Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tài liệu Đề tài " Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.86 KB, 32 trang )


TRƯỜNG
KHOA……………………






Tiểu luận


Đề tài
Những nét cơ bản nhất của lịch sử
hình thành phép biện chứng
LỜI NÓI ĐẦU

Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học
gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu
hình. Lịch sử phép biện chứng đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và đã có
lúc bị phép siêu hình thống trị. Song với tính chất khoa học và cách mạng của
mình, phép biện chứng mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật đã khẳng định
vị trí của mình là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu
sắc nhất và không phiến diện.
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng chỉ khi nào con người nắm
vững những lý luận về phép biện chứng và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc
phương pháp luận của nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì quá trình cải
tạo tự nhiên và biến đổi xã hội mới thực sự mang tính cách mạng triệt để.
Ngược lại, quan điểm siêu hình luôn xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập với
lối tư duy cứng nhắc sẽ dẫn tới những hạn chế và sai lầm không thể tránh khỏi
trong tiến trình phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình hình thành


và phát triển của phép biện chứng, trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn cách mạng được đặt ra như một nhu cầu cần thiết và tất yếu.
Tiến trình cải tổ nền kinh tế và đổi mới mọi mặt đời sống xã hội ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay hơn lúc nào hết cần phải quán triệt tư duy biện chứng
triệt để dựa trên lập trường duy vật vững vàng. Lý luận về phép biện chứng duy
vật nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung là kim
chỉ nam đưa cách mạng nước ta giành được thắng lợi trên con đường công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự hình thành và phát triển phép biện chứng duy vật là một quá trình lâu
dài và phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với các trình độ phát triển
cao thấp khác nhau. Trong khuôn khổ của bài tiểu luận triết học này, em xin
được trình bày nhận thức của mình về những nét cơ bản nhất của lịch sử hình
thành và phát triển phép biện chứng.

1
Đề tài: Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng
Tuy đã rất cố gắng song bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các đồng chí học
viên lớp cao học Văn hoá học. Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 1 năm 2006
I. PHÂN BIỆT PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP SIÊU HÌNH
Biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong tư duy. Phương pháp
biện chứng là phương pháp tư duy triết học xem xét thế giới trong mối liên hệ
phổ biến, trong sự vận động và phát triển vô cùng với tư duy mềm dẻo, linh
hoạt. Trái lại, phương pháp siêu hình là phương pháp tư duy triết học xem xét
thế giới trong trạng thái cô lập, phiến diện với tư duy cứng nhắc. Lịch sử đấu
tranh giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình luôn gắn liền với cuộc
đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã thúc
đẩy tư duy triết học phát triển và được hoàn thiện dần với thắng lợi của tư duy

biện chứng duy vật.
Hạn chế của phương pháp siêu hình thể hiện ở chỗ chỉ thấy những sự
việc cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại
của sự vật mà không rhấy sự ra đời và biến đi của sự vật, chỉ thấy trạng thái
tĩnh của sự vật mà không thấy trạng thái động của nó. Quan điểm biện chứng
đã khắc phục được những hạn chế của phương pháp siêu hình bằng cách xem
xét các sự vật trong mối liên hệ qua lại với nhau, không chỉ thấy sự tồn tại mà
còn rhấy cả sự hình thành và tiêu vong của sự vật, không chỉ thấy trạng thái
tĩnh mà còn thấy cả trạng thái vận động biến đổi không ngừng của sự vật.
Tuy nhiên, Ăngghen cũng khẳng định rằng thế giới quan siêu hình là điều
không thể tránh khỏi và sự ra đời của nó là hợp quy luật đối với một giai đoạn
nhất định trong lịch sử phát triển của nhận thức khoa học – giai đoạn nghiên
cứu các chi tiết của bức tranh toàn cảnh về thế giới tự nhiên. Muốn nhận thức
được các chi tiết ấy, người ta buộc phải tách chúng ra khỏi những mối liên hệ

2
tự nhiên, lịch sử của chúng để nghiên cứu riêng từng chi tiết một theo đặc tính
của chúng, theo nguyên nhân, kết quả riêng của chúng. Thời kỳ này kéo dài từ
cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVIII. Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX,
việc nghiên cứu tiến từ giai đoạn sưu tập sang giai đoạn chỉnh lý, nghiên cứu về
các quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng thì phương pháp siêu
hình không còn đáp ứng được yêu cầu của nhận thức khoa học. Cuộc khủng
hoảng Vật lý học cuối thế kỷ XIX do ảnh hưởng của quan niệm siêu hình là
một minh chứng cho hạn chế của phương pháp siêu hình. Những kết quả
nghiên cứu của khoa học tự nhiên, nhất là vật lý học và sinh học đã đòi hỏi và
chứng tỏ rằng cần phải có một cách nhìn biện chứng về thế giới và khi đó, phép
siêu hình đã bị phủ định nhường chỗ cho phép biện chứng.
Trong lịch sử triết học, phương pháp biện chứng đã trải qua nhiều giai
đoạn phát triển cao thấp khác nhau, trong đó phép biện chứng duy vật là thành
quả phát triển cao nhất và khoa học nhất của tư duy biện chứng. Sau đây chúng

ta sẽ nghiên cứu sự hình thành phép biện chứng qua từng thời kỳ lịch sử nhất
định, bắt đầu từ thời kỳ cổ đại đến thời kỳ phục hưng và cận đại, tiếp đó hình
thành phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và sau cùng hoàn chỉnh ở phép
biện chứng duy vật Mácxít.
II. SỰ HÌNH THÀNH PHÉP BIỆN CHỨNG THỜI KỲ CỔ ĐẠI
Ba nền triết học tiêu biểu của thời kỳ cổ đại được biết đến là nền triết học
Ấn Độ cổ đại, triết học Trung Quốc cổ đại và triết học Hy Lạp cổ đại.
1. Phép biện chứng trong triết học Ấn Độ cổ đại
Ấn Độ cổ đại là một vùng đất thuộc nam châu Á có điều kiện khí hậu hết
sức khắc nghiệt và địa hình tách biệt với các quốc gia, do đó Ấn Độ cổ đại trở
thành một nền văn minh khép kín. Các tư tưởng tôn giáo rất phát triển trong xã
hội Ấn Độ thường xuyên đan xen vào triết học làm nên nét đặc thù riêng của
triết học Ấn Độ cổ đại. Có thể nói, triết học Ấn Độ tuy còn ở trình độ sơ khai
song nó đã chứa đựng các yếu tố về bản thể luận và những tư duy biện chứng.
Các tư tưởng biện chứng mộc mạc, thô sơ được tập trung thể hiện trong một số

3
trường phái triết học Ấn Độ cổ đại sau:
a. Triết học Samkhya
Theo phái Samkhya, Prakriti là vật chất đầu tiên ở dạng tinh tế, trầm ẩn,
vô định hình và trong nó chứa đựng khả năng tự biến hoá. Prakriti không ngừng
biến hoá, phát triển trong không gian theo luật nhân quả dẫn tới xuất hiện tính
đa dạng của giới tự nhiên. Tuy nhiên, về bản thể luận, phái Samkhya theo quan
điểm nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại hai bản nguyên của vũ trụ là bản
nguyên vật chất Prakriti và bản nguyên tinh thần Prusa.
b. Triết học Jaina
Tư tưởng biện chứng của phái Jaina thể hiện ở học thuyết tương đối.
Theo đó, tồn tại vừa bất biến, vừa biến chuyển. Cái vĩnh hằng là bản thể còn cái
không vĩnh hằng luôn biến đổi là các dạng của bản thể. Điều đó có nghĩa là thế
giới bao quanh con người vừa vận động lại vừa đứng im, đó là một mâu thuẫn

mà con người cần phải chấp nhận.
c. Triết học Lokayata
Theo phái Lokayata, mọi sự vật, hiện tượng của thế giới được tạo ra từ
bốn nguyên tố vật lý: đất, nước, lửa và không khí. Các nguyên tố này tự tồn tại,
tự vận động trong không gian mà tạo thành tất cả các sự vật, kể cả con người.
Đây là trường phái duy vật và vô thần triệt để nhất trong các trường phái triết
học Ấn Độ cổ đại. Nó ra đời từ phong trào đấu tranh chống sự thống trị của chủ
nghĩa duy tâm trong Veda và giáo lý của đạo Bàlamôn đòi tự do tư tưởng và
bình đẳng xã hội.
d. Triết học Phật giáo
Khi luận giải những vấn đề thuộc thế giới quan và nhân sinh quan triết
học, Phật giáo đã đề cập tới hàng loạt những vấn đề thuộc phạm vi của phép
biện chứng, với tư cách là học thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và sự
biến đổi của mọi tồn tại. Thế giới quan triết học phật giáo và những tư tưởng
biện chứng của nó được thể hiện qua một số phạm trù cơ bản là: vô ngã, vô
thường và nhân quả.

4
- Vô ngã là không có cái tôi bất biến. Cách nhìn này hoàn toàn đối lập
với cách nhìn siêu hình về tồn tại. Cũng từ cách nhìn này, triết học Phật giáo
đưa ra những nguyên lý về mối liên hệ tất định, phổ biến: không có cái nào là
biệt lập tuyệt đối so với tồn tại khác, tất cả đều hoà đồng nhau.
- Vô thường nói lên sự biến đổi không ngừng của vạn vật, không có cái gì
đứng im. Quy luật vô thường của mọi tồn tại là Sinh - Trụ - Dị - Diệt.
Đây là một phỏng đoán biện chứng về sự biến đổi của tồn tại.
- Quy luật nhân quả cho rằng sự tồn tại đa dạng và phong phú của thế
giới đều có nguyên nhân tự thân, đó là quy luật nhân quả, một định lý tất định
và phổ biến của mọi tồn tại, dù đó là vũ trụ hay nhân sinh.
Triết học ấn Độ là một trong những nôi triết học vĩ đại của loài người
thời kỳ cổ đại. Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vô thần và đã manh nha

hình thành các tư tưởng biện chứng sơ khai. Tuy nhiên, tư duy triết học thời kỳ
này cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: coi linh hồn con người là bất tử (đạo Phật)
hay phán đoán về thế giới hiện tượng của phái Jaina.
2. Phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại
Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn và có lịch sử phát triển lâu đời vào
bậc nhất thế giới. Đó là một trong những trung tâm tư tưởng lớn nhất của nhân
loại thời cổ. Triết học Trung Quốc cổ đại chịu sự chi phối trực tiếp của những
vấn đề chính trị xuất phát từ hiện trạng xã hội biến động đương thời. Chính vì
vậy trong thời kỳ này, các triết gia Trung Quốc thường đẩy sâu quá trình suy tư
về các vấn đề thuộc vũ trụ quan và biến dịch luận. Song cần phải khẳng định
rằng, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại
là chủ nghĩa duy vật chất phác và phép biện chứng tự phát. Có thể thấy một số
tư tưởng biện chứng nổi bật của triết học Trung Quốc cổ đại qua một số trường
phái triết học sau:
a. Trường phái triết học Âm Dương gia
Về căn bản, những kiến giải về vũ trụ quan của triết học Trung Quốc cổ
đại mang tinh thần biện chứng sâu sắc (nếu hiểu theo nguyên tắc: phép biện

5
chứng là học thuyết triết học về sự biến đổi). Điển hình cho tư duy này là học
thuyết Âm - Dương. Nội dung triết học căn bản của phái Âm -Dương là lý luận
về sự biến dịch, được khái quát thành những nguyên lý phổ biến, khách quan
và tất yếu.
Một là, phái Âm - Dương nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính
đồng nhất tuyệt đối. Trái lại, tất cả đều bao hàm sự thống nhất của các mặt đối
lập, gọi là sự thống nhất của Âm và Dương. Nói cách khác, Âm -Dương là đối
lập nhau nhưng là điều kiện tồn tại của nhau. Hơn nữa, học thuyết Âm - Dương
còn thừa nhận mọi thực tại trên tinh thần biện chứng là trong mặt đối lập này đã
bao hàm khả năng của mặt đối lập kia. Đây là một cách lý giải biện chứng về
sinh thành, về vận động.

Hai là, nguyên lý của sự sinh thành và vận động là có tính quy luật, chu
kỳ và chu kỳ đó được bảo đảm bởi nguyên tắc cân bằng Âm - Dương.
Ba là, nguyên lý phân đôi cái thống nhất trong lôgíc của sự vận động là
một nguyên lý tất định. Nguyên lý đó được khái quát bằng một lôgíc như sau:
Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái,
Bát quái tương thôi sinh vô cùng (vạn vật).
Về bản thể luận, phái Âm - Dương quy thế giới về những dạng vật chất
cụ thể và coi chúng là nguồn gốc sinh ra vạn vật. Theo phái này, nguyên thuỷ
của thế giới bao gồm Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ.
b. Triết học của phái Đạo gia
Người khởi xướng triết học phái Đạo gia là Lão Tử. Những ý kiến luận
giải về Đạo, coi Đạo là nguyên lý duy nhất và tuyệt đối trong sự vận hành của
vũ trụ đã thể hiện rất sâu sắc quan điểm biện chứng của Lão Tử. Trong đó nổi
bật lên hai quan điểm về phép biện chứng của ông là quan điểm về luật quân
bình và quan điểm về luật phản phục. Luật quân bình để giữ cho sự vận hành
của vạn vật được cân bằng, không thái quá mà cũng không bất cập. Phản phục
là nói lên tính tuần hoàn, tính chu kỳ trong quá trình biến dịch của vạn vật.
Sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập cũng là một tư tưởng biện

6
chứng độc đáo của Lão Tử. Ông cho rằng: có và không sinh lẫn nhau, dễ và
khó tạo nên nhau, ngắn và dài làm rõ nhau, cao và thấp tựa vào nhau, trước và
sau theo nhau. Trong đó, mỗi mặt đều trong mối quan hệ với mặt đối lập,
không có mặt này thì cũng không có mặt kia và giữa chúng chỉ là tương đối.
Tuy nhiên, sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong sự vật, hiện
tượng không theo khuynh hướng phát triển, xuất hiện cái mới mà theo vòng
tuần hoàn của luật phản phục. Hơn nữa, Lão Tử không chủ trương giải quyết
mâu thuẫn bằng đấu tranh của các mặt đối lập mà ông chủ trương lấy cái tĩnh,
cái vô vi để tạo thành sự chuyển hoá theo luật quân bình. Chính vì thế, phép
biện chứng của ông mang tính chất máy móc, lặp đi lặp lại một cách tuần hoàn.

Trang Tử cũng là một nhà tư tưởng lớn của phái Đạo gia. Học thuyết của
Trang Tử có những yếu tố duy vật và biện chứng tự phát, nhưng thế giới quan
của ông về cơ bản nghiêng về chủ nghĩa duy tâm. Khi quan niệm về vũ trụ (về
Đạo), Trang Tử cho rằng Đạo trời là tự nhiên vốn có không ai sinh ra. Vạn vật
đều sinh ra từ Đạo và biến hoá một cách tự nhiên.
c. Triết học của phái Danh gia
Các tư tưởng biện chứng của phái Danh gia trước hết được thể hiện qua
thuyết tương đối của Huệ Thi. Huệ Thi quan niệm vạn vật trong vũ trụ luôn
biến đổi, chúng có tính tương đối và hàm chứa trong đó những mặt đối lập liên
hệ chuyển hoá qua lại với nhau. Nhưng do tuyệt đối hoá tính chất tương đối của
sự vật, thực tại, tách rời nó với những điều kiện, những mối liên hệ cụ thể nên
về cơ bản, triết học của Huệ Thi mang tính ngụy biện và tương đối luận.
Một biện giả khác của phái Danh gia là Công Tôn Long. Tư tưởng biện
chứng tự phát của Công Tôn Long thể hiện ở quan điểm về tính chất mâu thuẫn
của sự vận động, sự thống nhất biện chứng giữa cái vô hạn và hữu hạn, giữa
đồng nhất và khác biệt. Trong đó, Công Tôn Long đưa ra những mệnh đề có
tính chất ngụy biện, chiết trung như: ngựa trắng không phải là ngựa, trứng có
lông, bóng chim bay không hề động đậy. Nếu Huệ Thi chỉ chú trọng đến tính
chất tương đối, sự luôn biến đổi của sự vật, hiện tượng trong hiện thực, phóng

7
đại một cách phiến diện mặt tương đối của sự vật và đưa đến kết luận tương
đối chủ nghĩa thì Công Tôn Long lại nhấn mạnh tính tuyệt đối, tính không biến
đổi và sự tồn tại độc lập của những khái niệm so với cái được phản ánh trong
khái niệm ấy. Công Tôn Long đã tách rời cái chung, cái phổ biến ra khỏi những
cái riêng, cái cá biệt đi tới phủ nhận sự tồn tại của những cái cụ thể trong hiện
thực.
d. Triết học của phái Pháp gia
Hàn phi là một đại biểu của phái Pháp gia. Kiên quyết phủ nhận lý luận
chính trị thần quyền, Hàn Phi được coi là một nhà vô thần luận nổi tiếng của

Trung Quốc cổ đại. Các tư tưởng triết học của ông biểu hiện rõ tính chất duy
vật và biện chứng tự phát về lịch sử và phương pháp trị nước. Về lịch sử, Hàn
Phi cho rằng lịch sử xã hội loài người luôn biến đổi, từ trước tới nay không có
chế độ xã hội nào vĩnh viễn tồn tại. Mặt khác, ông cho rằng động lực căn bản
quyết định sự biến đổi của lịch sử là do sự thay đổi dân số và của cải xã hội
nhiều ít. Do vậy, khi bàn về phương pháp trị nước, ông cho rằng kẻ thống trị
phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, tuỳ đặc điểm, hoàn cảnh thời
thế mà lập ra chế độ, đặt chính sách và phương pháp trị nước mới cho phù hợp.
Không có thứ luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Tuy Hàn Phi chưa thấy
được động lực thực sự của lịch sử, nhưng ông đã cố gắng đi tìm nguyên nhân
biến đổi của đời sống xã hội trong điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Tóm lại, do sự hạn chế của trình độ hoạt động thực tiễn và trình độ nhận
thức, triết học Trung Quốc cổ đại mới chỉ dừng lại ở chủ nghĩa duy vật chất
phác, cảm tính và phép biện chứng tự phát, sơ khai. Song với các quan điểm
biện chứng trong cách kiến giải về vũ trụ quan, có thể nói triết học Trung Quốc
cổ đại đã đặt cơ sở rộng lớn cho sự phát triển các tư tưởng biện chứng của triết
học nhân loại.
3. Phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ thứ VI trước CN. Cơ sở
kinh tế của nền triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất

8
và người nô lệ. Khoa học lúc đó chưa phân ngành, các nhà triết học đồng thời
là nhà toán học, vật lý học, thiên văn học, Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ
đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Đời sống chính trị
của Hy Lạp bấy giờ sôi động, những quan hệ thương mại với nhiều nước khác
nhau trên Địa Trung Hải, sự tiếp xúc với điều kiện sinh hoạt và những tri thức
muôn vẻ của nhân dân các nước ấy, sự quan sát các hiện tượng tự nhiên một
cách trực tiếp như một khối duy nhất và lòng mong muốn giải thích chúng một
cách khoa học đã góp phần quy định và làm phát triển thế giới quan duy vật và

biện chứng sơ khai của Hy Lạp cổ đại. Có thể tìm hiểu các tư tưởng biện chứng
nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại qua một số đại diện tiêu biểu sau đây:
a. Talét
Thành tựu nổi bật của Talét là quan niệm triết học duy vật và biện chứng
tự phát. Ông cho rằng nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật trong
thế giới. Mọi vật đều sinh ra từ nước và khi phân huỷ lại biến thành nước. Theo
Talét, vật chất tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra thì biến đổi không
ngừng, sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, trong
đó mọi vật biến đổi không ngừng mà nền tảng là nước. Tuy nhiên, các quan
điểm triết học duy vật của Talét mới chỉ dừng lại ở mức độ mộc mạc, thô sơ,
cảm tính. Ông chưa thoát khỏi ảnh hưởng của quan niệm thần thoại và tôn giáo
nguyên thuỷ khi ông cho rằng thế giới đầy rẫy những vị thần linh.
b. Anaximăngđrơ
Ông là người Hy Lạp đầu tiên nghiên cứu nghiêm túc vấn đề phát sinh và
phát triển của các loài động vật. Theo ông, động vật phát sinh dưới nước và sau
nhiều năm biến hoá thì một số giống loài dần thích nghi với đời sống trên cạn,
phát triển và hoàn thiện dần; con người hình thành từ sự biến hoá của cá. Phỏng
đoán của ông còn chưa có căn cứ khoa học song đã manh nha thể hiện yếu tố
biện chứng về sự phát triển của các giống loài động vật. Khi giải quyết vấn đề
bản thể luận triết học, Anaximăngđrơ cho rằng cơ sở hình thành vạn vật trong
vũ trụ là từ một dạng vật chất đơn nhất, vô định hình, vô hạn và tồn tại vĩnh

9
viễn mà người ta không thể trực quan thấy được. Nếu so với Talét thì
Anaximăngđrơ có bước tiến xa hơn trong sự khái quát trừu tượng về phạm trù
vặt chất.
c. Hêraclít
Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác-Lênin, Hêraclít là người sáng
lập ra phép biện chứng, hơn nữa, ông là người xây dựng phép biện chứng trên
lập trường duy vật. Phép biện chứng của Hêraclít chưa được trình bày dưới

dạng một hệ thống các luận điểm khoa học như sau này, nhưng hầu như các
luận điểm cốt lõi của phép biện chứng đã được ông đề cập dưới dạng các câu
danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Các tư tưởng biện chứng của ông thể
hiện trên các điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclít,
không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại tất cả
đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại.
Thứ hai, quan niệm về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi
sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán của ông về vai trò
của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về sự trao đổi
của những mặt đối lập, về sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập.
Thứ ba, theo Hêraclít, sự vận động và phát triển không ngừng của thế
giới do quy luật khách quan (logos) quy định. Logos khách quan là trật tự
khách quan của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ,
học thuyết, lời nói, suy nghĩ của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với
logos khách quan.
Lý luận nhận thức của Hêraclít còn mang tính chất duy vật và biện chứng
sơ khai, nhưng về cơ bản là đúng đắn. Ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống
triết học khác không có tư tưởng biện chứng nào sâu sắc như vậy. Heraclít đã
đưa triết học duy vật cổ đại tiến lên một bước mới với những quan điểm duy
vật và những yếu tố biện chứng. Học thuyết của ông đã được nhiều nhà triết
học cận đại, hiện đại kế thừa và phát triển sau này. Mác và Ăngghen đã đánh

10
giá một cách đúng đắn giá trị triết học của Hêraclít, coi ông là đại biểu xuất sắc
của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen cũng vạch rõ
những hạn chế, sai lầm của Hêraclít về mặt chính trị. Đó là tính chất phản dân
chủ, thù địch với nhân dân và ông chủ trương dùng chính quyền để dập tắt
nhanh chóng phong trào dân chủ.
d. Pácmênít

Khái niệm trung tâm trong triết học của Pácmênít là tồn tại hết sức trừu
tượng song cũng chứa đựng những yếu tố biện chứng tự phát. Ông cho rằng với
cách nhìn cảm tính thì thế giới vô cùng đa dạng, phong phú, biến đổi không
ngừng và vô cùng sinh động. Nhưng bằng con đường cảm tính đơn thuần
không thể khám phá ra bản chất đích thực của thế giới. Chỉ với cách nhìn triết
học phù hợp với trí tuệ lý tính mới khám phá ra bản chất đích thực của thế giới.
Ông cho rằng bản chất của mọi vật trong thế giới là tồn tại. Học thuyết về tồn
tại của Pácmênít đánh dấu một bước tiến mới trong sự phát triển tư tưởng triết
học Hy Lạp, mang tính khái quát cao. Tuy nhiên, hạn chế trong học thuyết về
tồn tại của ông là ở chỗ ông đã đồng nhất tuyệt đối giữa tư duy và tồn tại và
mang tính chất siêu hình vì ông cho rằng tồn tại là bất biến.
e. Dênông
Dênông là học trò của Pácmênít. Công lao của ông là đã đặt ra nhiều vấn
đề biện chứng sâu sắc về mối liên hệ giữa tính thống nhất và tính nhiều vẻ của
thế giới, giữa vận động và đứng im, giữa tính gián đoạn của thời gian và không
gian, giữa tính hữu hạn và tính vô hạn, và về sự phức tạp trong việc thể hiện
quá trình vận động biện chứng của sự vật vào tư tưởng, vào lôgíc của khái
niệm. Tuy nhiên, những nghịch lý Apôria của ông chỉ có thể được giải quyết
nếu đứng trên lập trường duy vật biện chứng trong nhận thức sự vật.
f. Empêđôcơlơ
Empêđôcơlơ cho rằng nguồn gốc vận động của mọi sự vật là do sự tác
động của hai lực đối lập là Tình yêu và Căm thù. Quan điểm này là một bước
thụt lùi so với Hêraclít, bởi vì triết học Hêraclít giải thích nguồn gốc vận động

11
của vật chất là do sự xung đột của những mặt đối lập nội tại của sự vật. tuy
nhiên, Empêđôcơlơ cũng có một số phỏng đoán thiên tài về sự tiến hoá của giới
hữu cơ. Sự giải thích này của ông tuy còn ngây thơ nhưng đã manh nha hình
thành tư tưởng biện chứng về quá trình tiến hoá của sinh vật theo con đường từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.

g. Đêmôcrít
Đêmôcrít là một trong những người đã phát triển thuyết nguyên tử lên
một trình độ mới. Một mặt, ông tán thành lý thuyết tồn tại duy nhất và bất biến
của Pácmênít khi coi các nguyên tử là bất biến, mặt khác, ông kế thừa quan
điểm của Hêraclít cho rằng mọi sự vật biến đổi không ngừng. Đêmôcrít đã nêu
ra lý thuyết về vũ trụ học. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lý luận
nguyên tử về cấu tạo của vật chất, thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát và
có một ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử triết học. Đêmôcrít khẳng định: vũ trụ là
vô tận và vĩnh viễn, có vô số thế giới vĩnh viễn phát sinh, phát triển và bị tiêu
diệt. Quan điểm của Đêmôcrít về vận động gắn liền với vật chất là một phỏng
đoán có giá trị đặc biệt. Theo ông, vận động của nguyên tử là vĩnh viễn, và ông
đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên tử ở bản thân nguyên
tử, ở động lực tự thân, tự nó. Tuy nhiên ông đã không lý giải được nguồn gốc
của vận động. Dựa trên học thuyết nguyên tử, Đêmôcrít đã đi tới quan điểm
quyết định luận. Đó là thừa nhận sự ràng buộc theo luật nhân quả, tính tất nhiên
và khách quan của các hiện tượng tự nhiên. Đây là một quan điểm có giá trị của
Đêmôcrít đóng góp cho nền triết học Hy Lạp cổ đại. Về mặt bản thể luận,
Đêmôcrít đã có công đưa lý luận nhận thức duy vật lên một bước mới. Khác
với nhiều nhà triết học trước đó, phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt
đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, Đêmôcrít đã chia nhận thức thành hai
dạng là nhận thức cảm tính và nhận thức chân lý. Mặc dù triết học của
Đêmôcrít còn mang tính chất thô sơ, chất phác song những đóng góp của ông
về các tư tưởng biện chứng và thế giới quan duy vật là rất đáng ghi nhận.
h. Xôcrát và Platôn

12
Xôcrát và Platôn là hai đại diện tiêu biểu của hệ thống triết học duy tâm
Hy Lạp cổ đại. Triết học Xôcrát có đóng góp quan trọng vào việc tạo ra bước
tiến mới trong sự phát triển triết học Hy Lạp cổ đại. Nếu các nhà triết học trước
Xôcrát chủ yếu bàn về vấn đề khởi nguyên thế giới, về nhận thức luận thì

Xôcrát là người đầu tiên đưa đề tài con người trở thành chủ đề trọng tâm
nghiên cứu của triết học phương Tây. Theo Xôcrát, ý thức về sự vật của những
người trong đàm thoại, ngoài những yếu tố chủ quan còn có nội dung khách
quan, có tri thức phổ biến mang tính tổng quát. Ông cho rằng nếu không hiểu
cái chung, cái phổ biến thì người ta không thể phân biệt được cái thiện - cái ác,
cái tốt - cái xấu. Muốn phát hiện ra cái thiện phổ biến thì phải có phương pháp
tìm ra chân lý thông qua các cuộc tranh luận, toạ đàm, luận chiến. Đây chính là
yếu tố biện chứng trong triết học Xôcrát, song nó lại dựa trên lập trường duy
tâm vì Xôcrát cho rằng giới tự nhiên là do thần thánh an bài.
Platôn là học trò của Xôcrát. Các quan điểm triết học của ông chứa đựng
những yếu tố biện chứng. Ông thừa nhận sự vận động của thế giới song đó chỉ
là vận động theo sự điều khiển của ý niệm. Ông chia thế giới thành hai loại:
- Thế giới của những ý niệm: là thế giới tồn tại chân thực, bất biến, vĩnh
viễn, tuyệt đối và là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính.
- Thế giới của các sự vật cảm tính: là thế giới tồn tại không chân thực,
thường xuyên biến đổi và phụ thuộc vào thế giới của những ý niệm.
Lý luận nhận thức của Platôn cũng chứa đựng những yếu tố biện chứng
thông qua các khái niệm đối lập và phương pháp đối chiếu những mặt đối lập.
Nhưng đó là biện chứng duy tâm - biện chứng của các khái niệm, tách rời hiện
thực, từ bỏ cảm giác, chỉ nhận thức bằng tư duy thuần tuý.
Tóm lại, phép biện chứng duy tâm của Xôcrát và Platôn còn nhiều hạn
chế do chịu sự tác động của điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội đương thời.
Song sự xuất hiện của hệ thống triết học Platôn cùng với phép biện chứng duy
tâm đã để lại dấu ấn trong lịch sử triết học bằng cuộc đấu tranh giữa hai đường
lối triết học Đêmôcrít và Platôn, tạo điều kiện cho tư duy triết học Hy Lạp cổ

13
đại có cơ hội khám phá và phát triển.
i. Arixtốt
Xu hướng duy vật và tư tưởng biện chứng trong triết học tự nhiên của

Arixtốt thể hiện ở ông thừa nhận tự nhiên là toàn bộ sự vật có một bản thể vật
chất mãi mãi vận động và biến đổi, không có bản chất của sự vật tồn tại bên
ngoài sự vật, hơn nữa sự vật nào cũng là một hệ thống và có quan hệ với các sự
vật khác. Ông cho rằng, vận động gắn liền với các vật thể, với mọi sự vật hiện
tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định, vận động là không thể bị tiêu
diệt, đã có vận động và mãi mãi sẽ có vận động. Trong lập luận này, ông đã
tiến gần đến quan niệm vận động là tự thân của vật chất. Song cuối cùng ông
lại rơi vào duy tâm khi cho rằng thần thánh là nguồn gốc của mọi vận động.
Tuy nhiên, nếu như trước đây Hêraclít và Đêmôcrít chưa phân biệt được các
hình thức của vận động thì đến Arixtốt là người đầu tiên đã hệ thống hoá các
hình thức vận động thành sáu dạng khác nhau. Lý thuyết về vận động của
Arixtốt là một thành quả có giá trị cao của khoa học cổ Hy Lạp. Về lôgíc học,
Arixtốt đã cố gắng giải quyết mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa cái
chung và cái riêng nhưng ông không giải quyết được vấn đề chuyển hoá từ cái
riêng thành cái chung. Lôgíc học hình thức của Arixtốt tuy chưa hoàn hảo song
ông đã để lại cho nhân loại một môn khoa học về tư duy. Chính ông đã nghiên
cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứng mà không tách rời
chúng khỏi hiện thực. Tuy nhiên, do hạn chế về lịch sử và là nhà tư tưởng của
giai cấp chủ nô Hy Lạp cho nên về bản thể luận triết học, ông dao động giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm nên ông lại rơi vào phái nhị nguyên
luận.
Tóm lại, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện rất rõ nét cuộc đấu tranh giữa
biện chứng và siêu hình mà song song với nó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Với các thành tựu nổi bật như thuyết nguyên tử
của Đêmôcrít, phép biện chứng duy tâm của Xôcrát, Platôn và phép biện chứng
chất phác của Arixtốt, triết học Hy Lạp cổ đại đã bao chứa mầm mống của tất

14
cả thế giới quan về sau này và đánh dấu sự phát triển tư duy biện chứng trong
lịch sử triết học nhân loại. Chính vì vậy, Lênin coi phép biện chứng của các nhà

triết học Hy Lạp cổ đại là khởi nguyên lịch sử phép biện chứng.
III. SỰ HÌNH THÀNH PHÉP BIỆN CHỨNG THỜI KỲ PHỤC HƯNG
VÀ CẬN ĐẠI Ở TÂY ÂU
Trước khi bước sang thế kỷ XV- XVI ở Tây Âu là thời đại phục hưng,
lịch sử triết học đã trải qua thời kỳ trung cổ với sự thống trị của tư tưởng thần
học. Do đó, chủ nghĩa kinh viện trở thành nét chủ đạo của triết học Tây Âu
thời trung cổ. Trong giai đoạn này, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm được biến tướng thành cuộc đấu tranh giữa hai quan điểm
của phái Duy danh và Duy thực. Có thể nói đây là bước lùi tạm thời trong lịch
sử phát triển tư duy triết học nói chung và tư duy biện chứng nói riêng, song
vẫn chứa đựng những nhân tố cho sự phát triển mới của triết học trong thời
đại phục hưng.
1. Phép biện chứng trong thời kỳ phục hưng
Trong thời kỳ này, chủ nghĩa duy vật được khôi phục và biến đổi cùng
với sự biến đổi của khoa học tự nhiên và dựa vào những thành tựu của khoa
học tự nhiên để tiến hành cuộc đấu tranh chống thế giới quan thần học. Nhiều
học thuyết triết học thời kỳ này đã phục hồi phép biện chứng tự phát thời cổ đại
và khái quát thành những thành tựu của khoa học tự nhiên tiên tiến. Một số tư
tưởng biện chứng nổi bật của thời kỳ này được thể hiện trong triết học của
Kudan và Brunô.
a. Triết học Kudan
Tư tưởng biện chứng của Kudan được thể hiện qua học thuyết về sự phù
hợp của các mặt đối lập. Song lập trường triết học của ông lại không thoát khỏi
tính chất duy tâm thần bí khi cho rằng Thượng đế là sự thống nhất giữa các mặt
đối lập. Kudan cũng đã nêu lên tính tương đối của nhận thức con người, mặc dù
còn hạn chế song nó đã đặt nền móng cho tư tưởng biện chứng về quá trình
nhận thức cho triết học về sau.

15
b. Triết học của Brunô

Brunô có vai trò quan trọng trong sự phát triển phép biện chứng. Ông nêu
ra tư tưởng biện chứng về sự phù hợp của các mặt đối lập trong sự thống nhất vô
tận của vũ trụ. Theo ông, trong giới tự nhiên, mọi cái đều có liên hệ với nhau và
đều vận động. Cái này mất đi thì cái khác ra đời, không chỉ là sự vận động mà
còn là sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập, ví dụ như tình yêu chuyển thành căm
thù và ngược lại hay thuốc độc cũng chữa được bệnh. Về mặt nhận thức luận,
Brunô đã đưa ra quan niệm biện chứng trong việc nhận thức giới tự nhiên. Ông
cho rằng ai muốn nhận thức những bí mật của giới tự nhiên thì hãy xem xét cái
tối thiểu và cái tối đa của những mâu thuẫn và những mặt đối lập. Mặc dù có
những tư tưởng tiến bộ nhưng thế giới quan triết học của Brunô vẫn chịu ảnh
hưởng tư tưởng triết học sai lầm của Arixtốt coi vật chất đầu tiên là hoàn toàn
thụ động, phải nhờ đến tính năng động của hình dạng thì nó mới có tính năng
động.
2.Phép biện chứng trong thời kỳ cận đại
Triết học thời kỳ này gắn chặt với các thành tựu của khoa học tự nhiên.
Nếu như triết học cổ đại dựa trên cơ sở quan sát và các phỏng đoán thiên tài thì
thời kỳ này triết học lại dựa vào các thành tựu của khoa học tự nhiên, khái quát
các thành tựu của khoa học tự nhiên và được chứng minh bằng khoa học tự
nhiên. Các nhà khoa học tự nhiên thời kỳ này cũng đồng thời là nhà triết học.
Tuy nhiên, triết học Tây Âu thời cận đại lại rơi vào siêu hình, máy móc. Các
nhà khoa học thời kỳ này đi sâu vào từng lĩnh vực riêng biệt để nhận thức. Điều
này cho phép nhận thức sâu sắc về tự nhiên song lại tạo ra một thói quen xem
xét tự nhiên trong trạng thái cô lập, tĩnh tại của nó. Từ đó làm xuất hiện sự
thống trị của phương pháp tư duy siêu hình. Tuy nhiên một số học thuyết triết
học thời kỳ này vẫn chứa đựng những quan điểm biện chứng sâu sắc, với các
đại biểu như Phrăngxi Bêcơn, Barút Xpinôda, Rơnê Đêcáctơ.
a. Triết học của Phrăngxi Bêcơn
Về cơ bản, P. Bêcơn là một nhà duy vật, ông thừa nhận thế giới là sự kết

16

hợp những biến đổi khác nhau của vật chất và đã có vật chất thì nó luôn vận
động, biến đổi. Ông đưa ra 19 hình thức vận động, trong đó có một hình thức
đặc biệt là đứng im. Tuy bàn về sự vận động song ông lại quy vận động thành
các hình thức vận động cơ học, vì vậy, P.Bêcơn chưa thoát khỏi quan điểm của
một nhà duy vật siêu hình. Tuy nhiên, cống hiến mới của ông là đã coi đứng im
là một hình thức vận động và coi vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Về nhận thức luận, P. Bêcơn có đóng góp lớn về phép quy nạp trong nhận thức,
song ông lại đề cao nhận thức kinh nghiệm. Vì vậy, nhãn quan triết học của ông
vẫn mang tính chất siêu hình.
b. Triết học của Barút Xpinôda
Xpinôda là một nhà tư tưởng duy vật xuất sắc của Hà Lan. Triết học của
ông chứa đựng một số yếu tố biện chứng, thể hiện qua nguyên lý Causasui
(nguyên nhân tự nó). Trong đó, ông cho rằng quan hệ giữa thực thể và dạng
thức là sự thống nhất giữa cái chung và cái đơn nhất, giữa cái duy nhất và cái
đa dạng. Tư tưởng này đã đi gần tới quan điểm về mối liên hệ phổ biến và sự
ràng buộc lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên. Về nhận
thức luận, ông cho rằng con người có khả năng nhận thức thế giới song ông lại
rơi vào quan điểm siêu hình khi cường điệu hoá nhận thức kinh nghiệm, hạ
thấp vai trò của tư duy trừu tượng và khái quát khoa học.
c. Triết học của Rơnê Đêcáctơ
Rơnê Đêcáctơ là đại biểu xuất sắc nhất của triết học Pháp thế kỷ XVII.
Đêcáctơ cho rằng không gian và thời gian là thuộc tính gắn liền với vật thể, vận
động là không thể bị tiêu diệt, nó luôn luôn gắn liền với các vật thể, vật thể
luôn vận động, chuyển đổi vị trí, tức là vận động trong không gian. Tuy nhiên,
trong giai đoạn này khoa học chưa phát triển đến trình độ cho phép phát hiện ra
các hình thức vận động khác nhau của vật chất cho nên Đêcáctơ hiểu vận động
của vật chất chỉ là vận động cơ giới hay chuyển dịch vị trí trong không gian. Về
nhận thức luận, Đêcáctơ đã tách rời hai giai đoạn cảm tính và lý tính của nhận
thức nên ông vẫn là một nhà duy vật siêu hình.


17
Như vậy, ngay cả trong giai đoạn phương pháp tư duy siêu hình giữ vị trí
thống trị thì trong các học thuyết triết học vẫn xuất hiện những yếu tố biện
chứng sâu sắc. Do sự kìm hãm của phương pháp siêu hình từ khoa học tự nhiên
chuyển sang triết học, phép biện chứng chưa có cơ hội để phát triển mạnh mẽ
trong thời kỳ phục hưng và cận đại song đây là bước chuẩn bị cho phép biện
chứng duy tâm cổ điển Đức ra đời.
IV. SỰ HÌNH THÀNH PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỔ ĐIỂN ĐỨC
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, trước sự đòi hỏi của sự phát triển
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên
đã phát triển đạt đến trình độ cao. Phương pháp tư duy siêu hình đã bộc lộ
những hạn chế và bất lực trong việc giải quyết các vấn đề về tự nhiên và xã
hội. Triết học cổ điển Đức ra đời đem lại cái nhìn mới về bản chất các hiện
tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại. Sự phát triển của các tri thức
triết học trong thời kỳ này đòi hỏi phải có phép biện chứng với tư cách là một
phương pháp lý giải các vấn đề cấp bách của triết học và hơn thế nâng nó lên
thành một khoa học thật sự. Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức bắt đầu
được hình thành ở Cantơ và hoàn chỉnh ở Hêghen. Triết học cổ điển Đức đã
xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học đối lập với
phương pháp tư duy siêu hình trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên
và xã hội. Giả thuyết về sự hình thành vũ trụ của Cantơ cũng như việc phát
hiện ra các quy luật và phạm trù cơ bản của phép biện chứng trong triết học
của Hêghen làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học đã thực sự
mang ý nghĩa cách mạng trong triết học.
1. Phép biện chứng của Imanuen Cantơ
Cantơ được đánh giá là người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức. Ông
là tác giả của hai phát minh quan trọng về khoa học tự nhiên. Phát minh thứ
nhất là giả thuyết về sự hình thành vũ trụ từ những hạt bụi vật chất dưới tác
dụng của các lực hút và lực đẩy của vật chất; phát minh thứ hai là giả thuyết về
sự lên xuống của thủy triều dưới tác động của mặt trăng và trái đất. Vào thời kỳ


18
đó, khi mà quan niệm siêu hình đang thống trị trong tư duy khoa học tự nhiên
và triết học thì phát minh lý thuyết của Cantơ có một ý nghĩa tiến bộ vượt thời
đại. Ý nghĩa lớn lao của hai phát minh này thể hiện ở chỗ nó xuất phát từ chính
bản thân những tính chất của vật chất để giải thích giới tự nhiên mà không cần
cầu viện đến một thứ lực lượng thần bí siêu tự nhiên nào. Hơn nữa, hai phát
minh này còn đem lại một quan điểm có tính chất biện chứng về giới tự nhiên.
Nó cho thấy giới tự nhiên tác động qua lại lẫn nhau và vận động chuyển hoá
không ngừng. Về nhận thức luận, Cantơ đưa ra phạm trù “vật tự nó” là cái nằm
ngoài khả năng nhận thức của con người và tư duy khoa học. Có thể nói, Cantơ
vẫn đứng trên lập trường của tư duy siêu hình để giải quyết vấn đề khả năng
nhận thức của con người, ông chưa thể giải quyết được mối quan hệ biện chứng
giữa bản chất và hiện tượng của tồn tại.
2. Phép biện chứng của Hêghen
Hêghen là một nhà biện chứng lỗi lạc. Ông là người xây dựng nên phép
biện chứng một cách có hệ thống trên lập trường duy tâm khách quan. Triết học
của ông là một tiền đề lý luận của triết học Mácxít.
Hêghen đã có công lao trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là
người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một
quá trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Ông
khẳng định phép biện chứng là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và
mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực; cái biện chứng là linh hồn của mọi
nhận thức khoa học. Như vậy, theo Hêghen, hiện thực không phải là tồn tại nói
chung, mà là tồn tại trong tính tất yếu của nó, đó là hiện thực trong sự phát
triển. Những luận điểm về phép biện chứng của triết học Hêghen được thể hiện
rõ nhất và sâu sắc nhất trong lôgíc học. Biện chứng của khái niệm trong khoa
học lôgíc bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Những khái niệm không những khác nhau mà còn có mối liên hệ với nhau;
- Mỗi khái niệm đều phải trải qua một quá trình phát triển được thực hiện

trên cơ sở của ba nguyên tắc:

19
+ Nguyên tắc thứ nhất: Chất và lượng quy định lẫn nhau. Những chuyển
hoá về lượng sẽ dẫn tới những biến đổi về chất và ngược lại;
+ Nguyên tắc thứ hai: Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
với tư cách là nguồn gốc và động lực của sự phát triển;
Khi nghiên cứu các nguyên tắc này, Hêghen đã giải quyết một cách biện
chứng mối liên hệ chuyển hoá giữa bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện
thực, nguyên nhân và kết quả.
+ Nguyên tắc thứ ba: Phủ định của phủ định với tính cách là sự phát triển
diễn ra theo hình thức xoáy ốc. Khi lý giải nguyên tắc này, Hêghen đã giải
quyết một cách biện chứng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa lôgíc
và lịch sử.
Trong tác phẩm “Triết học tự nhiên”, Hêghen đã nêu lên những tư tưởng
biện chứng tài tình về sự thống nhất của vật chất và vận động; về tính chất mâu
thuẫn của những phạm trù không gian, thời gian và vận động; về sự phụ thuộc
của những đặc tính hoá học vào những thay đổi về lượng
Tuy nhiên, do đứng trên lập trường duy tâm khách quan, Hêghen cho
rằng đời sống xã hội và lịch sử diễn ra là sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối. Và
một khi giới tự nhiên và lịch sử nhân loại đã đạt tới sự hoàn thiện, hoàn mỹ
nhất thì khi đó giới tự nhiên không vận động và phát triển về mặt thời gian mà
chỉ vận động về mặt không gian. Đến đây, những tư tưởng biện chứng của ông
lại bị giới hạn bởi quan điểm siêu hình vì ông cho rằng sự phát triển có tận
cùng.
Tóm lại, Hêghen đã khái quát một cách sâu sắc và có hệ thống về những
vấn đề cốt lõi nhất của phép biện chứng và cần phải thừa nhận rằng những tư
tưởng biện chứng của ông là những tư tưởng tiến bộ, cách mạng. Song hệ thống
triết học của ông lại duy tâm, bảo thủ và đi ngược lại sự tiến bộ, cách mạng.
Một đại diện tiêu biểu khác của nền triết học cổ điển Đức là Lútvích

Phơbách. Chủ nghĩa duy vật của Phơbách là một sự phản ứng tất yếu đối với
chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen. Là một nhà duy vật song Phơbách

20
lại không kế thừa được những tư tưởng biện chứng của Hêghen. Vì vậy,
Phơbách cũng chỉ đạt tới quan niệm duy vật siêu hình, trực quan về giới tự
nhiên còn trong các quan niệm về xã hội và lịch sử, ông vẫn đứng trên lập
trường duy tâm. Tuy nhiên, triết học của Phơbách được coi là “chiếc cầu nối”
từ triết học Hêghen sang triết học Mác và Ăngghen.
V. SỰ HÌNH THÀNH PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT MÁCXÍT
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
được Mác và Ăngghen sáng lập nên và được Lênin phát triển hơn nữa vào đầu
thế kỷ XX. Tuy nhiên cần phải thấy rằng sự hình thành thế giới quan duy vật
biện chứng của Mác và Ăngghen là một quá trình đầy khó khăn, phức tạp, dựa
trên các tiền đề kinh tế - xã hội, tiền đề lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên.
- Tiền đề kinh tế - xã hội: đầu thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa phát triển mạnh làm bộc lộ những mâu thuẫn bên trong của nó mà
biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Nhiều phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nổ ra song còn mang tính
chất tự phát, cảm tính và thiếu tổ chức. Nó đòi hỏi phải có một vũ khí lý luận
sắc bén soi đường cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Chủ
nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng ra đời đáp ứng yêu cầu đó.
- Tiền đề lý luận: Triết học Mác ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển
các giá trị trong các tư tưởng triết học tiến bộ của nhân loại, đặc biệt phép biện
chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phơbách là một trong những tiền
đề lý luận trực tiếp của triết học Mác.
- Tiền đề khoa học tự nhiên: Ba phát minh lớn của khoa học tự nhiên thời
kỳ này là định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, học thuyết về tế bào và
thuyết tiến hoá của Darwin. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên đòi
hỏi phải khái quát về mặt triết học để chỉ ra các mối liên hệ giữa các quá trình

diễn ra trong tự nhiên, trên cơ sở đó nhận thức đúng đắn và toàn diện về bản
chất của các quá trình phát triển đó. Điều này tất yếu dẫn tới sự thay thế thế
giới quan duy tâm và phương pháp siêu hình bằng phép biện chứng duy vật.

21
Chính Mác và Ăngghen đã khái quát về mặt triết học toàn bộ những thành tựu
của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
1. Phép biện chứng duy vật trong giai đoạn Mác - Ăngghen
Triết học Mác là học thuyết duy vật triệt để về tự nhiên, xã hội và con
người. Mác và Ăngghen đã thực hiện một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử
triết học, đó là cho ra đời một hình thức cao của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và hình thức cao của phép biện chứng là phép biện chứng
duy vật. Nếu như các quan điểm triết học trước Mác mới chỉ dừng lại ở thế giới
quan duy vật siêu hình hay biện chứng duy tâm về xã hội thì đến giai đoạn Mác
- Ăngghen, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, phép biện chứng được xây dựng
dựa trên lập trường duy vật triệt để về tự nhiên và xã hội. Hơn thế, tính đúng
đắn của khoa học Mácxít luôn được minh chứng bởi các thành tựu vượt bậc của
khoa học thời đại.
Sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen là
một quá trình phát triển liên tục không ngừng. Từ cuối năm 1843 đến năm 1848
đánh dấu bước chuyển của Mác và Ăngghen từ lập trường của chủ nghĩa duy
tâm sang lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đánh dấu bước chuyển
đó là tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, lời nói
đầu” vào cuối năm 1843. Tác phẩm chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật biện
chứng sâu sắc. Cuối năm 1844, Mác và Ăngghen viết chung tác phẩm “Gia
đình thần thánh”, “Chống Brunô Bauơ và đồng bọn”. Trong đó, lần đầu tiên
Mác và Ăngghen trình bày những nguyên lý của triết học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử. Mùa xuân năm 1845, Mác viết tác phẩm “Luận cương về
Phơbách”, qua đó Mác phê phán những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật

Phơbách cũng như những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác nói chung.
Đó là sự phê phán có tính kế thừa của Mác để tiến đến chủ nghĩa duy vật mới là
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Năm 1845 - 1846, Mác và Ăngghen viết chung
tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, đánh dấu bước tiến mới của Mác và Ăngghen

22
trong việc phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa cộng sản khoa học. Tác phẩm “Chống Đuyrinh” của Ăngghen được
viết vào năm 1876 - 1878 là một trong những tác phẩm quan trọng nhất đánh
dấu sự phát triển của triết học Mác. Trong tác phẩm, lần đầu tiên Ăngghen trình
bày hoàn chỉnh thế giới quan Mácxít về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử. Qua tìm hiểu một số tác phẩm kinh điển của Mác - Ăngghen có thể
thấy rằng sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen
là một quá trình tự đấu tranh gian khổ để từ bỏ lập trường triết học duy tâm
chuyển sang lập trường triết học duy vật biện chứng.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương
pháp. Nó không chỉ khái quát các thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể mà
còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng triết học nhân
loại. Phép biện chứng duy vật trình bày một cách có hệ thống, chặt chẽ tính
chất biện chứng của thế giới thông qua những phạm trù và những quy luật
chung nhất của thế giới, bao gồm các nội dung cơ bản sau:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát những mối liên hệ phổ
biến của thế giới(tự nhiên, xã hội và tư duy). Vì vậy, quán triệt quan điểm toàn
diện là nguyên tắc phương pháp luận chung nhất chỉ đạo mọi hoạt động và suy
nghĩ của con người. Quan điểm toàn diện đối lập với mọi suy nghĩ và hành
động phiến diện, chiết trung, siêu hình.
- Nguyên lý về phát triển phản ánh đặc trưng biện chứng phổ quát nhất
của thế giới. Vì vậy, quán triệt quan điểm phát triển là nguyên tắc chung nhất
chỉ đạo mọi hành động và suy nghĩ của con người. Yêu cầu của nguyên tắc này
đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự vận động, biến đổi và phát triển của nó,

phải tư duy năng động, linh hoạt, mềm dẻo và phải nhận thức được cái mới và
ủng hộ cái mới.
Lý luận về các cặp phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật là
sự cụ thể hoá thêm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và phát triển.
- Các cặp phạm trù: cái riêng - cái chung, tất nhiên - ngẫu nhiên, bản

23
chất-hiện tượng giúp chúng ta rút ra được mối liên hệ bản chất, từ đó hiểu được
toàn bộ các mối liện hệ theo một hệ thống nhất định.
- Các cặp phạm trù: nguyên nhân - kết quả, khả năng - hiện thực là cơ sở
phương pháp luận để chỉ rõ trình tự kế tiếp nhau của các mối liên hệ và sự phát
triển là một quá trình tự nhiên.
- Cặp phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây
dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa
dạng của các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp
luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện,
phát triển và lịch sử cụ thể.
- Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hạt nhân của
phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển,
phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật.
- Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi
về chất và ngược lại phản ánh cách thức, cơ chế của quá trình phát triển là đi từ
những biến đổi nhỏ nhặt, dần dần về lượng đến giới hạn của độ thì gây ra sự
biến đổi về chất, thông qua bước nhảy vọt và ngược lại.
- Quy luật phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển tiến
lên theo hình thức xoáy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển.
Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa có chọn lọc.
Tóm lại, sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và
Ăngghen vừa là kết quả khái quát kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và kế thừa

có phê phán di sản lý luận của loài người, vừa là kết quả nghiên cứu, tiếp thu có
chọn lọc các thành tựu khoa học. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật của thời đại đã
chứng minh tính đúng đắn của phép biện chứng duy vật Mácxít và nâng nó lên
thành đỉnh cao của phép biện chứng. Mặc dù vậy, các nguyên lý của phép biện
chứng duy vật cần tiếp tục được thực tiễn kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển.
Không ai khác, Lênin và các đảng Mácxít đã đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử đó

24

×