng làm sao cho phù hợp với điều kiện và tình hình mới, đảm
bảo sự cầm quyền và lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đây là vấn đề có tính thời
sự, cấp thiết, việc nghiên cứu nó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Vậy thì, Đảng cầm quyền là gì? Mục đích, nội dung và phương thức cầm
quyền của Đảng ra sao? Cần phải làm gì để có thể đổi mới nội dung và phương
thức cầm quyền của Đảng ta đáp ứng được yêu cầu của điều kiện mới? Chính vì
những lý do cấp thiết trên mà tơi chọn đề tài: “Tìm hiểu nội dung, phương
thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam” làm đề tài kết thúc học phần:
“Lý luận về Đảng cầm quyền” của mình.
2


CHƯƠNG 1:
QUAN NIỆM CHUNG VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN,
ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN VÀ NỘI DUNG,
PHƯƠNG THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN

1.1. Quan niệm chung về Đảng cầm quyền
1.1.1. Khái niệm Đảng chính trị
Có nhiều định nghĩa khác nhau về đảng chính trị, ở đây tác giả đưa ra
một khái niệm chung nhất: Đảng chính trị là một thiết chế tổ chức quy tụ những
người có chung lợi ích và khuynh hướng tư tưởng nhằm vươn tới quyền lực
chính trị để hiện thực hóa lợi ích cũng như khuynh hướng tư tưởng đó trên quy
mơ tồn xã hội.
Mục tiêu của đảng chính trị trước hết là giành quyền lực nhà nước và sử
dụng quyền lực đó cho các mục tiêu lợi ích của đảng. Khi giành được quyền lực
nhà nước, đảng đó trở thành đảng cầm quyền. Ý chí của đảng cầm quyền trở
thành ý trí của chính quyền và xã hội. Trong xã hội dân chủ, đảng chính trị phải
là đảng hợp pháp: được pháp luật thừa nhận về tổ chức và hoạt động chính trị
theo khn khổ của pháp luật.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của Đảng cầm quyền
Khái niệm: Đảng cầm quyền là đảng chi phối được quyền lực nhà nước,
sử dụng quyền lực và bộ máy nhà nước để làm cho đường lối, mục tiêu, chính
sách của đảng được thực hiện trên quy mơ tồn xã hội.
Đặc điểm của đảng cầm quyền:
Thứ nhất, Nói tới đảng cầm quyền tức là nói tới vị thế của đảng trong sự
so sánh với các đảng chính trị khác – những đảng không cầm quyền.
Thứ hai, Đảng cầm quyền là đảng nắm giữ những vị trí chủ chốt của bộ
máy nhà nước để kiểm sốt q trình hoạch định và thực thi chính sách quốc
gia.

3


Thứ ba, Đảng cầm quyền là đảng lãnh đạo người của mình trong bộ máy
nhà nước thực hiện các mục tiêu phát triển của đảng thơng qua các chính sách
của Nhà nước.

1.2. Quan niệm chung về Đảng Cộng sản cầm quyền
1.2.1. Khái niệm Đảng Cộng sản cầm quyền
Đảng Cộng sản cầm quyền là đảng lãnh đạo toàn bộ xã hội, quy tụ sức
mạnh của toàn bộ dân tộc để làm cho quan điểm của Đảng giữ vai trò chỉ đạo
đối với toàn xã hội, mục tiêu của Đảng được thực hiện bằng sứ mệnh của toàn
bộ dân tộc và vai trị đó được xác định trong Hiến pháp.
Đảng Cộng sản cầm quyền là Đảng lãnh đạo toàn diện đối với Nhà nước
và toàn xã hội, chịu trách nhiệm đối với mọi thành cơng và thiếu sót trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống
xã hội chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước, đây là kênh đặc biệt, là
ưu thế của đảng cầm quyền và nó mạng lại hiệu quả cao nhất. Đảng lãnh đạo là
để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, đây là thước đo sự trưởng
thành của Đảng.
1.2.2. Điều kiện đảm bảo và sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản cầm
quyền
Phương thức xác định vị trí cầm quyền của đảng phổ biến trong thời gian
qua đó là: lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền từ đó trở thành Đảng cầm
quyền; Đối với nhiều đảng tư sản thì thơng qua hai con đường: một là, bằng con
đường nghị trường, bầu cử mà đảng đó trở thành đảng cầm quyền hoặc liên
minh với đảng khác (nếu thiếu ghế trong Quốc hội), hai là, bằng con đường
đảng đấu tranh giành quyền lực Nhà nước để trở thành Đảng cầm quyền
(trường hợp này rất ít).
Điều kiện đảm bảo duy trì vị trí cầm quyền của Đảng: Mọi đảng nói
chung và Đảng Cộng sản nói riêng thì điều kiện tiên quyết nhất là đường lối của
đảng đó phải đáp ứng được khát vọng của nhân dân. Đối với Đảng Cộng sản thì
4


như Lênin nói: Đảng phải là biểu tường về danh dự, lương tâm, trí tuệ của một
thời đại, điều đó thể hiện Đảng đó phải có phẩm chất tốt đẹp vì nhân dân và

phải là đảng trí tuệ.
Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản cầm quyền: Hoạch định cho được
một đường lối chiến lược đúng; Xây dựng một Nhà nước thực sự của dân, do
dân, vì dân; Đào tạo được một đội ngũ cán bộ cầm quyền đủ phẩm chất và năng
lực hoàn thành nhiệm vụ; Phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc dưới sự
lãnh đạo của đảng.
1.3. Quan điểm về Đảng Cộng sản cầm quyền, về nội dung, phương
thức của Đảng Cộng sản cầm quyền trong chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh
1.3.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
Thứ nhất, Quan điểm của chủ nghĩa mác – Lênin về Đảng Cộng sản cầm
quyền:
Tư tưởng về Đảng Cộng sản cầm quyền là một trong những nội dung
quan trọng được chủ nghĩa Mác – Lênin đề cập đến. Tuy nhiên ở thời kỳ Mác
và Ăngghen thì do giai cấp vơ sản trong thực tế chưa giành được chính quyền
và chưa có một nhà nước của mình, nên các ơng chưa có điều kiện đề cập đến
và có những quan điểm cụ thể về vấn đề này. Chỉ đến đầu thế kỷ XX, trong
những điều kiện mới, kế thừa những di sản tư tưởng, quan điểm cơ bản của các
ông, Lênin đã phát triển và có những luận điểm sâu sắc về vấn đề cầm quyền
của Đảng Cộng sản (Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga, Đảng Bơnsêvích
Nga).
Trong nhiều bài nói, bài viết của mình, Lênin đã nhiều lần sử dụng những
thuật ngữ, khái niệm như “đảng cầm quyền”, “đảng chấp chính”, “đảng lãnh
đạo”…. Theo ơng, đảng cầm quyền có nghĩa là đảng lãnh đạo nhà nước hay
đảng lãnh đạo nhà nước khi đã cầm quyền. Trong mối quan hệ giữa đảng và nhà
nước Lênin đặc biệt nhấn mạnh đến việc phải phân định rõ ràng chức năng và
5


nhiệm vụ của đảng và nhà nước. Bên cạnh đó, Lênin cũng chỉ ra rằng, Đảng

Cộng sản Nga cầm quyền tức là Đảng không chỉ lãnh đạo Nhà nước mà là lãnh
đạo cả xã hội, và việc nhất thể hóa một số bộ phận, hoặc cán bộ lãnh đạo của
Đảng và chính quyền, sẽ khơng ảnh hưởng đến hiệu quả cơng việc của cả Đảng
và chính quyền. Theo Lênin, điều quan trọng là phải nhận thức sâu sắc rằng,
Đảng có chức năng lãnh đạo, cịn nhà nước có chức năng quản lý hành chính.
Thứ hai, Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nội dung cầm quyền
của Đảng Cộng sản:
Nội dung cầm quyền, lãnh đạo của đảng cầm quyền đối với nhà nước thể
hiện chủ yếu và trước hết ở việc đảng xác định các mục tiêu mang tính chất
định hướng trong các chủ trương, đường lối, cương lĩnh, nghị quyết của mình.
Trong các chủ trương, đường lối, cương lĩnh, nghị quyết của mình, đảng cịn
phải xác định cả những nhiệm vụ cho đảng và nhà nước. Việc xác định các
nhiệm vụ của đảng và nhà nước trong các cương lĩnh, nghị quyết của đảng cần
phải có sự định hướng vào các nhiệm vụ cấp thiết và mấu chốt. Tức là cần xác
định các nhiệm vụ trọng yếu và phải tập trung vào giải quyết chúng.
Theo quan điểm của Lênin, trong nội dung lãnh đạo của đảng đối với nhà
nước, đảng không nên đề ra các nhiệm vụ quá chi tiết, nội dung giải quyết công
việc quá cụ thể. Đảng chỉ cần định ra các phương hướng, nhiệm vụ chung về
các mặt và nguyên tắc chung về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ ba, Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về phương thức cầm
quyền của Đảng Cộng sản:
Phương thức cầm quyền, lãnh đạo của đảng đối với nhà nước được Lênin
đề cập đến khá rõ nét đó là:
- Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước bằng việc đề ra các chủ trương,
đường lối, cương lĩnh, chỉ thị, nghị quyết của đảng.
- Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước thông qua các tổ chức Đảng, đội
ngũ cán bộ, đảng viên của đảng trong bộ máy nhà nước.
6



- Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước bằng công tác kiểm tra.
- Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước thông qua công tác vận động quần
chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
Sinh thời, Hồ Chí Minh từng nhiều lần khẳng định, Đảng ta là đảng cầm
quyền. Trong bản di chúc Người khẳng định một lần nữa: Đảng ta là một đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành
của nhân dân.
Với tư cách là đảng cầm quyền, vấn đề đảng lãnh đạo chính quyền được
Hồ Chí Minh coi là một nguyên tắc để đảm bào nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân. Những quan điểm chủ yếu sau đây của Hồ Chí Minh thể hiện
nguyên tắc đó:
- Mục tiêu sự lãnh đạo của Đảng là đảm bảo cho nhà nước giữ vững và
tăng cường bản chất giai cấp công nhân.
- Trong quá trình lãnh đạo Nhà nước, Đảng cần phải chú ý bảo đảm cho
bộ máy chính quyền cũng như cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp: theo Hồ Chí
Minh, yêu cầu đầu tiên trong sự lãnh đạo của đảng cầm quyền là phải đề ra
được đường lối, chủ trương đúng đắn. Đường lối đó phải được thể chế hóa bằng
Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước.
Trong điều kiện đảng cầm quyền, theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì
với tư cách là tổ chức chính trị cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra
đường lối chủ trương và vận dụng, thuyết phục các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội tham gia các phong trào cách mạng biến chủ trương, đường lối thành
hiện thực.

7



Khi đề cập đến vấn đề mối quan hệ giữa Đảng với dân trong điều kiện
Đảng cầm quyền, Người nhấn mạnh phải chú ý các vấn đề:
- Đảng phải luôn chú ý lắng nghe ý kiến của nhân dân, khiêm tốn học hỏi
nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân để xây dựng chế độ mới. Một
đảng cầm quyền chân chính đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động thì mặc
nhiên, đảng đó phải thường xun lấy nguồn gốc sức mạnh từ chính nhân dân.
- Đảng phải vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng dưới nhiều hình
thức, bao gồm đóng góp ý kiến cho Đảng, nhất là trong việc xây dựng đường
lối chủ trương của Đảng.
- Đảng phải tìm cách nâng cao dân trí cho nhân dân, đây là trách nhiệm
của Đảng.
- Đảng không được theo đuôi quần chúng, mà phải tuyên truyền giác ngộ
quần chúng, làm cho nhân dân giác ngộ cách mạng, sẵn sàng đem sức mình
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng.
- Đảng phải xác định rõ trách nhiệm của mình: vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Về việc xây dựng một đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh theo Hồ
Chí Minh, điều đó thể hiện ở nhiều nội dung: từ bảo vệ hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân trong xây dựng đường lối, chiến lược và sách lược, đến xây dựng tổ
chức, bộ máy của Đảng và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng vừa
chuyên, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn cách mạng. Mỗi nội
dung trên bao gồm nhiều nội dung nhỏ, chi tiết hơn. Song, về tổng thể, các nội
dung này đều nằm trong mối quan hệ biện chứng, chế định khăng khít lẫn nhau,
tạo thành tổng thể thống nhất trong mục tiêu xây dựng đảng cầm quyền trong
sạch, vững mạnh, có đầy đủ khả năng lãnh đạo cách mạng đi tới mục tiêu chung
của dân tộc.

8



CHƯƠNG 2:
NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC CẦM QUYỀN CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Nội dung, phương thức cầm quyền nói chung của Đảng
2.1.1. Nội dung cầm quyền của Đảng
Với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân
về vận mệnh của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Nội dung cầm quyền
của Đảng xác định vị trí cầm quyền của Đảng, thể hiện quyền hạn và trách
nhiệm của Đảng trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước trong
từng thời kỳ nhất định, và trong từng lĩnh vực cụ thể, trong mối quan hệ quyền
lực cụ thể với Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân.
Nội dung cầm quyền của Đảng là toàn bộ hoạt động của Đảng cầm
quyền, từ việc xác định mục tiêu chính trị của Đảng và dân tộc, cho đến nội
dung thực hiện mục tiêu chính trị đó; nó bao qt tồn bộ các lĩnh vực của đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phịng, an ninh của đất
nước.
Thứ nhất, Trong lĩnh vực chính trị: việc hoạch định đường lối chính trị là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng. Để cầm quyền, lãnh đạo, Đảng có
trách nhiệm xác lập thể chế chính trị - xã hội của đất nước trên các mặt: cơ cấu
tổ chức chính trị - xã hội, cơ chế vận hành xã hội và những điều kiện đảm bảo
cho hai vấn đề trên.
Thứ hai, Trong lĩnh vực kinh tế: nội dung trọng tâm là việc xây dựng thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây được xem là mơ hình kinh tế
tổng quát của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Một vấn đề có tính quyết
định là phải đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất bằng con đường
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
9



Thứ ba, Trong lĩnh vực xã hội: Đảng phải phát huy sức mạnh của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, phát
triển các quan hệ xã hội lãnh mạnh, bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội, phát
triển con người, xây dựng một xã hội văn minh con người hạnh phúc.
Thứ tư, Trong lĩnh vực văn hóa: trên nền tảng xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng phải định hướng xây dựng một nền
văn hóa chính trị nói chung và văn hóa cầm quyền của Đảng nói riêng. Văn hóa
chính trị của Đảng, đến lượt mình, nó chỉ đạo việc lựa chọn mục tiêu, lý tưởng
chính trị; nó quy định đường lối, nội dung chiến lược phát triển đất nước.
Thứ năm, Trong quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội với tư cách là lực lượng của nhân dân: Đảng nắm Nhà nước bằng
cách hóa thân vào Nhà nước, đưa người vào giữ các chức vụ quan trọng của các
cơ quan nhà nước, lãnh đạo các cơ quan đó vận hành theo chủ trương, đường
lối của mình. Bằng phương thức cầm quyền, lãnh đạo của mình, Đảng làm cho
các cơ quan nhà nước vận hành đúng và có hiệu quả theo chức năng, trách
nhiệm của mình. Đảng cầm quyền thành cơng là ở chỗ lãnh đạo vì nhân dân,
lãnh đạo một cách dân chủ, theo pháp luật, đảm bảo khoa học.
2.1.2. Phương thức cầm quyền của Đảng
Phương thức cầm quyền của Đảng là hệ thống phương pháp, hình thức,
biện pháp mà Đảng vận dụng để sử dụng Nhà nước, tác động vào Nhà nước và
bằng Nhà nước nhằm thực hiện các nội dung cầm quyền, đạt mục tiêu cuối
cùng của Đảng.
Phương thức cầm quyền của Đảng cũng có nghĩa là Đảng xây dựng tổ
chức, thiết kế tổ chức bộ máy nhà nước thực hiện vai trò cầm quyền của mình.
Các phương thức cầm quyền của Đảng đối bao gồm:
Thứ nhất, Lãnh đạo thông qua các quan điểm, cương lĩnh chiến lược, các
đường lối, chủ trương, điều lệ, chỉ thị và các nghị quyết khác của Đảng đối với
tổ chức và hoạt động của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
10



Thứ hai, Lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ
trương của Đảng thành các quyết định của cơ quan công quyền. Nhà nước căn
cứ vào Nghị quyết của Đảng để cụ thể hóa thành kế hoạch phát triển kinh tế xac hội, các đạo luật, các nghị định, thông tư và các văn bản pháp quy khác,
nhằm thực hiện nghị quyết trong thực tiễn.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua các cơ quan lãnh đạo của
Đảng từ trung ương đến cơ sở.
Thứ tư, Đảng đưa người của Đảng vào những vị trí chủ chốt trong bộ
máy quyền lực nhà nước. Đảng đào tạo những đảng viên của Đảng thành những
người có phẩm chất chính trị, đạo đức, có chun mơn giỏi, có khả năng tuyên
truyền, vận động quần chúng để giới thiệu ứng cử bầu vào các cơ quan quyền
lực dân cử và giữ những chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước.
Thứ năm, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua công tác kiểm tra của các
tổ chức đảng. Nội dung của công tác kiểm tra là kiểm tra các tổ chức đảng và
đảng viên chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thứ sáu, Đảng lãnh đạo Nhà nước thơng qua tính tiền phong gương mẫu
của đảng viên.
Thứ bảy, Đảng cầm quyền, lãnh đạo bằng việc lấy dân làm gốc, dựa vào
sức dân, phát huy tối đa và hiệu quả sức mạnh của nhân dân. Điều đó nói lên
mục tiêu của Đảng là vì nhân dân mà cầm quyền.
Thứ tám, Đảng cầm quyền trên cơ sở trí tuệ, khoa học và nghệ thuật. Đó
là sự cầm quyền khéo léo, nhạy bén, linh hoạt đảm bảo sự kết hợp thực tế và
các sự kiện cụ thể.
Toàn bộ các phương thức cầm quyền của Đảng chủ yếu được thực hiện
thông qua sự lãnh đạo (với cách hiểu thuật ngữ lãnh đạo như ở nước ta hiện
nay) là nhằm thể chế hóa ý chí của Đảng thành hiến pháp, pháp luật, chính sách
của Nhà nước và lãnh đạo các tổ chức thực hiện ý chí đó.

11



2.2. Nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng ta trong từng thời
kỳ và hoàn cảnh cụ thể
2.2.1. Sự cầm quyền của Đảng chuyển từ giai đoạn chiến tranh sang
giai đoạn hịa bình
Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức trở thành Đảng cầm quyền từ sau
thành công của cuộc cách mạng Tháng tám năm 1945. Từ đây Đảng lãnh đạo
toàn diện đối với nhà nước và xã hội. Đảng chịu trách nhiệm về mọi thành cơng
và thiếu sót trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Do hoàn cảnh lịch sử đặc thù, sau khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng
Cộng sản Việt Nam lại phải lãnh đạo cả dân tộc tiến hành hai cuộc kháng chiến
đầy khó khăn, gian khổ kéo dài 30 năm đánh thắng hai đế quốc lớn là Pháp và
Mỹ nhằm giữ vững nền độc lập dân tộc mà Cách mạng Tháng Tám đã mang lại;
tiếp đó Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước đáng thắng hao cuộc chiến tranh biên
giới phí Bắc và Tây Nam của Tổ quốc. Kể từ đây, Đảng đã chuyển sang lãnh
đạo trong điều kiện hịa bình trên phạm vi cả nước.
Hồn cảnh đặc biệt nêu trên đã có tác động rất lớn tới năng lực và phẩm
chất cầm quyền của Đảng cả về mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực là qua
thực tiễn đấu tranh gay go, quyết liệt đó, bản lính chính trị của Đảng được rèn
luyện, được thử thách, tạo thành sự kiên định vững vàng của Đảng ngay cả
trong hồn cảnh vơ cùng phức tạp đó. Đi vào xây dựng đất nước trong hịa bình,
điều kiện có nhiều thuận lợi hơn, chính bản lĩnh có được trong hồn cảnh khó
khăn đó đã giúp Đảng ta vượt qua những khó khăn thử thách phần nào ít gay
gắt hơn thời chiến.
Về mặt hạn chế là Đảng ta tích lũy được một lượng kiến thức phong phú,
kinh nghiệm dồi dào về nội dung và phương thức cầm quyền phù hợp với thời
chiến; khi sang thời bình, những kinh nghiệm đó, những hiểu biết đó, phương
thức cầm quyền đó tuy là vơ cùng q báu, nhưng máy móc áp dụng chúng

12



trong thực tiễn khi tình hình đã thay đổi lại là nguy cơ lớn, làm giảm hiệu lực,
hiệu quả cầm quyền của Đảng.
Để giành lấy thắng lợi trong chiến tranh, phương thức cầm quyền của
Đảng ta chủ yếu là lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện. Đảng quyết định
từ chủ trương, đường lối chiến lược cho đến những vấn đề cụ thể, bảo đảm cho
chủ trương, đường lối của Đảng được thực hiện thống nhất, khẩn trương và
nghiêm ngặt. Phương thức đó là đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh
và đã đem lại hiệu quả thiết thực.
Sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nước nhà thống nhất, cả nước
đi lên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng đã ý thức rõ sự cần
thiết phải có sự thay đổi căn bản trong phương thức cầm quyền. Đại hội lần thứ
IV của Đảng (năm 1976) đã khẳng định rằng: sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm
cao nhất cho chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, cho sự tồn tại và
hoạt động của Nhà nước XHCN. Vì vậy, bảo đảm tốt sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước là một điều kiện quyết định để tăng cường sức mạnh của Nhà
nước, nâng cao hiệu lực của Nhà nước. Mặt khác, Đảng không thể lãnh đạo xã
hội, lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng CNXH, nếu khơng có Nhà
nước. Sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân thể hiện tập
trung ở Nhà nước, được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của Nhà nước.
Thông qua Nhà nước, Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình
phát triển xã hội. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trước hết là nâng cao
năng lực của Đảng trong việc xây dựng, kiện toàn, sử dụng và phát huy Nhà
nước – một công cụ sắc bén nhất để tổ chức, thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng. vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước được nâng cao là dấu hiệu
quan trọng nhất nói lên trình độ và năng lực cầm quyền của Đảng.
2.2.2. Nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng ta hiện nay trong
bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa


13


Như Lênin đã khẳng định: chinh trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, và
nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng thuộc phạm trù chính trị, do vậy
cũng do kinh tế quy định. Trong nền kinh tế dựa trên chế độ sở hữu xã hội đơn
nhất dưới hai hình thức là tồn dân và tập thể, vận hành trong cơ chế kế hoạch
hóa tuyệt đối, phương thức cầm quyền của Đảng cũng khó tránh khỏi tình trạng
quan liêu hóa, tập trung cao độ. Đảng lãnh đạo khơng phải chỉ thơng qua Nhà
nước, mà cịn trực tiếp can thiệp rất sâu vào hoạt động kinh tế. Đảng không chỉ
quyết định chiến lược kinh tế, mà cả kế hoạch sản xuất – kinh doanh của doanh
nghiệp.
Giờ đây, khi đã chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, sự đa dạng hóa chế độ sở hữu, hình thức và thành phần kinh tế, lấy sự
điều tiết của thi trường làm căn cứ cơ bản, thị trường đóng vai trị là cơ sở để kế
hoạch hóa nền kinh tế quốc dân… thì phương thức cầm quyền của Đảng không
thể như cũ được.
Bản chất, sự vận hành và môi trường kinh tế thị trường đòi hỏi ở Đảng sự
kiên định, sự năng động, nhạy bén, đồng thời có sức đề kháng cao trước những
tiêu cực của kinh tế thị trường tác động vào nội bộ hàng ngũ mình. Điều vừa
nêu cũng hồn tồn đúng, khi nói về u cầu đối với phương thức cầm quyền
của Đảng.
2.2.3. Nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
Có một số ngun tắc trong nhà nước pháp quyền XHCN cần được chú ý
và bảo đảm, đó là:
Thứ nhất, trong nhà nước pháp quyền thì pháp luật giữ vai trò tối thượng.
Mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội không loại trừ một ai đều phải tuân thủ pháp
luật và đặt mình dưới pháp luật.
Thứ hai, tính ổn định của quy trình đưa ra các quyết định chính trị. Sự ổn

định này hết sức cần thiết để bảo vệ hệ thống khỏi sự toan tính của các cá nhân.
14


Thứ ba, tính có thể quy trách nhiệm. Trong nhà nước pháp quyền, người
được giao quyền và trách nhiệm luôn phải chịu trách nhiệm về hành vi của
mình, đó là trách nhiệm cá nhân. Sở dĩ như vậy là vì, một cách tự nhiên, ai cũng
muốn mình có nhiều quyền lực nhất, nhưng lại ít phải chịu trách nhiệm nhất.
Thứ tư, tính minh bạch. Nhà nước pháp quyền sẽ mất đi ý nghĩa của nó
nếu thiếu sự minh bạch trong các hoạt động của nhà nước. Nếu không phát triể
theo hướng minh bạch, các điều luật có thể sẽ được thực hiện một cách hồn
tồn khác so với mục đích mà chúng được thiết kế để đạt tới.
Từ những đặc trưng của bản thân đối tượng lãnh đạo, phương thức lãnh
đạo của Đảng cũng phải có sự điều chính theo các hướng sau;
Một là, tạo cơ sở khoa học cho các chính sách của Đảng. Để tăng tính
thuyết phục cho các định hướng cho các chính sách của Đảng, thì sự hợp lý của
các chính sách (hay tính khoa học hiểu theo nghĩa rộng) vẫn là cơ sở quan trọng
nhất của sức thuyết phục cho mọi chính sách cũng như tính chính đáng đối với
sự cần quyền của Đảng. Do vậy, muốn giành được lòng tin của người dân,
muốn lãnh đạo các đảng viên của mình, trươc hết Đảng phải xây dựng được
một đội ngũ các nhà khoa học thực sự để thực hiện các cơng việc đó.
Hai là, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cần được chính đáng hóa
thơng qua hệ thống thể chế pháp lý. Đảng lãnh đạo Nhà nước thơng qua cương
lính, đường lối, chính sách chứ khơng can thiệp vào cơng việc cụ thể của Nhà
nước. Đảng phải biến cương lĩnh, đường lối, chính sách của mính thành pháp
luật của Nhà nước chứ khơng phải tự mình chỉ đạo trực tiếp hoạt động của Nhà
nước. Điều này có nghĩa rằng, sự lãnh đạo của Đảng phải dưới danh nghĩa
quyền lực công, quyền lực nhà nước (quyền lực được người dân ủy nhiệm
thông qua bầu cử), chứ không phải nhân danh quyền lực của Đảng. Phải dưới
danh nghĩa quyền lực cơng thì sự lãnh đạo đó mới có tính chính đáng cao. Và

do vậy, sự lãnh đạo của Đảng cũng phải tuân thủ các quy định, các thủ tục, luật
lệ chung trong hoạt động chính trị chứ khơng nằm ngồi các quy định đó.
15


Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước sẽ được quy về vấn đề
căn bản nhất là thể chế hóa chính sách của mình và thực hiện chúng thông qua
người của Đảng trong bộ máy nhà nước.
2.2.4. Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng được đặt ra
trong điều kiện dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước nói chung và đổi mới hệ thống chính
trị nói riêng thì dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của
quá trình này. Nhờ sự phát triển của nền dân chủ, ý thức và yêu cầu dân chủ của
nhân dân, của các tổ chức và các thiết chế xã hội ngày càng được nâng cao; sự
tự ý thức về vị thế đích thực của mình trong sự phát triển của xã hội cũng như
trong mối tương quan với các tổ chức, các thiết chế khác ngày một sâu sắc. Mọi
sự áp đặt dù từ phía nào đều bị lên án, bị khước từ. Mọi sự bao biện, làm thay
đề khó được chấp nhận. Định hướng lãnh đạo phải biến thành sự tự định hướng
từ chính nhân dân và các tổ chức của nhân dân.
Đảng lãnh đạo khơng có nghĩa là Đảng ra mệnh lệnh, chỉ thị cho nhân
dân, buộc nhân dân thực hiện. Sự lãnh đạo của Đảng phải được thực hiện bằng
cách tự mình đến với nhân dân, bàn bạc với nhân dân để thực hiện nhu cầu
chính đáng và hợp pháp của nhân dân. Nhờ dân chủ hóa mối quan hệ giữa Đảng
và nhân dân, nhân dân đặt ra đòi hỏi ngày càng cao đối với Đảng. Nhân dân
không chỉ được tham gia vào quá trình hoạch định đường lối phát triển đất
nước, mà cịn cả q trình đưa đường lối đó vào cuộc sống, tổ chức thực hiện,
kiểm tra việc thực hiện đường lối đó, tham gia thẩm định tính đúng – sai của
đường lối, quyền được phản biện đối với đường lối của Đảng.
Nói cách khác, dân chủ hóa xã hội địi hỏi phải dân chủ hóa phương thức
cầm quyền của Đảng. Điều đó khơng thể đạt được nếu Đảng khơng đổi mới

phương thức cầm quyền của mình.

16


2.2.5. Phương thức cầm quyền của Đảng đặt ra trong điều kiện cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
Cuộc cách mạng khoa học – cơng nghệ đang được triển khai trên quy mơ
tồn thế giới. Trong mức độ nhất định, cuộc cách mạng đó cũng đang diễn ra ở
nước ta với nội dung và hình thức thích hợp. Dù muốn hay khơng, những thành
quả của cuộc cách mạng này đã và đang thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, vào mọi hoạt động của con người, trong đó có hoạt động lãnh đạo
và quản lý.
Cách mạng khoa học – công nghệ vừa đòi hỏi vừa tạo tiền đề để thực
hiện khoa học hóa, hiện đại hóa phương thức lãnh đạo của Đảng. Khoa học hóa,
hiện đại hóa phương thức cầm quyền của Đảng là một nhân tố đảm bảo tính
hiệu quả trong lãnh đạo của Đảng. Để khoa học hóa, hiện đại hóa phương thức
cầm quyền của Đảng, chúng ta phải khắc phục phương thức cầm quyền cũ
mang nặng tính thủ công, thô sơ, sự vụ, kinh nghiệm chủ nghĩa… của thời kỳ
trước đang còn tồn tại ở những lúc những nơi nhất định trong hoạt động lãnh
đạo của Đảng ta. Đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng theo hướng khoa
học hóa, hiện đại hóa đã trở thành một tất yếu khách quan ở nước ta trong điều
kiện hiện nay.

17


CHƯƠNG 3:
ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC CẦM QUYỀN CỦA

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
3.1. Phương thức cầm quyền của Đảng phải được đổi mới để đáp ứng
tính đặc thù của điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền.
Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền, đó là tất yếu khách quan lịch sử, là
sứ mệnh nặng nề của Đảng được nhân dân giao phó. Điều đó chứng tỏ sức
mạnh và uy tín của Đảng, tạo ra những điều kiện mới, những phương tiện mới,
công cụ mới để Đảng thực hiện mục tiêu, lý tưởng. Là Đảng duy nhất cầm
quyền nên mọi vấn đề từ cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách lược đến chủ
trương chính sách cụ thể của Đảng đều có thể thảo luận, tranh luận rộng rãi
trong Đảng và lấy ý kiến nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam khơng có lợi ích
nào khác là phấn đấu cho lợi ích của dân tộc. Vì vậy, đường lối, chính sách của
Đảng chẳng những được thảo luận rộng rãi trong Đảng, mà cịn có thể đưa ra
cho tồn thể nhân dân thảo luận trước khi Đảng quyết định. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn
bạc…, đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Đối với
nhân dân, Đảng có thể cùng nhân dân thảo luận, bàn bạc thì khơng lý gì ngay
trong nội bộ Đảng lại không thể phát huy dân chủ để thảo luận và quyết định.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, là một Đảng duy nhất cầm
quyền, Đảng phải lo từ việc lớn đến việc nhỏ, đến cả tương, cà, mắm muối cho
dân; nếu dân đói, dân rét, dân dốt… thì khơng chỉ Chính phủ có lỗi mà Đảng
cũng có lỗi. V.I.Lênin địi hỏi Đảng phải “liên hệ với quần chúng. Sống trong
lòng quần chúng. Biết tâm trạng quần chúng. Biết tất cả. Hiểu quần chúng. Biết
đến với quần chúng. Giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng”. Việc Đảng
biết, hiểu nguyện vọng của quần chúng để lãnh đạo các cơ quan, cán bộ đảng và
nhà nước giải quyết mọi cơng việc cũng là Đảng vì lợi ích của nhân dân, giúp
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với Nhà nước và tồn xã hội.
18


Nhưng, mặt trái của tình trạng một Đảng độc tơn cầm quyền là dễ chủ quan, tự

mãn, kiêu ngạo, đặc quyền, đặc lợi, quan liêu, xa rời nhân dân…
Bệnh quan liêu trong quản lý nhà nước, vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân với quan liêu trong nội bộ Đảng gắn liền với nhau, trên thực tế là một. Đã
quan liêu, mất dân chủ ngay trong nội bộ Đảng thì khó có thể dân chủ với nhân
dân. Đây chính là nguy cơ thối hóa, biến chất lớn nhất của Đảng cầm quyền,
nhất là của những người nắm quyền lực.
Hiện nay, một vấn đề hết sức bức xúc đặt ra cần giải quyết trong mối
quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và toàn xã hội là Đảng lãnh đạo Nhà nước
như thế nào và bằng cách nào? Mối quan hệ Đảng với Nhà nước trong việc hình
thành các quyết sách của Nhà nước ra sao? Trong tổ chức bộ máy nhà nước,
Đảng lãnh đạo vấn đề nhân sự của Nhà nước như thế nào? Phạm vi lãnh đạo
đến đâu để không trái với quyền dân chủ của nhân dân, không trái với nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa? Đây là những vấn đề lớn, địi hỏi phải được
nghiên cứu cơng phu, cần huy động cả đội ngũ đông đảo các nhà khoa học trên
nhiều lĩnh vực vào cuộc, đồng thời cũng cần có thời gian để kiểm định. Cũng có
khơng ít những vấn đề căn cốt được nhiều nhà khoa học bỏ nhiều tâm huyết
nghiên cứu, tổng kết, có tiếng nói chung, nhưng vì nhiều lý do nên vẫn khơng
có chuyển biến gì đáng kể; cũng khơng ít vẫn đề chưa thống nhất, còn nhiều
tranh cãi cần tiếp tục làm sáng tỏ…
Trong tiến trình đổi mới, Đảng đã nhiều lần nhấn mạnh đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước là điều kiện quan trọng nhất để tiến hành đổi
mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho sự lãnh đạo của Đảng
có chất lượng và hiệu quả hơn, đồng thời làm cho sự quản lý và điều hành của
Nhà nước có hiệu quả, pháp luật được tôn trọng, quyền làm chủ của nhân dân
được phát huy. Như vậy, việc xây dựng và hiện thực hóa các q trình dân chủ
trong xã hội tùy thuộc trước hết ở phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội.
19



Tuy nhiên, tiến trình đổi mới đó là cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh
chính trị quyết liệt, là những vấn đề khơng đơn giản, nó liên quan đến tư duy
chính trị, truyền thống chính trị, đến cả hệ thống các thể chế chính trị đã từng
tồn tại máy chục năm với những suy nghĩ, cách làm, thói quen đã ăn sâu vào
tiềm thức, suy nghĩ, hành động, thói quen của người nắm quyền, liên quan đến
nhiều nhóm lợi ích, rất khó thay đổi một cách căn bản, tức thời, trong đó khơng
loại trừ lực cản từ các lợi ích.
Với những thuận lợi và khó khăn đó, việc đổi mới phương thức cầm
quyền của Đảng, để trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền mà không
trở thành chuyên quyền, đọc đốn là vấn đề sống cịn của Đảng, của chế độ ta.
Những điều kiện mới, hoàn cảnh mới trên đây đặt ra nhiều vẫn đề mới về
phương thức câm quyền. Việc giải quyết những vấn đề đó địi hỏi Đảng ta phải
đổi mới hơn nữa quan niệm về phương thức cầm quyền và nâng cao năng lực
thực hiện hóa hệ quan niệm đã được đổi mới đó để đáp ứng yêu cầu giữ vững,
tăng cường vai trò cầm quyền của Đảng trong q trình đẩy mạnh tồn diện
cơng cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Một số giải pháp cơ bản đổi mới nội dung và phương thức cầm
quyền của Đảng
3.2.1. Đổi mới quá trình hoạch định đường lối chính sách của Đảng
Thứ nhất, Nhận thức lại nguyên tắc tập trung dân chủ, xây dựng một cơ
chế ra quyết định theo hướng dân chủ hóa và khoa học hơn. Đối với nguyên tắc
tập trung dân chủ, Đảng ta đã thường khẳng định rằng, phát huy dân chủ luôn
phải đi đôi với việc giữ vững kỷ luật, kỷ cương và tăng cường pháp chế - đây
chỉ là một cách hiểu chung chung, mà chưa vạch rõ được mối liên hệ giữa yếu
tố dân chủ trong Đảng với hiệu quả của sự lãnh đạo.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng cần được hiểu một cách cụ thể
hơn, bao gồm bốn cơng đoạn của q trình ra quyết định “khoa học - công khai
- dân chủ - tập trung”. Ngoại trừ trong các trường hợp đặc biệt khẩn cấp, còn
20



trong hoạt động bình thường, nếu thiếu một trong bốn yếu tố này, dân chủ sẽ rất
dễ trở thành hình thức – vấn đề mà Đảng ta đã liên tục phê phán từ nhiều năm
nay.
Thứ hai, Xây dựng cơ chế bảo vệ quyền của thiểu số, và rộng hơn là bảo
vệ lợi ích của thiểu số trong cơ chế “phục tùng đa số”.
Việc tôn trọng ý kiến và bảo lưu quyền của thiểu số là vấn đề có ý nghĩa
sống còn đối với dân chủ trong bất kỳ tổ chức nào chứ không chỉ riêng của
Đảng. Điều này xuất phát từ một thực tế là ý kiến của đa số không phải bao giờ
cũng đúng và ý kiến của thiểu số không phải bao giờ cũng sai. Việc đưa ra các
quy định về vấn đề này sẽ đảm bảo được tính khoa học trong q trình phát
triển dân chủ. Vấn đề quan trọng hơn, nó cho phép đảm bảo rằng, những sai sót
lớn sẽ được xem xét và bàn bạc kịp thời, ngay cả trong trường hợp đó chỉ là ý
kiến của một thiểu số.
Đối với quy trình ra chính sách của Đảng, chúng ta cần lưu ý phải:
- Đưa ra các quy định về hệ thống thông tin, quyền được thông tin và
thảo luận, xem xét những vấn đề có tầm quan trọng;
- Xây dựng hệ thống giám sát rộng rãi của mọi người dân và mọi tổ chức
xã hội khác đi đôi với các quy định trách nhiệm hợp lý và rõ ràng;
- Tổ chức kiểm tra, đánh giá vừa khách quan, vừa đầy đủ thông tin.
3.2.2. Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng
Công tác tư tưởng của Đảng hiện nay cần phải được đổi mới theo các
hướng sau:
Thứ nhất, cần coi trọng việc nghiên cứu lý luận trong cơng tác tư tưởng,
trong đó lấy các tiêu chí khoa học, khách quan làm trọng tâm.
Thứ hai, trong các tiêu chí khoa học này, lấy sự cơng khai, minh bạch và
phản biện độc lập là các tiêu chí hàng đầu. Đòi hỏi này tất yếu phải gắn với việc
mở rộng tự do ngơn luận và kiểm sốt tính xây dựng tức trách nhiệm xã hội
trong tranh luận.
21



Thứ ba, có sự chủ động trong việc phát triển các tổ chức xã hội, hoặc các
tổ chức tương tự để thông qua hoạt động thực tế, đề cao và tuyên truyền cho các
giá trị đã được nghiên cứu và thống nhất trong lãnh đạo.
3.2.3. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ của Đảng
Thứ nhất, Trao quyền hạn gắn với trách nhiệm cá nhân. Đã đến lúc chúng
ta cần thay cơ chế “lãnh đạo tập thể” bằng cơ chế giao việc cụ thể cho đầu mối
chịu trách nhiệm. Trong quy trình đề bạt cán bộ, các cơ quan khác chỉ là cơ
quan tư vấn. Cần mạnh dạn trao quyền tuyển dụng và đề bạt cán bộ dưới quyền
cho chính người lãnh đạo trực tiếp để buộc họ chịu trách nhiệm về sự bổ nhiệm
của mình, có quyền cách chức khi cấp dưới làm sai. Đến lượt họ, nếu bị phát
hiện làm sai, họ sẽ bị cấp trên trực tiếp của mình kỷ luật hay cách chức. Ở đây
quyền hạn gắn với trách nhiệm.
Thứ hai, Thay đổi cách thức tuyển chọn công chức. Trong điều kiện hiện
nay ở nước ta, việc tạo ra một cơ chế tuyển dụng công chức theo nguyên tắc
“mở” và cạnh tranh, công khai và minh bạch sẽ sớm góp phần chấm dứt tình
trạng tiêu cực diễn ra trong quá trình tuyển lựa nhân sự. giải được bài tốn này
thì mới có thể nghĩ đến việc áp dụng các hình thức quản lý khác nhau cho phù
hợp từng đối tượng và làm cho công chức luôn đứng trước “áp lực”, phải tích
cực hồn thành trách nhiệm, đề cao đạo đức cơng vụ.
Thứ ba, Minh bạch hóa việc bầu cử và bổ nhiệm cán bộ. Có thể nói, hoạt
động tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ là cơ sở ban đầu để đảm bảo cho các hoạt
động khác trong quản lý nhà nước. Thế nhưng những quy định về hoạt động
này ở nước ta còn quá sơ sài, chưa có đầu tư nghiên cứu để tìm ra những
nguyên tắc khoa học, khách quan, những phương pháp thích hợp. Chừng nào cơ
chế bầu cử và bổ nhiệm cán bộ cịn chưa rõ ràng và dân chủ thì những tiêu cực,
tham nhũng vẫn cịn có cơ hội tiếp tục để phát triển.
Minh bạch hóa vấn đề bầu cử, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ là điều kiện để
nhân dân có thể tham gia vào việc giám sát quyền lực, theo đó mọi tiêu chuẩn,

22


điều kiện, thủ tục liên quan đến việc bổ nhiệm, đề bạt cán bộ đều phải được
công bố một cách công khai đến từng cán bộ trong cơ quan, đơn vị. Các tiêu
chuẩn, điều kiện này cũng phải được lượng hóa một cách rõ ràng, tránh tình
trạng q chung chung, hiểu thế nào cũng được.
Thứ tư, Phân công một cách rõ ràng giữa chức năng lãnh đạo của Đảng
và chức năng quản lý của Nhà nước đối với công tác cán bộ
3.2.4. Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát quyền lực trong nội bộ Đảng
Trong tình hình hiện nay, chúng ta cần xây dựng một hệ thống kiểm tra,
giám sát đủ mạnh đê kiểm soát các chức danh quyền lực trong Đảng nhằm ngăn
chặn hiện tượng lạm dụng quyền lực của những người có chức, có quyền theo
nguyên tắc: Tất cả các chức danh quyền lực trong Đảng đều nằm dưới sự giám
sát quyền lực của các tổ chức cụ thể, không một cá nhân, một tổ chức nào của
Đảng nằm ngoài sự giám sát này. Đồng thời, cần thiết phải xây dựng một chế
độ trách nhiệm cá nhân rõ ràng theo phương thức: chức vụ càng cao, trách
nhiệm cá nhân càng lớn; quyền lực càng lớn càng phải được kiểm soát chặt chẽ.
Để cơ quan kiểm tra, giám sát quyền lực trong Đảng có đủ thẩm quyền,
có vị thế độc lập và khách quan trong việc giám sát quyền lực trong Đảng, tổ
chức này cần phải: Được sự ủy quyền rộng rãi của tồn Đảng (hay ít nhất là của
Đại hội Đảng), điều này đảm bảo tính độc lập, cũng như tính trách nhiệm của
các cơ quan này; Các thành viên của tổ chức này phải được lựa chọn một cách
kỹ lưỡng và dân chủ, đảm bảo chất lượng cả về phẩm chất đạo đức và kiến thức
chuyên mơn, uy tín; Tổ chức này được thiết kế sao cho có thể loại trừ được
những mâu thuẫn về lợi ích cũng như mâu thuẫn về chức năng của tổ chức. Đây
có thể được xem là một khâu đột phá trong tổ chức Đảng.
3.2.5. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo cán bộ
Sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực này chính là nhằm làm cho quá
trình đào tạo trở nên hiệu quả và thiết thực hơn, theo đó, đối với từng nội dung

cụ thể, Đảng cần có sự đổi mới trong cách chỉ đạo. Cụ thể:
23


Thứ nhất, Về nội dung đào tạo: cần bao quát kiên thức cơ bản cho học
viên, trang bị phương pháp luận khoa học, tư duy lý luận, năng lực tổ chức,
tổng kết thực tiễn, khả năng ững dụng lý luận một cách sáng tạo hiệu quả…
Thứ hai, Về phương pháp đào tạo: tùy theo từng mơn học có thể lựa chọn
những phương pháp phù hợp, vận dụng các phương pháp giảng dạy tiên tiến, sử
dụng các phương tiện, công cụ giảng dạy hiện đại. Lấy người học làm trung
tâm, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học; nâng cao năng
lực tự giác trong học tập, tự học tự đào tạo là chủ yếu; phải lấy các tình huống
chính trị để rèn luyện và thử thách, phải đào tạo cả tri thức khoa học và cấp độ
nghệ thuật; quá trình đào tạo phải gắn lý luận với thực tiễn, gắn lý thuyết với
thực hành.
Thứ ba, Về cơ sở đào tạo và đội ngũ giảng viên: đối với cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng của các bộ, ngành trung ương là đơn vị sự nghiệp trực thuộc bộ,
ngành chủ quản, cần được sắp xếp lại về cơ cấu và vị trí tổ chức cho thích hợp
với chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng trường. Xem xét lập mới một số
trường hoặc trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước cho một
số bộ, ngành hiện nay còn thiếu. Xây dựng quy định về việc mở lớp, lên lớp;
đồng thời có sự phân cơng, phân nhiệm cụ thể giữa các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ.
Thứ tư, Về hợp tác quốc tế: tăng cường, mở rộng và quản lý tốt việc hợp
tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Xây dựng kế hoạch hợp tác quốc tế về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để tiếp thu, học tập kinh nghiệm của nước ngoài.
Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và cơng chức nhà nước ở nước ngồi
hoặc có sự tham gia của nước ngồi phải đảm bảo tính thiết thực, nội dung sát
với yêu cầu công việc, gắn với các mục tiêu kinh tế - xã hội và phù hợp với điều
kiện, khả năng của các đối tượng.

3.2.6. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bầu cử

24


Thứ nhất, Đổi mới nhận thức về vấn đề bầu cử: trước tiên, cần nhận thức
rằng, bầu cử là phương thức để người dân thực hiện sự ủy quyền cho người đại
diện và bằng hành vi bầu cử, người dân cũng có thể tước bỏ quyền lực của
những người khơng đủ năng lực, hoặc tha hóa, biến chất và tìm được những
người có đức, có tài để ủy thác quyền lực, để thay mặt họ quản lý nhà nước và
xã hội. Những quy định của luật bầu xử, quy trình bầu cử cần phải thể hiện
được tính nhất quán giữa những cam kết về mặt chính trị với mục tiêu xây dựng
một nhà nước của dân, do dân, vì dân với những triển khai, thiết kế cụ thể, chi
tiết trong q trình bầu cử, để người dân có thể trở thành chủ nhân thực sự của
quyền lực nhà nước. Trong bối cảnh của việc xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN, quyền công dân và quyền con người ngày càng được khẳng định và bảo
đảm như ở nước ta hiện nay, thì địa vị chính danh của Đảng trong lãnh đạo Nhà
nước chỉ có thể có được bằng cách Đảng “hóa thân” vào Nhà nước thông qua
các cuộc bầu cử dân chủ.
Thứ hai, Dân chủ hóa q trình đề cử ứng cử viên trong Đảng: trong điều
kiện hiện nay, Đảng cần áp dụng những phương thức lực chọn ứng cử viên thực
sự tự do, dân chủ, giúp cho Đảng có thể “sàng lọc”, lựa chọn được các ứng cử
viên có khả năng nhất tranh cử vào Quốc hội. Nó phải trở thành cơng việc của
tồn thể các đảng viên, phải thể hiện ý chí của tất cả các đảng viên của Đảng,
chứ không phải chỉ là công việc của lãnh đạo cao cấp trong Đảng như hiện nay.
Thứ ba, Tạo cơ chế cạnh tranh bình đẳng giữa các ứng cử viên: trong
điều kiện một đảng cẩm quyền như ở nước ta, thì chắc chắn sẽ có sự cạnh tranh
giữa các đảng viên trong nội bộ Đảng. Ngoài ra, ở một mức độ nhất định, đó có
thể là sự cạnh tranh giữa các ứng cử viên do Đảng đề cử với các ứng cử viên
ngồi Đảng. Trong mơi trường cạnh tranh ấy, các quy định về tính dân chủ,

cơng khai và cơng bằng cần được đảm bảo để ứng cử viên nào có đức, có tài,
giành được sự tín nhiệm của người dân sẽ trúng cử, bất kể người đó có là đảng
viên hay không.
25


×